Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ DẠNG LÕM NGỰC Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Trần Thanh Vỹ *, Trương Anh Mậu**, Lê Phước Tân**, Ngô Hồng Phúc**, Nguyễn Thị Ngọc Ngà**,
Võ Duy Khánh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu triển khai điều trị dị dạng thành ngực và áp dụng kỹ thuật Nuss
trong điều trị lõm ngực bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 10/2011 đến 03/2013.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt các trường hợp bệnh. Mẫu nghiên cứu gồm các bệnh nhân đến khám
tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 10/2011 đến 03/2013. Mô tả các đặc điểm chung của bệnh nhân. Phân loại hình thái
biến dạng dựa vào bảng phân loại Park. Bệnh nhân lõm ngực có chỉ định phẫu thuật được đặt thanh kim loại tạo
thành vòm dưới xương ức qua vết mổ nhỏ hai bên ngực, thanh kim loại được xoay ngược lại và chống thành
ngực bị lõm lên và chỉnh sửa lại được dị dạng. Đánh giá kết quả ban đầu trong thời gian theo dõi ít nhất 3 tháng.
Kết quả: Có 40 bệnh nhi (27 nam và 13 nữ) được điều trị phẫu thuật, trong đó có 33 ca thuộc dạng 1a, 6 ca
thuộc dạng 1b và 1 ca thuộc dạng 2a1 theo bảng phân loại của tác giả Park. Tuổi trung bình của bệnh nhi là 9,5
(nhỏ nhất: 3 tuổi, lớn nhất: 15 tuổi). Thời gian phẫu thuật trung bình 80 phút (ngắn nhất 45 phút, lâu nhất 150
phút). Thời gian nằm viện trung bình là 5 ngày (ngắn nhất 4 ngày, dài nhất 14 ngày). Chỉ duy nhất 1 trường
hợp đặt 2 thanh. Biến chứng: Có 3 trường hợp viêm phổi thùy, 9 trường hợp tràn khí dưới da nhưng đều tự hấp
thu và 3 trường hợp lõm ngực tồn lưu. Tỷ lệ hài lòng của người nhà là khoảng 80%.
Kết luận: Kết quả bước đầu cho thấy phương pháp Nuss hiệu quả và an toàn, ít biến chứng trong điều trị
lõm ngực bẩm sinh.
Từ khóa: Dị dạng thành ngực.
ABSTRACT
RESULT OF PECTUS EXCAVATUM DEFORMITY TREATMENT AT THE CHILDREN’S HOSPITAL 2
Tran Thanh Vy, Truong Anh Mau, Le Phuoc Tan, Ngo Hong Phuc, Nguyen Thi Ngoc Nga,
Vo Duy Khanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 187 ‐ 192
Objectives: The aim of this study was to assess the initial results of pectus excavatum deformity treatment
by Nuss procedure at the Children’s Hospital 2 from 10/2011 to 03/2013.
Methods: Case series study. From 10/2011 to 03/2013, all patients evaluated for pectus excavatum
deformity at the Children’s Hospital 2 were selected in our study. We described common characteristics of these
patients, classified deformity patterns based on Park’s classification. A convex steel bar is inserted under the
sternum of patients with pectus excavatum through small bilateral thoracic incisions. The steel bar is inserted
with the convexity facing posteriorly and when it is in position, the bar is turned over, thereby correcting the
deformity. Short term results were estimated in at least 3 months.
Results: From 10/2011 to 03/2013, 40 patients (27 males and 13 females) were evaluated for pectus
excavatum deformity at the Children’s Hospital 2, composed of 33 cases of type 1a, 6 cases of type 1b, 1 cases
of type 2a1of Park’s classification with mean age 9.5 years (min: 3 years, max: 15 years). Mean
* Đại Học Y Dược TP HCM
** Bệnh Viện Nhi Đồng 2.
Tác giả liên lạc: Bs Trương Anh Mậu
Chuyên Đề Ngoại Nhi
ĐT: 0919351195
Email:
187
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
hospitalisation stay: 5 days (min 4 days, max 14 days). The mean times of surgery were 80 minutes (min: 45
minutes, max: 150 minutes). Only 1 patient were used 2 bars. Complications: 3 cases of lobar pneumonia,
9 case of subcutaneous emphysema (all spontaneous absorption), 3 cases of persistent pectus excavatum.
Satisfaction of patient’s family is 80%.
Conclusion: Nuss operation is safe, effective, less complications in treating the pectus excavatum.
Key words: Pectus excavatum deformity treatment.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị dạng lồng ngực được chia thành hai
nhóm: Dị dạng thành ngực sau và dị dạng thành
ngực trước.
Dị dạng thành ngực sau bao gồm các dị
dạng về cột sống: Gù, vẹo, ưỡn cột sống.
Dị dạng thành ngực trước bao gồm: Ngực
phễu (pectus excavatum), ngực ức gà (pectus
carinatum), hở xương ức (cleft sternum), hội
chứng Poland, tim ngoài lồng ngực, teo hẹp lồng
ngực bẩm sinh. Trong các dị dạng trên,lõm ngực
bẩm sinh chiếm tỉ lệ cao nhất 90% dị dạng lồng
ngực(7,1).
Dị dạng lõm ngực bẩm sinh là biến dạng
lồng ngực do sự phát triển bất thường của một
số xương sườn và xương ức làm cho lồng ngực
bị lõm vào.
Mặc dù chưa có bằng chứng về gen liên
quan tới bệnh, yếu tố di truyền cũng được ghi
nhận ở bệnh này. Khoảng 35% người lõm ngực
có người thân trong gia định cùng bị bệnh.
Người ta ghi nhận có thể có sự liên quan giữa
bệnh lý này và hội chứng Marfant(1).
Theo các nghiên cứu của Mỹ, tỉ lệ dị tật
này chiếm từ 1/400 – 1/300 trẻ sinh sống, trẻ
trai chiếm ưu thế so với trẻ gái với tỷ lệ 3:1(1).
Tại Việt Nam chưa tìm thấy nghiên cứu về tần
suất dị tật này.
Lõm ngực nếu không điều trị tùy theo mức
độ sẽ gây các vấn đề về đau do biến dạng
xương, căng cơ hoặc chèn ép tim phổi ảnh
hưởng đến hoạt động thể lực của bé. Ngoài ra
tâm lý mặc cảm với hình thức dị dạng của mình
khi trẻ lớn cũng có thể ảnh hưởng đến tâm sinh
lý của trẻ (thiếu tự tin, chậm phát triển).
188
Trước đây, phẫu thuật Ravitch (cải biên) là
phẫu thuật duy nhất và chuẩn mực để sửa chữa
dị dạng lõm ngực bẩm sinh. Tuy nhiên đây là
phẫu thuật gây tàn phá, để lại sẹo lớn và một
lồng ngực tuy không lõm nhưng cũng không
đẹp. Năm 1987, Donald Nuss giới thiệu phẫu
thuật ít can thiệp (Nuss procedure), luồn một
thanh kim loại qua ngực để nâng phần ngực lõm
lên. Phẫu thuật này ngày càng được chấp nhận
như một phương pháp thay thế cho kỹ thuật của
Ravitch. Kỹ thuật này có ưu điểm lớn là xâm lấn
tối thiểu, ít tàn phá, thời gian phẫu thuật nhanh,
ít mất máu, trẻ nhanh chóng hồi phục về với
cuộc sống bình thường do thời gian nằm viện
ngắn(3, 2,4,5). Các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Thái Lan và Singapore đã áp
dụng phẫu thuật Nuss từ nhiều năm về trước(4,
5). Tại Việt Nam, bệnh viện Chợ Rẫy; bệnh viện
Đại Học Y Dược đã thực hiện phẫu thuật loại
này từ năm 2008 với kết quả rất tốt cho thấy
phương pháp Nuss là an toàn và hiệu quả, ít
biến chứng(6)
Đáp ứng nhu cầu điều trị về bệnh lý này,
khoa CTCH bệnh viện Nhi Đồng 2 và bệnh viện
Đại Học Y Dược cũng đã tiến hành thực hiện
loại phẫu thuật lõm ngực từ 10/2011 và đạt được
một số kết quả nhất định. Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm trình bày những kinh
nghiệm bước đầu có được về điều trị dị dạng
này ở trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả bước đầu triển khai điều trị
dị dạng thành ngực và áp dụng kỹ thuật Nuss
trong điều trị lõm ngực bẩm sinh tại bệnh viện
Nhi Đồng 2 từ 10/2011 đến 03/2013.
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhi có dị dạng lõm ngực
được điều trị phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Đồng
2 từ 10/2011 đến 03/2013.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả một loạt các trường hợp.
Phương pháp thực hiện
trong lồng ngực. Khi thanh đã vào lồng ngực,
xoay ngược thanh với trợ cụ để thanh bẩy lồng
ngực lõm lên, từ đó chỉnh được biến dạng lõm
của lồng ngực. Cố định thanh với chỉ thép 2 bên
xương sườn.
Giảm đau hậu phẫu bằng Morphin truyền
tĩnh mạch hoặc hỗn hợp Marcain + Fentanyl.
Biến chứng hậu phẫu được phát hiện bằng
khám lâm sàng và XQ.
Thời gian theo dõi ít nhất 3 tháng.
Bệnh nhi lõm ngực được thiết lập chẩn đoán
bằng thăm hỏi bệnh sử, khám lâm sàng và chụp
XQ phổi thẳng và nghiêng.
KẾT QUẢ
Phân loại lõm ngực theo bảng phân loại
Park(4,5):
Bảng 1: Giới
Type IA: Lõm đồng tâm khu trú.
Type IB: Lõm đồng tâm dẹt rộng.
Nghiên cứu Y học
Giới
Nam
Nữ
Số ca
27
13
%
68
32
Type IIA1: Lõm lệch tâm khu trú.
Tuổi
Type IIA2: Lõm lệch tâm dẹt rộng.
Type IIA3: Lõm lệch tâm tạo kênh sâu, dài.
Trung bình 9,5 tuổi, nhỏ nhất: 3 tuổi, lớn
nhất: 15 tuổi.
Type hỗn hợp: Phối hợp lồi và lõm.
Địa chỉ cư ngụ
Hở xương ức khám lâm sàng thấy khuyết
giữa ngực, thấy tim và mạch máu lớn đập
dưới da.
Hội chứng Poland gồm mất cơ ngực lớn, bất
sản sụn sườn, tật dính các ngón tay.
Bảng 2: Địa chỉ cư ngụ
TPHCM
Tỉnh
Số ca
30
10
%
75
25
Phân loại lõm ngực
Do bước đầu thực hiện phẫu thuật loại này
nên chúng tôi chỉ khu trú lựa chọn bệnh nhân
phẫu thuật Type IA, Type IB, Type IIA1, Type
IIA2.
Bảng 3: Phân loại lõm ngực
Chỉ định mổ khi bệnh nhân có dấu hiệu mệt
khi gắng sức, đẩy lệch tim trên XQ phổi, hoặc
bệnh nhân than phiền về thẩm mỹ. Khi có chỉ
định phẫu thuật bệnh nhân được chỉ định xét
nghiệm tiền phẫu, chụp CT ngực đo chỉ số
Haller, siêu âm tim và đo chức năng hô hấp.
Dị tật đi kèm, bệnh di truyền và liên quan
tính chất gia đình: Ghi nhận 2 trường hợp có hở
2 lá nhẹ do sa van.
Phẫu thuật Nuss tiến hành bằng cách xác
định lại type biến dạng và các vị trí lồi lõm trên
thành ngực, treo xương ức lên giá đỡ, đo và uốn
thanh kim loại trước. Rạch hai vết mổ 3 cm hai
bên thành ngực, dùng clamp cán dài bóc tách
trung thất xuyên qua khoang màng phổi đối
bên, đặt thanh kim loại đã uốn định hình vào
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Type
IA
IB
IIA1
Số ca
33
06
01
%
83
15
2
Chỉ số Haller trung bình trước và sau mổ
Bảng 4: Chỉ số Haller trung bình trước và sau mổ
Trước mổ
3,9 ± 0,8
Sau mổ
2,6 ± 0,5
Thời gian phẫu thuật
Trung bình 60 phút, ngắn nhất 45 phút, dài
nhất 150 phút.
Số thanh kim loại được đặt.
189
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Bảng 5: Số thanh kim loại được đặt
Số thanh
1 thanh
2 thanh
Số bệnh nhân
39
01
này.
%
98
2
Thời gian nằm viện
Trung bình 5 ngày, ngắn nhất 4 ngày, dài
nhất 14 ngày.
Biến chứng
Bảng 6: Biến chứng
Viêm phổi thùy
Tràn khí dưới da
Di lệch khung kim loại
Đau nhiều sau mổ
Số lượng
3
5
3
15
%
7,5
12,5
7,5
37,5
Mức độ hài lòng của người nhà.
Bảng 7: Mức độ hài lòng của người nhà
Rất hài lòng
Hài lòng
Chấp nhận được
Số ca
30
08
01
%
36
43
21
BÀN LUẬN
Từ 10/2011 đến 03/2013, chúng tôi đã tiến
hành phẫu thuật nâng ngực lõm cho 40 trường
hợp. Tỷ lệ nam:nữ trong nghiên cứu của chúng
tôi là khoảng 2:1, so với báo cáo của tác giả Trần
Thanh Vỹ (nam: nữ là 4:1) và y văn (tỷ lệ 3:1) thì
tỷ lệ nữ có hơi khác hơn một chút, có lẽ do số
lượng mẫu chưa nhiều, chưa mang tính đai
diện.
Tuổi bệnh nhân trong nhiên cứu này được
phẫu thuật trung bình là 9,5, nhỏ nhất là 3 tuổi,
lớn nhất là 15 tuổi do giới hạn tuổi phẫu thuật ở
bệnh viện nhi. Qua quá trình phẫu thuật, chúng
tôi nhận thấy lứa tuổi thích hợp nhất để làm là
từ 5 ‐ 7 tuổi vì lồng ngực của trẻ lúc này còn
tương đối nhỏ, dễ dàng luồn clamp qua trung
thất để đưa thanh kim loại qua. Tuy nhiên,
chúng tôi cũng nhận thấy với 1 số trường hợp,
điểm vào và ra của thanh nâng ngực sẽ tì đè
xương sườn khiến phần lồng ngực dưới xương
ức sẽ lõm xuống 1 ít, chúng tôi gọi là lõm thứ
phá, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến thẩm mỹ của
lồng ngực sau mổ. Do đó cần giải thích với gia
đình trước để tránh gây thắc mắc về phần lõm
190
Các trẻ được tiến hành phẫu thuật cự ngụ
ở thành phố và các tỉnh gần như tương đương
nhau chứng tỏ thông tin về bệnh qua báo đài
đã phổ biến tốt, lan tỏa khắp nơi. Và hầu hết
đều đã tham khảo qua báo chí, mạng Internet
trước khi có quyết định phẫu thuật. Đó là 1
thuận lợi cho công tác giải thích nhưng cũng là
1 áp lực lớn cho công tác phẫu thuật vì hầu hết
các hình ảnh minh họa đều là 1 lồng ngực sau
mổ đẹp hoàn mỹ.
Theo tác giả Hyung Joo Park(4,5), type II và
type hỗn hợp tạo hình rất khó và thường vẫn
còn lõm tồn lưu. Do đó, bước đầu thực hiện loại
phẫu thuật này, chúng tôi chủ trương chọn lọc
bệnh, chỉ chọn những trẻ lõm ngực dạng đồng
tâm khu trú hoặc lõm lệch tâm khu trú nhằm tạo
thuận lợi cho việc phẫu thuật. Đa số các trẻ
trong nghiên cứu này thuộc diện lõm ngực dạng
đồng tâm khu trú 33 ca (chiếm 83%) và 6 ca lõm
đồng tâm dẹt rộng (chiếm 15%), chỉ 01 ca lõm
lệch tâm khu trú (chiếm 2%). Và kết quả sau mổ
của trường hợp này cải thiện cũng chỉ tương đối.
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào
có bệnh di truyền hay liên quan tính chất gia
đình, có thể cũng vì lý do mẫu nhỏ (40 ca). Phần
lớn các trường hợp chức năng tim đều bình
thường nhưng ghi nhận 2 trường hợp có hở 2 lá
nhẹ do sa van. Tuy nhiên các trường hợp này
sau khi tiến hành khám tim mạch thì vẫn tiến
hành phẫu thuật bình thường được do không có
chống chỉ định. Chức năng hô hấp chúng tôi
khảo sát nhưng không chú ý nhiều vì có nhiều
bệnh nhi nhỏ tuổi, không thực hiện được. Và
hầu hết các trường hợp (trẻ lớn làm được chức
năng hô hấp) đều có hội chức tắc nghẽn và hạn
chế mức độ vừa và trung bình, không ảnh
hưởng nhiều đến việc phẫu thuật.
Về thời gian phẫu thuật, trung bình là 80
phút cho 1 ca, ngắn nhất 45 phút, dài nhất 150
phút. So với tác giả Trần Thanh Vỹ thì thời gian
phẫu thuật của chúng tôi không khác biệt nhiều,
do kỹ thuật thực hiện của chúng tôi được
chuyển giao từ chính tác giả này nên việc thực
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
hiện không gặp trở ngại nhiều. Việc chỉ định đặt
1 hay 2 thanh kim loại, chúng tôi dựa vào tỉ lệ
biến dạng xương ức, nếu xương ức biến dạng
hơn 50% chúng tôi đặt 2 thanh kim loại. Trường
hợp đặt 2 thanh trong nghiên cứu là bé trai 12
tuổi, lồng ngực bé đã cứng chắc, khá lớn và diện
lõm rộng, dẹt. Kết quả sau mổ của bé là tốt,
người nhà hài lòng.
Thời gian nằm viện của các trẻ trung bình 5
ngày, ngắn nhất 4 ngày, dài nhất 14 ngày, không
khác biệt nhiều so với nghiên cứu của tác già
Trần Thanh Vỹ(6,7). Hậu phẫu, chúng tôi sử dụng
hỗn hợp Marcain + Fentanyl tê ngoài màng cứng
truyền liên tục 2 ngày, sau đó chuyển qua giảm
đau đường uống kết hợp Paracetamol và
ibuprofen. Phần lớn trường hợp bệnh nhi đều
giảm đau tốt nhưng còn 1 số trường hợp (37,5%)
vẫn than đau. Khi hỏi kỹ thì các bé than cảm
giác đau là đau tì đè. Những trường hợp như
vậy chúng tôi động viên và gửi qua vật lí trị liệu
tập thở. Kết quả một số bé có giảm đau hơn
nhưng phần lớn là phải có thời gian chờ đợi bé
thích nghi với tình trạng tì đè này và nên giải
thích để người nhà bệnh nhi yên tâm.
Chỉ số Haller (định nghĩa là tỷ lệ giữa đường
kính ngang lớn nhất của lồng ngực được đo từ
thành trong lồng ngực và đường kính trước sau
ngắn nhất từ xương ức đến bờ trước đốt sống)
trước (3,9 ± 0,8) và sau phẫu thuật (2,6 ± 0,5) cải
thiện đáng kể chứng tỏ phẫu thuật mang lại kết
quả tốt.
Trong quá trình hậu phẫu, chúng tôi gặp 9
trường hợp tràn khí dưới da nhưng lượng ít và
đều tự hấp thu không cần can thiệp, chiếm tỷ lệ
22,5% với các tác giả khác từ 15% ‐ 25%(6,7,3,5)
cũng không khác biệt nhiều. Đây là biến chứng
thường gặp do quá trình bóc tách mô mềm 2 bên
thành ngực nhiều cũng như không chú ý đuổi
hết khi ra khi đóng vết mổ. Các biến chứng khác
như tràn dịch tràn máu màng phổi, tụ dịch vết
mổ, nhiễm trùng vết mổ hay dị ứng với thanh
kim loại thì chưa có; có lẽ do chúng tôi mới thực
hiện, số lượng bệnh nhân chưa nhiều nên tỷ lệ
gặp các biến chứng cũng ít đi. Tuy nhiên, chúng
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Nghiên cứu Y học
tôi có 3 ca bị viêm phổi thùy. Hai ca bị trong thời
gian hậu phẫu, 1 ca sau xuất viện 2 tuần. Hai ca
trong thời gian hậu phẫu phát hiện sớm nhờ
thăm khám lâm sàng mỗi ngày và XQ phổi kiểm
tra. Ca phát hiện sau 2 tuần là do tái khám bé
than đau ngực và ho nhiều, không ngủ được.
Các bé đều được điều trị ổn nhờ phát hiện kịp
thời, không gây tràn dịch cần dẫn lưu hay phải
lấy thanh nâng ngực ra. Điều làm chúng tôi vẫn
còn chưa hài lòng là có 3 ca bị di lệnh thanh
(chiếm tỷ lệ 7,5%) khiến cho lõm ngực vẫn còn
tồn lưu. So với tác giả Trần Thanh Vỹ(6) là 4% thì
tỷ lệ này gần gấp đôi. Phim XQ theo dõi sau 6
tháng cho thấy thanh nâng ngực bị di lệnh lên
trên chỗ cần nâng của xương ức và các mối chỉ
cố định đều bị đứt. Khả năng là do khi cố định,
chúng tôi đã xiết chỉ quá chặt làm lực chỉ thép
yếu đi, cũng không loại trừ trường hợp khi uốn
thanh kim loại nâng ngực chưa thật sự ôm sát
lồng ngực của các em, tạo điều kiện cho thanh
dễ di lệch. Chúng tôi dự định sẽ mổ lại để chỉnh
sửa di lệnh này. Ngoài ra, một số các bệnh nhi
tái khám thì thanh bị vênh lên, sờ thấy được
dưới da (đặc biệt là ở các bé gái, nhỏ tuổi, thành
ngực mỏng). Điều này làm cho lồng ngực sau
mổ hết phần lõm nhưng bị bè ra 2 bên hông, ảnh
hưởng đến thẩm mỹ. Do đó, mức độ hài lòng
của người nhà theo đó cũng giảm sút, chỉ 36%
rất hài lòng sau mổ.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi ghi
nhận dị dạng lồng ngực gặp nhiều, trong đó lõm
ngực bẩm sinh gặp nhiều nhất. Phẫu thuật Nuss
an toàn, hiệu quả và ít biến chứng trong điều trị
lõm ngực bẩm sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Kelly RE (2008). Pectus excavatum historical ackround,
clinical picture, preopoerative evaluation and criteria for
operation:, seminars in Peaditric Surgery, 17: cpp 181‐193.
Nuss D (2010). Indications and technique of Nuss procedure
for pectus excavatum, Thorac. Surg. Clin., 20: pp 583‐597.
Nuss D, Kelly RE (1998). A 10 years review of mimimally
invasive technique for correction of pectus excavatum. J
Pediatr Surg 33: pp 545‐552.
Park HJ, Lee SY (2004). The Nuss procedure for pectus
excavatum: Evolution of techniques and results on 322
patients. Ann Thorac Surg 77:pp 289‐295.
191
Nghiên cứu Y học
5.
6.
7.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Park HJ, Lee SY, (2004). Complication associated with the
Nuss procedure: Analysis of risk factors and suggested
measures for prevention of complications. J Pediatr Surg
39:pp 391‐395.
Trần Thanh Vỹ (2008). Điều trị dị dạng thành ngực tại bệnh
viện Đại học Y Dược TP. HCM, Tạp chí Nghiên cứu Y Học
TP. Hồ Chí Minh, vol 12(4), tr.266‐271.
Trần Thanh Vỹ, Nguyễn Hoài Nam (2009). Y Học TP. Hồ Chí
Minh, Vol. 13,: tr 99 – 103.
8.
Vũ Hữu Vĩnh (2008). Kỹ thuật can thiệp tối thiểu trong phẫu
thuật lõm ngực bẩm sinh, Y học Việt Nam, vol 352, tr.522‐528.
Ngày nhận bài
11/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo
20/07/2013.
Ngày bài báo được đăng:
15–09‐2013
192
Chuyên Đề Ngoại Nhi