Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp nhiễm trùng giun xoắn trichinella spiralis gây viêm và phù mạch tăng bạch cầu ái toan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.63 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP NHIỄM TRÙNG GIUN XOẮN TRICHINELLA 
SPIRALIS GÂY VIÊM VÀ PHÙ MẠCH TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN 
Nguyễn Văn Chương*, Huỳnh Hồng Quang* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Mày đay và phù mạch có thể xảy ra đến 25% dân số trên toàn cầu. Các nguyên nhân bệnh lý 
nền rất đa dạng: các thuốc, yếu tố vật lý, các yếu tố tự miễn, phản ứng dị ứng và giả dị ứng và nhiễm trùng, đặc 
biệt vi khuẩn và ký sinh trùng có thể dẫn đến biểu hiện lâm sàng của triệu chứng mày đay hoặc phù mạch khó có 
thể phân biệt bệnh lý nào. Việc chẩn đoán là một thách thức, đặc biệt khi các triệu chứng diễn tiến mạn tính và 
đáp ứng điều trị không đáng kể.  
Trình bày ca bệnh: Nhân đây, chúng tôi báo cáo 1 ca bệnh phù mạch với viêm mạch máu tăng bạch cầu ái 
toan liên quan nhiễm trùng giun xoắn Trichinella spiralis, được điều trị khỏi bằng các thuốc đặc hiệu.  
Kết luận: Mày đay là một trong những rối loạn hay gặp kèm theo sự có mặt của phù mạch dưới da do nhiều 
yếu tố, kể cả ký sinh trùng. Các bằng chứng lâm sàng gợi ý chẩn đoán cũng như khâu tiếp cận điều trị mày đay/ 
phù mạch nên tránh các yếu tố mang tính khởi phát triệu chứng và điều trị giảm triệu chứng.  
Từkhóa: Mày đay, phù mạch, giun xoắn 

ABSTRACT 
A CASE REPORT: TRICHINELLA SPIRALIS INFECTION AND EOSINOPHILIC VASCULITIS WITH 
ANGIOEDEMA 
Nguyen Van Chuong, Huynh Hong Quang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 546 – 551 
Backgrounds: Urticaria and angioedema occur in up to 25% of the global population at some point in their 
lifetime.  Underlying  causes  can  be  highly  heterogeneous,  such  as  various  drugs,  physical  factors,  auto  ‐ 
immunological  factors,  allergic  and  pseudoallergic  reactions  or  infections,  especially  in  bacteria  and  parasite. 


These pathogens or factors can result in the clinical manifestation of urticaria, or angioedema that is a symptom 
rather  than  a  distinct  disease.  Diagnosis  can  be  challenging,  especially  if  symptoms  are  chronic  or  minimally 
responsive to therapy. 
Case  presentation:  Here,  we  report  a  special  case  of  angioedema  with  eosinophilia  vasculitis  caused  by 
Trichinella spiralis infection and treated with effective and anti ‐ inflammatory medications.  
Conclusions:  Urticaria  is  a  common  disorder  that  often  presents  with  subcutaneous  angioedema  due  to 
various factors, including parasite agents. Clinical clues and associated rationale for diagnosis as well as approach 
to treatment of urticaria/ angioedema should avoid known triggering agents and alleviating associated symptoms.  
Key words: Urticaria, angioedema, Trichinella spiralis 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mày đay và phù mạch là các triệu chứng có 
thể gặp phải phải ít nhất trên ¼ dân số thế giới 
(CDC, 2013) trong cả cuộc đời(2). Mày đay có thể 
* Viện Sốt rét KST ‐ CT Quy Nhơn 
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang 

546

diễn  biến  cấp  tính  hoặc  mạn  tính,  có  thể  sưng 
phồng một thời gian ngắn và có thể mất đi trong 
vòng 24 giờ hoặc có thể diễn biến mạn tính từng 
đợt  kéo  dài  tùy  thuộc  vào  tác  nhân  hay  yếu  tố 
thuận lợi can thiệp (thuốc, hóa chất, nhiễm độc, 

ĐT: 0905103496 

Email:  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
miễn dịch, dị nguyên, nhiễm trùng vi khuẩn, ký 
sinh  trùng,  nấm).  Phù  mạch  (angioedema)  là 
một dạng của mày đay, trong đó sự sưng phồng 
nằm ở phần sâu dưới da và kéo dài có thể hơn 
24  giờ.  Khoảng  50%  số  ca  mày  đay  cấp  tính  có 
biểu hiện phù mạch(5).  
Về  mặt  sinh  lý  bệnh,  các  mô  liên  quan  đến 
mày  đay  và  phù  mạch  biểu  hiện  phù  dưới  da 
hoặc niêm mạc cùng với sự liên quan đến thâm 
nhiễm tế bào lympho T, đại thực bào, bạch cầu ái 
toan và dưỡng bào (mast cells) quanh mạch máu. 
Các triệu chứng sưng phồng và ngứa liên quan 
đến  sự  giáng  hóa  phòng  thích  các  dưỡng  bào, 
trong  đó  các  chất  trung  gian  gây  hoạt  mạch  ly 
giải từ các tế bào dưỡng bào và bạch cầu ưa base 
sinh  ra  các  phản  ứng  lằn  roi  hoặc  sưng  phồng 
mạnh(6). Một số cơ chế khác liên quan đến trực 
tiếp  phân  tử  igE  hoặc  qua  trung  gian  IgE.  Việc 
chẩn  đoán  và  điều  trị  là  một  thách  thức  nếu 
không tìm ra nguyên nhân cụ thể để gián đoạn. 
Qua thăm khám bệnh sử, khám thực thể và điều 
tra tiền sử có thể nhận ra một số nguyên nhân, 
hạn chế mất thời gian và tránh các tác dụng độc 

do thuốc điều trị không cần thiết. Mặc dù bệnh 
biểu hiện đôi lúc nghiêm trọng, song phần lớn là 
lành tính và tự giới hạn(8). Việc tiếp cận điều trị 
là tránh các tác nhân gây ra và giảm triệu chứng 
cho  bệnh  nhân,  sử  dụng  thận  trọng  các  thuốc 
chống  viêm  corticosteroids  đường  uống  và 
thuốc kháng histamine thế hệ hai tác dụng dụng 
kéo  dài,  các  H2  ‐  receptor  antagonists  và  thuốc 
đối kháng leukotriene chống viêm.  

TRÌNH BÀY CA BỆNH  
Một  bệnh  nhân  nam 57 tuổi,  sống tại  thành 
phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên bị các đợt mày đay 
nghiêm trọng liên tục trong nhiều tháng và kèm 
theo có dấu hiệu phù mạch ở mặt và vùng hầu 
họng,  thỉnh thoảng khó thở,  tồn tại hơn 24  giờ. 
Bênh  nhân  đã  điều  trị  nhiều  lần  bởi  các  thầy 
thuốc  da  liễu,  nội  khoa  và  đã  nhập  BVĐK  tỉnh 
Khánh Hòa 2 lần, song khi ra viện khoảng 1 tuần 
bệnh tái phát sau khi hết thuốc ngoại trú.  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Sau  đó,  bệnh  nhân  đến  khám  và  nhập  viện 
tại Viện Sốt rét KST ‐ CT Quy Nhơn:  
Thăm  khám,  kiểm  tra  các  nguyên  nhân 
hoặc bệnh lý nền sẵn có không có gì đặc biệt, 
ngoại trừ làm nghề mổ heo và hay ăn các món 
thính do bệnh nhân chế biến; Gan lách không 
lớn,  nhiệt  độ  da  hơn  ấm,  sốt  380C  nhiều  ngày 

trước khi đến khám, mệt mỏi, nhức toàn thân; 
Khám  khối  cơ  cẳng  tay  và  bắp  chân  (T)  rất 
đau,  có  nơi  sưng  phồng,  đỏ  da  và  nóng,  căng 
cơ đau nhiều hơn. 
Các triệu chứng tiêu hóa, thần kinh, tiết niệu 
đều trong giới hạn bình thường. 
Xét  nghiệm  cận  lâm  sàng  và  chẩn  đoán 
hình ảnh: 
+ CTM toàn phần cho thấy chỉ số bạch cầu 
chung  tăng  cao  và  đặc  biệt  bạch  cầu  ái  toan 
(BCAT) tăng đến 45,6% (giá trị tham chiếu 0 ‐ 
6%). 
+ Men gan và chức năng gan, thận không có 
bất thường, không có viêm gan B, C. 
+ Tốc độ máu lắng tăng cao, chỉ số CRP tăng 
21 mg/L (giá trị tham chiếu < 5 mg/l). 
+  Nước  tiểu  toàn  phần  10  thông  số  cho  kết 
quả trong giới hạn bình thường. 
+  Xét  nghiệm  huyết  thanh  học  về  các  giun 
sán:  Strongyloides  stercoralis,  Gnathostoma 
spinigerum,  Cysticercus  cellulose,  Fasciola 
gigantica,  Toxocara  canis  đều  cho  kết  quả  âm 
tính (hiệu giá kháng thể< 1.0). 
+  Chụp  X  quang  phổi  ngực  kỹ  thuật  số  có 
tràn dịch màng phổi mức độ nhẹ. 
+  Siêu  âm  bụng  tổng  quát  chưa  thấy  dấu 
hiệu bất thường. 
+ Điện cơ thay đổi không đáng kể. 
Đánh giá ban đầu về bệnh lý khối u hay dị 
ứng tạm thời loại bỏ thông qua xét nghiệm sàng 

lọc máu. Nghi ngờ bệnh nhân mắc một bệnh lý 
ký  sinh  trùng  liên  quan  đến  bệnh  nghề  nghiệp 
và  thói  quen  ăn  uống,  chuyển  bệnh  nhân  vào 
Trung  tâm  chẩn  đoán  y  khoa  Hòa  Hảo  để  làm 

547


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
thêm xét nghiệm ELISA và Bệnh viện Đại học Y 
dược thành phố Hồ Chí Minh sinh thiết da cơ.  
Sinh  thiết  da  cho  thấy  hình  ảnh  viêm  da 
vùng  thương  tổn,  viêm  đa  vùng  mao  mạch  có 
tăng  bạch  cầu  ái  toan,  điều  này  phiên  giải  như 
một dấu hiệu sớm, cấp tính của viêm mạch tăng 
bạch cầu ái toan (eosinophilic vasculitis). 
Sinh thiết cơ có hình ảnh đóng kén của ấu 
trùng  giun  xoắn  T.  spiralis  cùng  với  kết  quả 
huyết  thanh  học  phát  hiện  kháng  thể  dương 

Hình1. Sinh thiết cơ cho thấy ấu trùng đóng kén của 
giun Trichinella spiralis 
Chỉ  định  điều  trị  thuốc  thiabendazole  viên 
500mg (biệt dược Niczen), liệu trình 7 ngày, kèm 
theo thuốc chống viêm prednisolone 5mg trong 
vòng  5  ngày  liên  tiếp  và  kháng  histamine  loại 

loratidine 10mg, cùng với thuốc bổ gan arginine 
200mg (từ ngày 12/02/2014 đến 21/02/2014). Sau 
10 ngày, bệnh nhân hồi phục nhanh chóng biểu 
hiện  đi  lại  không  còn  đau  cơ,  giảm  phù  niêm 
mạc, dấu mày đay có cường độ và số lần giảm. 
Tuy  nhiên,  đến  đầu  tháng  3/2014,  trên  cơ  thể 
bệnh  nhân  xuất  hiện  đợt  mày  đay  khác  tại  các 
vùng xung quanh vị trí phù mạch cũ, đỏ và sốt, 
suy nhược cơ bên thương tổn tiến triển.  
Thực  hiện  công  thức  máu  cho  thấy  nhiễm 
trùng  không  còn  nhưng  chỉ  số  đáp  ứng  miễn 
dịch tăng lên (BCAT tăng hơn lúc đầu 67,3% và 
nồng độ IgE tăng gấp hai lần trị số bình thường). 
Các  khám  nghiệm  lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng 
khác loại trừ bệnh lý tân sinh, hay nhiễm khuẩn, 

548

tính, chỉ số BCAT lên đến 63% trong công thức 
máu  và  nhiễm  trùng  với  BC  chung  15.0000  x 
109/L. 
Thông  số  creatine  kinase  cơ  trong  giới  hạn 
bình thường. 
Sau khi tổng hợp kết quả cận lâm sàng, kết 
hợp  lâm sàng,  chẩn doán  xác  định  là:  Mày  đay 
kèm  phù  mạch  thâm  nhiễm  BCAT  do  nhiễm 
giun xoắn T. spiralis. 

Hình 2. Sinh thiết da thấy thâm nhiễm bạch cầu ái 
toan lan tỏa ở mạch máu 

nghĩ nhiều đến đợt tái phát hoặc phản ứng dội 
sau  điều  trị  (rebound/  Herx  reaction)  thuốc 
thiabendazole  đã  giết  chết  một  lượng  lớn  các 
giun xoắn và chỉ cho dùng thuốc chống dị ứng 
và  đa  sinh  tố,  truyền  dịch  vitamin  cũng  như 
uống  nước  trái  cây,  sau  3  ngày  bệnh  nhân  hồi 
phục hoàn toàn.  
Kết quả kiểm tra tổng thể về huyết học, sinh 
hóa  cho  các  thông  số  trở  về  bình  thường,  song 
chỉ có trị số ELISA vẫn còn kháng thể chống lại 
tác nhân giun xoắn Trichinella spiralis với hiệu giá 
thấp dương tính, BCAT trở về 7%. Đến nay, sau 
10 ngày, bệnh nhân không còn tái phát nữa. 

BÀN LUẬN 
Giun  xoắn  Trichinella  spiralis:  Căn  bệnh 
truyền từ động vật sang người nguy hiểm 
Bệnh giun xoắn gây ra bởi Trichinella spiralis, 
là  một  bệnh  giun  tròn  truyền  từ  động  vật  sang 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
người qua đường thức ăn hay gặp nhất. Heo là 
động  vật  nuôi  thường  nhiễm  bệnh  nhất.  Ở 

người, tỷ lệ mắc lệ thuộc vào số lượng ấu trùng 
sống của Trichinella spiralis được tiêu hóa hay thịt 
chưa nấu chín hoặc còn sống(7). Tỷ lệ nhiễm giun 
xoắn khác nhau tùy thuộc vùng trên thế giới, lệ 
thuộc  vào  thói  quen  ăn  uống  và  biện  pháp 
phòng  chống  mang  tính  điều  luật  vệ  sinh  an 
toàn.  Sự  yêu  cầu  mang  tính  pháp  lý  để  phòng 
chống thú y và các lò mổ, không phải luôn luôn 
tuân thủ, đặc biệt các lò mổ không đăng ký. Acid 
dạ  dày  giúp  phóng  thích  các  nang  giun  đi  vào, 
phát triển thành con trưởng thành. Các ấu trùng 
non  của  con  trưởng  thành  đi  xuyên  qua  thành 
ruột và di chuyển thông qua dòng máu. Chúng 
có  thể  tìm  thấy  trong  tim  và  nhu  mô  não  cũng 
như  các  cơ  vân.  Chu  kỳ  phát  triển  của  ký  sinh 
trùng  được  hoàn  thành  khi  ấu  trùng  trở  nên 
đóng nang tại vùng cơ sâu. Một bệnh sử chi tiết 
cho  thấy  bệnh  nhân  có  thói  quen  ăn  thịt  heo 
chưa  nấu  chín  và  làm  nghề  nghiệp  có  liên 
quan(7).  Nhược  cơ  và  đau  cơ  có  liên  quan  đến 
hình  ảnh  bệnh  học  trên  điện  cơ  đồ  và  các  thay 
đổi về hình thái bệnh lý cơ không đặc hiệu trên 
mẫu  sinh  thiết  cơ,  nhưng  sinh  thiết  cơ  đã  phát 
hiện hình ảnh giun xoắn đóng kén (hình 1). Đặc 
điểm về mắt và thần kinh của bệnh giun xoắn có 
thể loại trừ. Dựa trên chẩn đoán bệnh giun xoắn, 
chỉ định thuốc đặc hiệu cùng thuốc chống viêm 
cho thấy các thông số xét nghiệm và toàn bộ các 
triệu  chứng  lâm  sàng  được  cải  thiện,  cùng  với 
không xuất hiện triệu chứng mày đay và các dấu 

chứng khác, sau liệu trình thứ 2 sau đó.  

Phổ  lâm  sàng  đặc  trưng  cho  bệnh  giun 
xoắn Trichinella spiralis 
Các  triệu  chứng  lâm  sàng  của  giun  xoắn 
đầu tiên liên quan đến hệ tiêu hóa (40 ‐ 60%), 
chẳng  hạn  nôn  mửa,  tiêu  chảy  và  đau  dạ  dày 
ruột. Các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu 
như yếu người (75%) hoặc sốt (60 ‐ 75%), đau 
cơ  và  đau  khớp  (75%)  hoặc  thậm  chí  tổn 
thương đến cơ tim cấp. Các dấu hiệu thần kinh 
khu  trú,  bệnh  lý  não  và  đau  đầu  lan  tỏa  (50  ‐ 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

60%)  đã  được  ghi  nhận.  Các  triệu  chứng  trên 
da  niêm  gồm  phù  quanh  mi  mắt,  mày  đay, 
chấm  xuất  huyết  kết  mạc,  xuất  huyết  các 
giường móng tay và ban đỏ trên da không đặc 
hiệu hoặc ban trong lòng bàn tay, các dấu hiệu 
này  xuất  hiện  khoảng  10%  trong  bệnh  giun 
xoắn.  Các  ban  đỏ  có  ở  hai  bên  tay  bị  sưng  và 
ban  đỏ  mảng  dọc  theo  vành  ngoài  của  lòng 
bàn tay và gan bày tay, tiếp theo sau đó là hình 
ảnh bong tróc vảy. Phù mạch là một dấu hiệu 
không  thường  xuyên  của  nhiễm  trùng  giun 
sán và viêm mạch do giun xoán lại càng hiếm 
gặp hơn(7).  
Các  thương  tổn  mày  đay  là  đa  hình  thái, 
hình tròn hoặc bờ không đều phù lên trên so với 

bề  mặt  da,  có  ngứa,  với  nhiều  kích  thước  khác 
nhau từ vài mm đến nhiều cm. Các thương tổn 
có thể hình thành bất kỳ nơi đâu trên cơ thể và 
lan rộng do quá trình gãi, cào khiến liên kết lại 
lan rộng thành đám lớn, mảng đỏ. Đôi khi hiện 
tượng  lan  mạch  gây  nên  các  thương  tổn  sung 
huyết trung tâm với một vòng trắng bên ngoài. 
Phù mạch có thể xảy ra đơn thuần hoặc đi kèm 
với mày đay, đăc tính là không bập bềnh, không 
ngứa hoặc khó chịu, sưng phồng liên quan đến 
các  mô  dưới  da  (mặt,  sinh  dục,  mông,  tay),  các 
cơ  quan  trong  bụng  và  đường  thở  trên.  Phù 
mạch  có  xu  hướng  xảy  ra  trên  mặt  và  tay,  gây 
nên biến dạng rõ rệt. Phù vùng hầu họng là một 
cấp cứu y khoa cần hỗ trợ điều trị cấp, các sưng 
phồng vùng dạ dày ruột giống triệu chứng cấp 
cứu ngoại khoa bụng(5,7). 
Việc phân ra mày đay cấp tính hay mạn tính 
là các triệu chứng tồn tại trong thời gian ít hơn 6 
tuần  và  trên  6  tuần.  trong  một  nghiên  cứu  gần 
đây 47% bệnh nhân mày đay mạn tính không rõ 
nguyên nhân và tự khỏi hay giảm tự phát sau 1 
năm(3).  Mày  đay  cấp  tính  cũng  phân  biệt  với 
mày  đay  mạn  tính  qua  diễn  tiến  hay  kéo  dài 
triệu chứng thông qua sự điều tiết IgE. Mày đay 
mạn  tính  và  phù  mạch  có  xu  hướng  tự  phát, 
không xác định nguyên nhân hoặc do nhiều yếu 
tố  nội  sinh,  ngoại  sinh,  miễn  dịch  hoặc  không 
liên quan đến miễn dịch. 


549


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Một  nghiên  cứu  tổng  hợp  hơn  6.000  bệnh 
nhân  mày  đay  và  phù  mạch  cho  thấy  các  xét 
nghiệm  cân lâm sàng thường  quy sàng  lọc  ít  lệ 
thuộc  vào  tiền  sử  bệnh  nhân  cũng  như  khám 
thực  thể,  vì  các  test  này  ít  có  giá  trị  trong  việc 
phát  hiện  ra  nguyên  nhân  phản  ứng,  do  vậy  ít 
khi  tìm  ra  nguyên  do  (chẳng  hạn  IgE  hay  test 
da).  
Mày đay có hoặc không kèm theo phù mạch 
ước tính có tỷ lệ khoảng 25% trong dân số chung 
toàn cầu. Trong số các bệnh nhân bị mày đay, ít 
nhất  gần  30%  có  viêm  mạch.  Chẩn  đoán  phân 
biệt  mày  đay  với  viêm  da  tăng  BCAT 
(eosinophilic dermatitis) và viêm mạch mày đay 
(eosinophilic  vasculitis)  gồm  có  các  phản  ứng 
quá  mẫn  cũng  như  hội  chứng  Churg  ‐  Strauss, 
các hội chứng tăng BCAT khác và nhiễm ký sinh 
trùng(2,4).  Viêm  mạch  có  liên  quan  đến  bệnh  lý 
ký sinh trùng là một bệnh lý hiếm gặp trên thực 
hành lâm sàng và trên báo cáo y văn.  
Chẩn  đoán  xác  định  lệ  thuộc  vào  tìm  kiếm 
các phức hợp [ký sinh trùng ‐ tế bào] đóng vách 

trong mô sinh thiết cơ soi dưới kính hiển vi hoặc 
phát  hiện  DNA  đặc  hiệu  Trichinellaspiralis  bằng 
ký thuật PCR. Sinh thiết cơ có thể âm tính do số 
lượng  ấu  trùng  thấp  trong  giai  đoạn  sớm  của 
bệnh. Các bằng chứng gián tiếp cho nhiễm trùng 
có thể thông qua bệnh sử, triệu chứng lâm sàng, 
tăng  bạch  cầu  ái  toan  trong  máu  ngoại  vi,  tăng 
men cơ và test huyết thanh học như ELISA.  

Hình  ảnh  mô  bệnh  học  của  giun  xoắn 
Trichinella  spiralis  khi  gây  bệnh  vùng  cơ, 
da niêm 
Các mô tả về mặt mô bệnh học gồm có viêm 
đa động mạch nút, thâm nhiễm tăng BCAT ở da 
niêm. Sự xuất hiện đồng thời của viêm mạch và 
bệnh ký sinh trùng có thể dẫn đến từ: (i) Sự tác 
động  trực  tiếp  của  ký  sinh  trùng  lên  hệ  thống 
mạch  máu  như  đã  nhìn  thấy  vách  thành  mạch 
thay  đổi  về  mặt  mô  bệnh  học;  (ii)  Hiện  tượng 
miễn dịch  bệnh  lý  xảy  ra trong khi có  đáp  ứng 
miễn  dịch  chống  lại  ký  sinh  trùng,  (iii)  Sự  lắng 
đọng  các  phức  hợp  miễn  dịch  lưu  hành,  phản 

550

ứng  chéo  của  các  thành  phàn  IgE  chống  lại  ký 
sinh  trùng  và  các  kháng  nguyên  thành  mạch 
máu, hoặc tổn thương mô do tăng BCAT. Trong 
trường  hợp  bệnh  nhân  nam  này,  viêm  mạch 
mày đay có thể do đáp ứng miễn dịch quá mạnh 

bởi  một  lượng  ấu  trùng  T. spiralis.  Vì  vậy,  sinh 
thiết cơ đã cho thấy hình ảnh ấu trùng đóng kén 
và  huyết  thanh  miễn  dịch  (+)  mạnh.  Điều  này 
cũng  có  thể  giải  thích  hiệu  giá  kháng  thể  cao 
cùng với lượng BCAT tăng cao trong máu ngoại 
vi trên ca bệnh nhân này.  
Histamine ly giải ra từ các dưỡng bào dưới 
da và bạch cầu ưa base trong đáp ứng với các 
chất kích thích là khâu khỏi phát đầu tiên của 
mày  đay.  Trong  quá  trình  này,  các  kháng  thể 
IgE  đặc  hiệu  liên  kết  chéo  với  IgE  receptors 
gắn với các dưỡng bào và kích thích sinh ra các 
chất  gây  viêm.  Các  độc  tố  phản  vệ  bổ  sung 
cũng có thể gây ly giải histamine từ dưỡng bào 
hoặc  thông  qua  sự  hoạt  hóa  tế  bào  trực  tiếp 
không  liên  quan  đến  miễn  dịch  và  từ  đó  sinh 
phù mạch và viêm(1,5).  
Điều trị đặc hiệu có thể không cần thiết trên 
những  ca  biểu  hiện  nhẹ.  Riêng  đối  với  các  ca 
bệnh  vừa  và  nặng,  thuốc  lựa  chọn  là 
thiabendazole,  mebendazole  hoặc  albendazole, 
đôi khi phối hợp thuốc prednisolone chống viêm 
để  giảm  đáp  ứng  viêm  trên  bệnh  nhân,  hoặc 
thuốc hạ sốt và giảm đau trong suốt giai đoạn có 
dấu lâm sàng cơ(2).  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Fox  RW,  et  al  (2001).  Chronic  urticaria:  mechanisms  and 

treatment. Allergy Asthma Proc.22:97–100. 

2.

Kaplan  AP  (2002)  Clinical  practice:  chronic  urticaria  and 
angioedema. N Eng J Med. 346:175–9. 

3.

Kozel MM, Bossuyt PM, Mekkes JR, Bos JD (2003). Laboratory 
tests  and  identified  diagnoses  in  patients  with  physical  and 
chronic urticaria and angioedema: A systematic review. J Am 
Acad Dermatol. 48:409–16. 

4.

Kozel  MM,  Mekkes  JR,  Bossuyt  PM,  Bos  JD  (2001).  Natural 
course  of  physical  and  chronic  urticaria  and  angioedema  in 
220 patients. J Am Acad Dermatol.45.387–91. 

5.

Lhote  F  et  al  (2004).  Systemic  vasculitis  during  parasitosis. 
Presse Med. 33.1389–1401. 

6.

Prussin C, Metcalfe DD (2003) IgE. mast cells. basophils. and 
eosinophils. J Allergy Clin Immunol.111(2)S486–94. 


Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
7.

Walsh  DS,  Jongsakul  K,  Watt  G  (2001)  Hand  rash  in 
trichinosis. Clin Exp Dermatol. 26. 272–273. 

Ngày nhận bài báo:  

8.

Wedi  B,  Raap  U,  Kapp  A  (2004)  Chronic  urticaria  and 
infections. Curr Opin Allergy Clin Immunol. 4: 387–396. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

23/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

14/11/2014 

 


 
 

16/5/2014 

 

 
 

 

 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

551



×