Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật cắt nối khí quản tận tận trong điều trị sẹo hẹp khí quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.5 KB, 5 trang )


2 – 4cm.

6tháng-1năm
1-2năm
2-3năm
>3năm

Nam chiếm nhiều hơn nữ, gấp 4 lần nữ.

Số trường hợp
3
22
2

Bảng 8: Vị trí khâu nối trong cắt nối khí quản tận –
tận
Nối sụn nhẫn – khí quản
Nối khí quản – khí quản

Số trường hợp
10
17

Tỷ lệ (%)
37
63

Bảng 9: Biến chứng muộn
Mô hạt viêm
Liệt dây thần kinh hồi quy


Tái hẹp

Số trường hợp
2
1
2

Tỷ lệ (%)
7,4
3,7
7,4

BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 25 ± 9
tuổi (17 – 57 tuổi), chủ yếu tập trung trong nhóm
từ 20 – 40 tuổi. Từ đó cho thấy nhóm bệnh nhân
chủ yếu nằm trung độ tuổi lao động, ảnh hưởng
nhiều đến bản thân, trở thành gánh nặng kinh tế
cho gia đình và xã hội. Nam giới chiếm đa số,
gấp 4 lần nữ. Tỉ lệ này phù hợp với tình hình
thực tế tại bệnh viện Chợ Rẫy, với đa số các
trường hợp đặt nội khí quản lâu ngày hay mở
khí quản thường là do tai nạn giao thông, chủ
yếu tập trung ở nam giới.(9,10) Theo một nghiên
cứu năm 2001, Vurkmir đưa ra tỷ lệ nữ gấp 3 lần
nam do kích thước thanh khí quản ở nữ nhỏ hơn
nam giới nên có nguy cơ tổn thương cao hơn.
Thêm vào đó có tác giả cho rằng estrogen là yếu
tố thúc đẩy chính quá trình tổng hợp collagen, là
nguyên liệu chính cho tiến trình lành vết thương

hình thành mô sẹo (5,6).

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Đặt nội khí quản lâu ngày là nguyên nhân
chính gây hẹp khí quản (chiếm 48,2%). Cơ chế
chính gây ra tổn thương thanh khí quản sau đặt
nội khí quản do áp lực bóng lên niêm mạc khí
quản trong một khoảng thời gian(3). Áp lực bóng
và thời gian đặt nội khí quản là hai yếu tố quyết
định hình thành tổn thương hẹp khí quản. Một
số nghiên cứu nội soi ghi hình theo dõi tác động
của áp lực bóng lên niêm mạc khí quản, các nhà
nghiên cứu đề nghị áp lực của bóng để mạch
máu của niêm mạc thành khí quản lưu thông tốt
là 25cmH2O. Bên cạnh cơ chế tổn thương do áp
lực bóng nội khí quản, Vurkmir đã đề cập đến
vai trò của ống nội khí quản gây ra tổn thương
hẹp thanh khí quản. Do đó nhiều tác giả khuyến
cáo áp lực bóng nên từ 20 – 30 cmH2O, nên xả
bóng mỗi giờ trong thời gian gây mê phẫu thuật
và mỗi 4 – 8 giờ trong thời gian thở máy qua nội
khí quản, lựa chọn ống nội khí quản phù hợp.
Ngoài ra nên rút nội khí quản càng sớm càng tốt
và nếu không thể rút nội khí quản nên mở khí
quản sớm cho bệnh nhân (4).
16/27 trường hợp có can thiệp thủ
thuật/phẫu thuật trước, các can thiệp thủ

thuật/phẫu thuật thường là soi nong, đặt ống
Aboulker/ống T và ghép sụn. Có trường hợp
bệnh nhân đã được can thiệp trên 3 lần, soi nong
sau đó đặt ống T và ghép sụn nhưng vẫn bị tái
hẹp. Số lần can thiệp thủ thuật/phẫu thuật lên
khí quản càng nhiều, càng gây nhiều khó khăn
trong phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận.
Theo Klinik fuur Viszeral tại Đức nghiên cứu
ảnh hưởng của chỉ khâu nối và kỹ thuật cắt nối
khí quản trên cừu, cho thấy kỹ thuật cắt nối khí
quản đóng vai trò quan trọng trong vấn đề tái
hẹp hơn là chỉ khâu nối.
Mặc dù phẫu thuật tái tạo và cắt nối khí
quản đã xuất hiện từ thế kỷ 19, thế nhưng phẫu
thuật về khí quản vẫn phát triển chậm hơn so
với các phẫu thuật khác ở vùng cổ ngực. Đến
giữa thế kỷ 20, Belsey cho rằng sẹo hẹp nhỏ hơn
2cm mới có thể cắt nối khí quản thành công.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài đoạn
hẹp chủ yếu từ 2 – 4cm chiếm 81,5%. Có 1

Nghiên cứu Y học

trường hợp hẹp trên 5cm, chúng tôi phẫu thuật
phối hợp với khoa Ngoại Lồng Ngực vì cần phải
bóc tách đoạn khí quản ngực, nhằm giảm căng
tại chỗ khâu nối khí quản tận – tận. Đối với
những trường hợp hẹp khí quản đoạn dài cần
phải cắt nhiều vòng sụn khí quản, khi khâu nối
sẽ rất căng có nguy cơ đứt chỗ khâu nối khí

quản. Theo tác giả Charles W. Cumming, cắt cơ
trên móng cho phép thanh quản hạ thấp xuống
4-5cm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những
trường hợp chiều dài đoạn hẹp trên 2cm thường
được cắt cơ trên móng. Trên thực tế hiện nay,
chúng tôi có thể tiến hành cắt nối khí quản có
chiều dài đoạn hẹp trên 2cm cho kết quả khả
quan, do chúng tôi giảm căng tại chỗ khâu nối:
bóc tách khí quản đầu dưới đoạn hẹp đủ rộng,
cắt cơ trên móng, khâu gập cổ.
Thời gian phát hiện tổn thương cho đến khi
phẫu thuật kéo dài có thể là do bệnh lý đi kèm
(chấn thương sọ não chưa ổn định, tổn thương
các cơ quan khác kèm theo…) hoặc đã can thiệp
thủ thuật/phẫu thuật nhiều lần nhưng thất bại.
Những trường hợp này gây không ít khó khăn
trong phẫu thuật cắt nối do xơ dính nhiều, đặc
biệt trong bóc tách khí quản và nguy cơ tổn
thương dây thần kinh hồi quy và mạch máu lớn
vùng cổ ngực.
Trong cắt nối khí quản tận – tận, nối sụn
nhẫn – khí quản hay khí quản – khí quản cho kết
quả sau phẫu thuật không có sự khác biệt.
Không có trường hợp nào xảy ra biến chứng
sớm như chảy máu, tràn khí dưới da hay bung
miệng nối. Có 5 trường hợp xảy ra biến chứng
muộn: mô hạt viêm, liệt dây thần kinh hồi quy
và tái hẹp.
Có 2 trường hợp mô hạt viêm ngay miệng
nối khí quản sau phẫu thuật 4 tuần.Chúng tôi

soi thanh khí quản cắt mô hạt và chấm
mitomycin, cho kết quả tốt. Năm 2009, Jyi Lin
Wong báo cáo nhân một trường hợp soi nong
khí quản bằng ống cứng và chấm mitomycin
cho kết quả tốt. Tác giả cho rằng mitomycin
giàm mô hạt viêm, ngăn ngừa tái hẹp khí quản
nhưng khi khí quản hẹp dạng màng và chưa

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011

339


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011

ảnh hưởng đến sụn. Tất cả trường hợp khi khâu
nối khí quản chúng tôi kết hợp chấm mitomycin
vào ngay miệng nối. Hiện nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá có khác biệt hay không
giữa nhóm chấm và không chấm mitomycin tại
miệng nối khí quản. Do đó cần có nghiên cứu
sâu hơn để làm rõ vấn đề này.
1 trường hợp liệt dây thần kinh hồi quy bên
trái, sau phẫu thuật bệnh nhân khàn giọng
nhưng không khó thở. Nội soi thanh khí quản
kiểm tra cho thấy liệt vận động dây thanh trái.
Miệng nối khí quản thoáng.
1 trường hợp hẹp miệng nối khí quản dạng

màng sau mổ 2 tuần, đường kính chỗ hẹp
khoảng 3mm. Chúng tôi tiến hành soi thanh
quản treo và nong miệng nối khí quản kết hợp
chấm mitomycin. Sau nong cho kết quả tốt. 1
trường hợp khác tái hẹp sau phẫu thuật 1 tháng.
Chúng tôi tiến hành soi nong và chấm
mitomycin 2 lần cách 2 tuần, nhưng không hiệu
quả. Bệnh nhân được tiến hành đặt stent
silicone.

Tất cả các trường hợp mô hạt viêm sau phẫu
thuật cắt nối khí quản, chúng tôi xử trí bằng soi
cắt mô hạt viêm và chấm Mitomycin, bước đầu
cho kết quả tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.
5.
6.
7.

8.

KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận bước
đầu cho kết quả khả quan. Ngoài 1 trường hợp

khan tiếng do liệt dây thần kinh hồi quy, 1
trường hợp tái hẹp phải đặt stent thì 92,6%
trường hợp thành công sau phẫu thuật cắt nối
khí quản tận – tận. Bệnh nhân có thể trở về cuộc
sống sinh hoạt thường ngày.

340

Những trường hợp độ dài đoạn hẹp nhiều
từ 2 – 5 cm hiện nay có thể thực hiện được dựa
trên nguyên tắc giảm căng tại chỗ khâu nối khí
quản: bóc tách khí quản đầu dưới đoạn hẹp đủ
rộng, cắt cơ trên móng, khâu gập cổ.

9.

10.

Bailey BJ (1993). Head and neck surgery – otolaryngology.
658- 671.
Lindholm CE (1995). Pathophysiology of larygotracheal
stenosis some importan anatomical dimensions.Acta otorhino- larygologica belg. 4. 319- 321
Guendert DV. (1994). Laryngotracheal stenosis. november. 30.
1994.
Đặng Hiếu Trưng (1990). Hẹp thanh khí quản do sẹo: lâm
sàng và điều trị.
Deborahp. Wilson (1999). Subglottic stenosis. april 14.
Guendert DV, (1994). Laryngotracheal stenosis. November.
30. 1994.
Laccourreye H, Pech A, Piquet JJ, Haguenauer JP, Narcy Ph.,

Junien Lavilauroy C, Gehanno P, Guerrier B, Thomassin JM
(1985). Les sténoses laryngo – trachéales de l’ adulte et de l’
enfant. 5 –12, 20 – 26, 126 – 135.
François M. (1995). Traitement des stenoses glotto sous –
glottique. finalization. volume 44. numero 2. 108 – 113.
Phạm Thanh Sơn và các bác sĩ khoa tai- mũi- họng bệnh viện
chợ rẫy(1997). Những vấn đề được đặt ra trong sẹo hẹp thanh
khí quản. Số đặc biệt hội nghị khoa học kỹ thuật tuổi trẻ đại
học y dược lần thứ xv. tập 1- 161 – 163.
Trần Phan Chung Thủy (2007), “Nghiên cứu tình hình chấn
thương thanh khí quản tại khoa TMH BV Chợ Rẫy từ 1/2005
đến 10/2006”, Hội nghị khoa học kỹ thuật trường đại học y
dược thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011



×