Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo một trường hợp điều trị thành công nang tuyến tiền liệt tái phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.37 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG  
NANG TUYẾN TIỀN LIỆT TÁI PHÁT 
Nguyễn Tế Kha*, Nguyễn Ngọc Thái* 

TÓM TẮT 
Nang tuyến tiền liệt (TTL) là bệnh hiếm gặp và ít được chú ý trong quá trình chẩn đoán và điều trị trong 
tiết niệu học. Nang TTL lần đầu tiên được báo cáo vào năm 1869. Nang lớn TTL có thể gây chèn ép các cơ quan 
lân cận như niệu đạo sau hoặc cổ bàng quang. Bệnh nhân có thể bị triệu chứng đường tiết niệu dưới, viêm mào 
tinh hoàn, đau vùng chậu, đau bẹn, xuất tinh máu, thậm chí gây vô sinh và hay được chẩn đoán nhầm. Chúng 
tôi xin báo cáo một trường hợp nang TTL được điều trị bằng mổ mở cắt TTL qua ngã bụng. 
Từ khóa: nang tuyến tiền liệt, mổ mở cắt TTL qua ngã bụng. 

ABSTRACT 
SUCCESSFUL TREATMENT IN A PATIENT WITH RECURRENT PROSTATIC CYST:  
A CASE REPORT 
Nguyen Te Kha, Nguyen Ngoc Thai 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 314 ‐ 319 
Little attention has been given to the significance of prostatic cysts in urology. Since the initial report on 
prostatic cysts in 1869 the enlarged prostatic cyst can compress the adjacent tissues, such as posterior urethra or 
bladder  neck.  Then,  the  patient  may  suffer  from  lower  urinary  tract  irritative  or  obstructive  symptoms, 
epididymitis, perineal and/or inguinal pain, which is often misdiagnosed as Likewise, the enlarged prostatic cyst 
can compress the seminal vesicles and cause hematospermia, low ejaculate volume or even infertility. 
Key words: Prostatic Cyst, open suprapubic prostatectomy. 
không nên không chú ý. Khi một bệnh nhân có 
MỞ ĐẦU 
triệu  chứng  nhiễm  trùng  đường  tiết  niệu  tái 
Trong quá trình thăm khám lâm sàng, nang 


phát, xuất tinh máu hay vô sinh thì nên chú ý tới 
TTL chiếm tỷ lệ không cao và thường được phát 
nang  TTL.  Đặc  biệt  trong  những  trường  hợp 
hiện tình cờ. Gần đây, nhờ vào sự phát triển của 
bệnh  nhân  đã  được  điều  trị  nhưng  không 
siêu âm qua ngã trực tràng, nang TTL được phát 
thuyên  giảm.  Can  thiệp  phẫu  thuật  nên  được 
hiện nhiều hơn. Nang TTL chiếm khoảng 5% các 
tiến hành trong những trường hợp nang TTL có 
trường hợp nam có triệu chứng đường tiết niệu 
triệu  chứng.  Nhiều  phương  pháp  đã  được  giới 
dưới(3,5). Phần lớn các trường hợp đều không có 
thiệu:  cắt  đốt  nội  soi  TTL,  mổ  mở  qua  ngã  hội 
triệu chứng. Tuy nhiên nang lớn TTL có thể gây 
âm hay ngã bụng. 
chèn  ép  các  cơ  quan  lân  cận  như  niệu  đạo  sau 
Chúng  tôi  xin  trình  bày  một  trường  hợp 
hoặc  cổ  bàng  quang.  Bệnh  nhân  có  thể  bị  triệu 
nang TTL trên bệnh nhân 38 tuổi được điều  trị 
chứng  đường  tiết  niệu  dưới,  viêm  mào  tinh 
cắt toàn bộ TTL qua ngã bụng trên xương mu. 
hoàn, đau vùng chậu, đau bẹn, nặng có thể gây 
BỆNH ÁN 
bí tiểu. Thậm chí nang TTL chèn ép túi tinh gây 
(6)
xuất tinh máu, vô sinh  và hay được chẩn đoán 
Hành chính 
nhầm.  Nang  TTL  là  bệnh  hiếm  gặp  nhưng 
* Bệnh viện Bình Dân, TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Tế Kha  


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

ĐT: 0938898659   Email:  

315


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Bệnh nhân: Ngô Tr. O. SNV 210/17761. 
Sinh năm: 1975. 
Nhập viện ngày 10/05/2012. 

Lí do nhập viện 
Sốt và bí tiểu đã được mở bang quang ra da. 

Hình 1. Lần mổ đầu tiên: a. Siêu âm qua ngã trực 
tràng; b. nội soi niệu đạo (không thấy có sự thông 
thương nang với niệu đạo); c. hình MSCT scan. 
Giải phẫu bệnh trước lần mổ đầu tiên: tăng 
sinh  lành  tính  TTL,  giải  phẫu  bệnh  sau  lần  mổ 
đầu tiên: viêm kinh niên xơ hóa. 

Bệnh sử 

Thăm khám 


Cách nhập viện 2 ngày, bệnh nhân sốt 38,50C 
và bí tiểu. Bệnh nhân được mở bàng quang ra da 
tại  bệnh  viện  Bến  Tre.  Sau  đó  bệnh  nhân  được 
chuyển đến bệnh viện Bình dân. 

Bụng  mềm.  Dẫn  lưu  bàng  quang  ra  nước 
tiểu vàng trong. Thăm khám hậu môn trực tràng 
thấy TTL to, mật độ chắc, không nhân cứng. 

Tiền căn 
Cắt đốt nội soi bằng LASER nang TTTL năm 
09/2010 với chẩn đoán: tuyến tiền liệt đa nang. 

Cận lâm sàng 
Bạch  cầu  máu  10,36  K/ul,  TPSA  2,58  ng/ml, 
Creatinine 131 umol/l. 
Siêu  âm:  hai  thận  ứ  nước  độ  2,  niệu  quản 
giãn chưa loại trừ bướu bàng quang, ít máu cục 
trong lòng bàng quang. 



 
Hình 2. Hai thận ứ nước độ 2. 

Giải phẫu bệnh trước mổ lần 2 



Mô tả giải phẫu bệnh vi thể: Thượng mô ống 

tuyến  tăng  sản  tạo  nhú  nhô  vào  lòng  ống,  ống 
tuyến giãn rộng thành bọc, lót bởi 2 lớp tế bào, 
lớp  trong  hình  trụ  cao,  lớp  ngoài  hình  lập 
phương hoặc dẹt, màng đáy của ống tuyến còn 
nguyên.  Mô  đệm  có  tăng  sản  sợi  và  cơ  trơn, 
thấm nhập limpho bào. 
Kết luận: Tăng sản lành tính TTL. 



316

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

 
 
Hình 4. Hai thận ứ nước độ 2, niệu quản dãn ngoằn 
ngòe. 
Hai thận ứ nước độ 2. 

 

Trong và sau phúc mạc chậu, phía sau dưới 
bàng  quang  có  khối  dịch  với  nhiều  dây  dính, 
phản quang kém khá đồng nhất, D# (67x87)mm. 

khối dịch này có lẫn thuốc cản quang (thì khảo 
sát chậm). 

Hình 3: Tăng sản lành tính TTL. 

Tường trình phẫu thuật 

MSCT scan bụng chậu có cản quang 

Chẩn đoán trước mổ: Bướu vùng hạ vị nghi 
TTL đa nang tái phát. 
Chẩn đoán sau mổ: Tuyến tiền liệt đa nang 
tái phát. 
Phương  pháp  phẫu  thuật:  Mổ  mở  qua  ngã 
bụng thám sát + cắt TTL tận góc. 

Quá trình 
Bệnh nhân nằm ngửa, mê nội khí quản. 
 

Rạch  da  đường  giữa  trên  và  dưới  rốn.  Vào 
phúc mạc thám sát các tạng trong ổ. bụng bình 
thường, không có dịch trong ổ bụng. 
Mở  bọng  đái  thám  sát,  cơ  bọng  đái  viêm 
dày. 
Có  1  khối  bướu  dạng  nang  nhô  lên  từ  TTL 
vào bàng quang. 
Chọc hút nang ra dịch trong. 
Tiến hành khâu cột tĩnh mạch lưng dương vật. 
Bộc lộ mạc nội chậu hai bên. 


 

Bóc tách TTL đến niệu đạo, cắt toàn bộ TTL 
và 2 túi tinh 2 bên, đặt JJ niệu quản T. 
Tạo hình lại cổ bàng quang. Khâu niệu đạo 
vào bàng quang bằng 6 mũi vicryl 3.0. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

317


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Bơm  bóng  Foley  30cc  nơ  (kéo)  nhẹ  dương 
vật. cầm máu kỹ, đặt 2 ống dẫn lưu 2 hố chậu. 
Ngoại phúc mạc  hóa  bàng  quang.  Đóng  bụng 
2 lớp. 

PSA 0,5 ng/ml, Qmax: 16.3 ml/s. 

 
Hình 6. Niệu dòng đồ của bệnh nhân sau 3 tháng. 

BÀN LUẬN 



Nang  TTL  được  phân  loại  theo  Sivaraman 
như sau(10): 1) tắc nghẽn (retention); 2) bẩm sinh 
(congential);  3)  ác  tính  (malignant);  4)  ký  sinh 
trùng (parasitic cysts). 
1)  Nang  TTL  do  tắc  nghẽn  (retention): 
thường  xuất  hiện  ở  người  lớn  tuổi.  Emmett  và 
Braash  đề  nghị  sử  dụng  thuật  ngữ  này  cho 
những nang có kích thước trên 0,75  cm.  những 
nang nảy xuất hiện do viêm hay do sỏi gây tắc 
nghẽn các ống tuyến nằm sâu trong TTL. 


Hình  5.  a.  Nang  TTL  sau  mở  bàng  quang 
b.Nang TTL đại thể. 
Thời gian phẫu thuật là 150 phút, lượng máu 
mất 200 ml. 

Hậu phẫu 
Ngày  6  rút  dẫn  lưu  hố  chậu  2  bên,  ngày  7 
bệnh nhân xuất viện. 
Dịch  lấy  từ  nang  có  nồng  độ  protein  cao 
19g/l và có tinh dịch. 

Kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật 
Đại thể: TTL to kích thước 8cm toàn bộ cấu trúc 
dạng đa nang, vách nang mỏng chứa dịch trong. 
Vi thể:  vách  nang  là  tổ  chức  liên  kết  sợi,  lót 
lớp  biểu  mô  dẹt,  mô  đệm  ngấm  nhiều  tế  bào 
viêm, tất cả đều lành tính. 


Tái khám 
Bệnh nhân được tái khám sau 1 và 3 tháng. 

Sau 3 tháng 

318

2)  (a)  Nang  phát  triển  từ  những  nang  nhỏ 
TTL  (utricle  cysts)  với  sự  phát  triển  của  ụ  núi 
nhô  vào  bàng  quang.  (Cysts  arising  from  the 
prostatic  utricle  with  enlargement  of  the 
verumontanum and projecting into the bladder); 
(b)  Nang  ống  Mullerian  (Mullerian  cysts)  nằm 
giữa TTL và trực tràng bắt nguồn từ những tàn 
tích  của  ống  müllerian.  Sau  này  từ  sự  dãn  nở 
hình  thành  nên  nang  TTL;  (c)  Nang  Wolffian 
(Wolffian cysts) nằm lệch về phía bên giữa TTL 
và trực tràng  
3)  Nang  ác  tính  (malignant  cysts):  ung  thư 
TTL đôi khi cũng tạo ra nang lớn chứa mô hoại 
tử và máu. 
4) Nang ký sinh trùng (parasitic cysts) do các 
kí  sinh  trùng  Bilharzia  (Schistosoma)  hay 
Echinococcosis gây ra. 
Nhìn  chung  có  2  loại  nang  bẩm  sinh  TTL 
thường  gặp  nhất  là:  nang  ống  Mullerian 
(Mullerian  duct  cysts)  và  nhiều  nang  nhỏ  TTL 
(utricle  cysts).  Nang  ống  Mullerian  (Mullerian 
duct  cysts)  có  nguồn  gốc  từ  trung  bì  và  không 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
thông thương với niệu đạo TTL hay túi tinh nên 
không  bao  giờ  có  tinh  trùng  trong  dịch  nang. 
Nhiều  nang  nhỏ  (utricular  cysts)  cò  nguồn  góc 
từ  nội  bì,  ống  phóng  tinh  có  thể  nằm  bên  cạnh 
thành nang, có thông thương với niệu đạo TTL 
và có tinh trùng trong dịch nang. 
Thuật  ngữ  nhiều  nang  nhỏ  TTL  (utricle 
cysts) theo Berrocal(2) có thể là do bẩm sinh hoặc 
có  thể  là  do  mắc  phải  từ  viêm  niệu  đạo  hay 
viêm,  nhiễm  khuẩn  ụ  núi  dẫn  đến  tích  tụ  các 
dịch tiết làm dãn các nang. Các nang này thường 
nằm đường giữa TTL, nhô lên làm thay đổi cấu 
trúc  sàng  bàng  quang  và  túi  tinh.  Nang  được 
bao phủ bởi những tế bào biểu mô hình trụ hoặc 
hình  khối  và  chứa  các  dịch  tiết  màu  nâu  sẫm. 
Xét  về  mặt  bẩm  sinh  của  nhiều  nang  nhỏ  TTL 
(utricle cysts), tỷ lệ nang phát triển lớn liên quan 
đến dị tật lỗ tiểu đóng thấp và lưỡng tính là 11% 
đến 14%. Theo tác giả Pieter Dik và cộng sự thì 
phân biệt 2 loại nang đôi khi không cần thiết vì 
chọn phương pháp điều trị là như nhau(9). 
Điều  trị  nang  TTL  theo  Hui‐hui  Zhang(4)  và 
cộng sự cắt đốt nội soi nang TTL chỉ thích hợp 
với những nang có kích thước nhỏ (≤ 2cm x 2cm) 
và nằm gần bàng quang hay niệu đạo. Phương 
pháp này có tỷ lệ biến chứng thấp và thời gian 

nằm  viện  ngắn  ngày.  Tuy  nhiên  có  những  bất 
lợi:  hình  thành  một  đường  thông  suốt  từ  nang 
đến niệu đạo, xuất tinh ngược dòng vào hố nang 
mở  vào  niệu  đạo,  rỉ  nước  tiểu  sau  khi  đi  tiểu, 
xấu  nhất  là  gây  ra  tình  trạng  vô  sinh(1).  Trong 
trường hợp có nang lớn, thành của nang không 
được cắt hết có thể tái thiết lập trở lại gây bí tiểu. 
Trong bài báo cáo của Micheal và công  sự  có  2 
trường được điều trị bằng cắt đốt nội soi và thất 
bại.  Một  trường  hợp  được  mổ  mở  cắt  toàn  bộ 
TTL(7). 
Phẫu  thuật  nội  soi  (laparoscopic  approach) 
trong  điều  trị  nang  TTL  phù  hợp  với  những 
nang lớn nằm sâu trong vùng chậu và cho phép 
lấy toàn bộ nang. Lợi thế của phương pháp này 
là vêt mổ nhỏ, ít đau, phục hồi nhanh sau mổ(4). 
Đối với mổ mở cắt TTL qua ngã bụng Ikoma 
và cộng sự đã tiến hành 2 phương pháp: đường 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Nghiên cứu Y học

vào mở bàng quang (transvesical procedure) và 
ngoài bàng quang (extravesical procedure). Tuy 
nhiên  theo  Michael  trong  12  trường  hợp  nang 
TTL  được  mổ  mở  cắt  TTL  qua  ngã  bụng  ngoài 
bàng quang thì có một trường hợp phải chuyển 
qua  mổ  mở  bàng  quang(7).  Nếu  đường  mổ  ở 
vùng hội âm thì nguy cơ cao gây tổn thương cơ 

thắt ngoài, trực tràng và tỷ lệ thành công 43%(8). 
Trường  hợp  của  chúng  tôi  nghĩ  nhiều  đến 
nang  nang  ống  Mullerian  do  trước  lần  mổ  đầu 
tiên:  soi  niệu  đạo  bàng  quang  không  thấy  sự 
thông thương giữa nang với niệu đạo TTL, hình 
ảnh  MSCT  scan  cho  thấy  nang  hình  ảnh  nang 
nằm  giữa  trực  tràng  và  niệu  đạo,  dịch  nang 
trong  suốt  (quan  sát  qua  lần  mổ  thứ  2).  Chúng 
tôi chọn phương pháp mổ mở cắt TTL qua ngã 
bụng mở bàng quang là do bệnh nhân đã được 
mổ cắt đốt nội soi cách 20 tháng, vừa được mở 
bàng quang ra da tại tuyến tỉnh, nang lớn và có 
thể  thám  toàn  bộ  vùng  chậu  một  cách  rõ  ràng. 
Sau mổ 3 tháng bệnh nhân cải thiện triệu chứng 
lâm sàng. Qmax sau 3 tháng đạt 16.3 ml/s. 

KẾT LUẬN 
Nang TTL chiếm tỷ lệ không cao và thường 
được phát hiện tình cờ. Phần lớn các trường hợp 
đều  không  có  triệu  chứng.  tuy  nhiên  nang  lớn 
TTL có thể gây chèn ép các cơ quan lân cận như 
niệu  đạo  sau  hoặc  cổ  bàng  quang  (miệng  niệu 
quản?). Bệnh nhân có thể bị triệu chứng đường 
tiết  niệu  dưới,  viêm  mào  tinh  hoàn,  đau  vùng 
chậu, đau bẹn, nặng có thể gây bí tiểu. Thậm chí 
nang TTL chèn ép túi tinh gây xuất tinh máu, vô 
sinh(6) và hay được chẩn đoán nhầm. Nang TTL 
là bệnh hiếm gặp nhưng không nên không chú ý 
(nên  được  theo  dõi  vì  có  thể  gây  tắc  nghẽn 
đường tiết niệu). Can thiệp phẫu thuật nên được 

tiến hành trong những trường hợp nang TTL có 
triệu  chứng.  Nhiều  phương  pháp  đã  được  giới 
thiệu:  cắt  đốt  nội  soi  TTL,  mổ  mở  qua  ngã  hội 
âm  hay  ngã  bụng.  Việc  lựa  chọn  phương  pháp 
điều trị tùy theo từng trường hợp cụ thể. Tối ưu 
nhất  vẫn  là  phương  pháp  mổ  mở  cắt  TTL  qua 
ngã bụng mở bàng quang. 

319


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

Anding R., Steinbach F. and Bernhardt T.M. (2000). “Urology 
Treatment  of  Large  Prostatic  Cyst  with  Retropubic  Inser‐tion 
of a Fat Tissue Flap”. Journal of Urology, Vol. 164, pp. 454‐455. 
Berrocal  T,  López‐Pereira  P,  Arjonilla  A  et  al  (2001). 

“Anomalies  of  the  distal  ureter,  bladder,  and  urethra  in 
children:  embryologic,  radiologic,  and  pathologic  features”. 
Radiographics, vol 5, pp.1139–1164. 
Dik  P.,  Lock  T.M.  and  Schrier  B.P  (1996).  Transurethral 
Marsupialization  of  a  Medial  Prostatic  Cyst  in  Patients  with 
Prostatitis‐Like Symptoms. Journal of Urology, Vol. 155, No. 4, 
pp. 1301‐1304. 
Hui‐hui  Zhang,  Fan  Qi,  Jun  Wang,  Min‐feng  Chen,  Zhuo  Li, 
Xiong‐bing  Zu  (2011).  “Midline  Prostatic  Cysts  Presenting 
with Chronic Prostatitis or Secondary Infertility and Minimally 
Invasive Treatment: Endoscopic or Laparoscopic Approach?”. 
Surgical Science, vol 2, pp.285‐289. 
Ishikawa  M.,  Okabe  H.  and  Oya  T.  (2003).  Midline  Prostatic 
Cyst  in  Healthy  Men:  Incidence  and  Transabdominal 
Sonographic  Findings.  American  Journal  of  Roent‐genology, 
Vol. 181, No. 6, pp. 1669‐1672. 
 

320

6.

7.

8.
9.

10.

Mayersak J.S. (1989). Urogenital Sinus‐Ejaculatory Duct Cyst: a 

Case  Report  with  a  Proposed  Clinical  Classification  and 
Review of the Literature. Journal of Urology, Vol. 142, No. 5, 
1989, pp. 1330‐1332. 
Michael  G.,  Desautel,  Jeferey  Stock  and  Moneer  K.  Hana 
(1999).  “Mullerian  duct  remnants:  surgical  management  and 
fertility issues”. The Journal of Urology, vol 162, pp. 1008‐1014. 
Moore.V. and Howe G. E. (1953) “Mullerian duct remnant in 
the male”. J. Urol., vol 70, pp.781. 
Pieter Dik, Tychom M. W. T. Lock, Bart PH. Schier, Bramy Y. 
W.  Zeijlemakerand  and  Tom  A.  Boon  (1996).  “Transurethral 
marsupialization  of  a  medial  prostatic  cyst  in  patients  with 
prostatitis‐like symptoms”. J Urol, vol 60, pp. 476‐478. 
Sivaraman  L.  (1978).  “Prostatic  cysts”.  Annals  of  the  Royal 
College of Surgeons of England”, vol 6o, pp. 476‐478. 

 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
  

14‐05‐2013 
15‐06‐2013 
15‐07‐2013 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  




×