Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Kết quả bước đầu điều trị lệch khúc xạ ở trẻ em bằng laser excimer

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.84 KB, 10 trang )

1. Công trình nghiên cứu

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ LỆCH KHÚC XẠ
Ở TRẺ EM BẰNG LASER EXCIMER
LÊ THÚY QUỲNH, TÔN THỊ KIM THANH

Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm giá kết quả thị lực, khúc xạ, hiệu quả và sự an toàn của phẫu
thuật Laser Excimer theo phương pháp LASIK để điều trị lệch khúc xạ cao ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp: thử nghiệm lâm sàng tiến cứu không có đối chứng. Bệnh
nhân (BN) là trẻ em <16 tuổi lệch khúc xạ giữa 2 mắt 5D được mổ tại bệnh viện Mắt
TW từ tháng 8/2005 đến 3/2007. BN được gây mê hoặc gây tê tại chỗ để mổ. Phẫu thuật
được thực hiện bằng máy Laser Excimer Nidek EC 5000-CX III, và hệ thống dao tạo vạt
giác mạc MK-2000, tạo vạt dầy 130 m. Mục đích của phẫu thuật là làm giảm độ lệch
khúc xạ giữa 2 mắt xuống dưới 3 D từ đó trẻ có thể đeo được kính, hạn chế nhược thị.
Kết quả: 37 mắt của 37 trẻ đã được mổ LASIK. Tuổi trung bình ở thời điểm mổ là 12,34
± 3,12(SD). Khúc xạ tính theo tương đương cầu trước mổ là -9,40 ± 4,91 (từ -5 đến 15D), sau mổ 6 tháng giảm xuống còn -1,60±1,91 (từ +1,25 đến -7D). Kết quả thị lực
sau mổ 6 tháng không chỉnh kính so với thị lực có kính tốt nhất trước mổ: 16/37 BN
(43,24%) tăng thêm 1-2 dòng; 5 (13,51%) BN tăng 3-6 dòng; 16/37 BN (43,24%) đạt
thị lực sau mổ không kính bằng trước mổ có kính. Không có biến chứng trong và sau
mổ. Kết luận: LASIK có thể thực hiện an toàn và đạt hiệu quả ở trẻ em giúp cải thiện
thị lực, giải quyết lệch khúc xạ ở trẻ em.
Từ khoá: lệch khúc xạ 2 mắt, phẫu thuật Lasik

15,9% và PTTH là 20,2%; theo thống kê
của phòng khám Viện mắt cùng năm có
34.340 lượt người tới khám khúc xạ
(chiếm 30% tổng số BN) trong đó 70%
là trẻ em. Các bệnh nhi đều được chẩn
đoán và chỉnh kính theo phương pháp



I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tật khúc xạ là một trong những
bệnh thường gặp nhất trong nhãn khoa,
đặc biệt ở trẻ em. Theo điều tra của trung
tâm Mắt Hà nội năm 1999 tỉ lệ cận thị ở
học sinh tiểu học là 10,3%, PTCS là

3


kinh điển là đeo kính gọng phù hợp để
cải thiện thị lực.
Lệch khúc xạ là sự chênh lệch
khúc xạ giữa 2 mắt của cùng một cá thể
từ 0,5D trở lên (chiếm khoảng 2,4% số
trẻ bị tật khúc xạ).
Khi đeo kính gọng, nếu chênh lệch
giữa 2 mắt lớn hơn 3D thường gây khó
chịu, thậm chí trẻ không chấp nhận do
chóng mặt, buồn nôn, nhức đầu Do đó
mắt có tật khúc xạ cao hơn có thể bị
nhược thị. Điều trị nhược thị cần thực
hiện sớm, tốt nhất khi trẻ dưới 10 tuổi.
Với những mắt lệch khúc xạ cao nếu
đeo kính gọng đủ số còn gây hiện tượng
hình ảnh không đều giữa 2 mắt, là
nguyên nhân của mất thị giác 2 mắt. Sử

dụng kính tiếp xúc có thể giải quyết
được các tình trạng trên. Tuy nhiên với
điều kiện khí hậu nóng, ẩm, nhiều bụi
của Việt Nam có thể gây viêm nhiễm
mắt nếu đeo kính tiếp xúc trong thời
gian dài, cùng với việc tháo lắp kính khá
phức tạp nhất là đối với trẻ em nên kính
tiếp xúc khó sử dụng và duy trì ở trẻ em.
Điều trị nhược thị, cần bịt kín mắt
tốt, đeo đủ số kính để tập luyện mắt
bệnh. Khi mắt nhược thị được cải thiện
thị lực, nếu trẻ vẫn không chấp nhận đeo
kính gọng chênh lệch nhiều giữa hai mắt,
hoặc không dung nạp được kính tiếp xúc
thì những trẻ đó sẽ tái nhược thị. Những
trường hợp lệch khúc xạ như vậy ở người
trưởng thành thì phẫu thuật khúc xạ là
lựa chọn thích hợp nhất từ những thập kỉ
trước. Gần đây một số nước tiên tiến trên
thế giới như Mỹ, Anh, Séc, Brazin, đã áp
dụng phẫu thuật Laser Excimer cho BN
trẻ em có lệch khúc xạ cao. Đây là lần
đầu chúng tôi áp dụng kĩ thuật hiện đại

này cho trẻ em có lệch khúc xạ cao ở
nước ta với mục tiêu:
Đánh giá kết quả của phẫu thuật
Nhận xét về chỉ định của phẫu
thuật
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG

PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:
BN trẻ em dưới 16 tuổi có lệch
khúc xạ giữa 2 mắt đáp ứng 2 tiêu chuẩn
sau:
- Chênh lệch khúc xạ giữa 2 mắt
≥5D
- Không thể đeo được kính gọng do
lệch khúc xạ nhiều giữa 2 mắt, hoặc
không thể dung nạp với kính tiếp xúc.
(Chỉ phẫu thuật ở 1 mắt có khúc xạ cao
hơn)
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Có các bệnh cấp và mãn tính tại
mắt như: viêm kết mạc cấp, viêm loét
giác mạc, viêm màng bồ đào, glôcôm,
khô mắt, giác mạc hình chóp,...
Mắc bệnh toàn thân không cho
phép phẫu thuật
Những trẻ mà gia đình không chấp
nhận có thể phải đeo kính sau mổ, có thể
mắt sau mổ còn tiếp tục tăng số kính, gia
đình không có điều kiện chăm sóc và
khám lại định kì sau mổ và tiếp tục tập
nhược thị nếu cần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: nghiên
cứu lâm sàng tiến cứu, không đối chứng.
Xử lí số liệu theo T student test.
2.3. Qui trình nghiên cứu:

2.3.1. Khám trước mổ:
Đo khúc xạ liệt điều tiết; Thử thị
lực không kính và có chỉnh kính tốt nhất.

4


Test hình nổi, đo độ lác, nhãn áp,
độ dầy giác mạc, khúc xạ giác mạc.
Làm siêu âm, điện võng mạc;
Khám kiểm tra toàn diện mắt và đáy mắt.
Chụp bản đồ giác mạc, xử lý số liệu
bằng phần mềm Final Fit.
Bác sĩ tư vấn và giải thích kĩ tình
hình bệnh, tiên lượng và các việc phải
làm trước và sau khi phẫu thuật cho bố
mẹ BN. Trẻ được xem băng video và
xem bác sĩ mổ truyền hình trực tiếp qua
màn hình để giúp trẻ không bỡ ngỡ và lo
sợ khi vào phòng mổ và cũng từ đó phân
loại trẻ mổ mê hoặc gây tê tại chỗ.
2.3.2. Tiến hành phẫu thuật
Phẫu thuật LASIK được thực hiện
trên máy Laser Excimer Nidek EC 5000CX III với hệ thống dao tạo vạt MK2000-130 microns; hệ thống truy tìm mắt
200Hz; các phần mềm xử lý số liệu và
các dụng cụ phẫu thuật khác.
Các thông số phẫu thuật: Laser cắt giác
mạc với 0,22micromet/xung; năng lượng
tác động 150mj/cm2; thời gian
10nm/xung; tần số nhắc lại 120Hz; bước

sóng 192nm.
Trước phẫu thuật mắt mổ được tra
kháng sinh: Tobramycin 4 lần/ngày.
Trong phòng mổ: BN được tra
thuốc tê tại chỗ (novesine 2%) 15
phút/lần x 3 lần, sát trùng vùng mắt bằng
dung dịch Betadin 5%.
Tiến hành phẫu thuật: BN nằm
dưới máy sinh hiển vi; phủ khăn mổ; đặt
vành mi; đánh dấu trên bề mặt giác mạc
nơi chuẩn bị tạo vạt giác mạc; đặt vòng
hút quanh rìa với áp lực hút 65mmHg.
Tạo vạt giác mạc đường kính 8,5mm,
chiều dầy 130microns. Vạt được lật về
phía mũi, thấm khô nhu mô giác mạc,

chỉnh tâm điểm bắn laser đúng trục thị
giác; bật chế độ truy tìm mắt; cố định
nhãn cầu bằng vòng cố định và bắn laser
theo thông số khúc xạ cần chỉnh của BN
đã được tính toán theo phần mềm Final
Fit đã được chỉnh quang sai và những bất
thường của giác mạc. Khi kết thúc laser,
rửa sạch nền giác mạc bằng dung dịch
BSS, đặt lại vạt vào vị trí cũ theo đúng vị
trí đã đánh dấu trước đó, thấm khô vạt,
đặt kính tiếp xúc bảo vệ vết mổ. Kết thúc
phẫu thuật BN được tra Tobramycin và
Diclofenac.
2.3.3. Theo dõi sau mổ

BN được khám định kỳ sau mổ 1; 2
ngày, 1 tuần, 1,3,6,12... tháng.
Tobramycin,
Diclofenac

Fluorometholon 0,1% tra 4 lần/ngày
trong 2-3 tuần đầu; nước mắt nhân tạo tra
trong 2-3 tháng.
Theo dõi sau mổ bao gồm: Thị lực
không kính, có kính tốt nhất; Khúc xạ,
chụp OPD, đánh giá cảm giác chủ quan
(như độ kích thích, chói, cộm, lóe sáng
đánh giá mức độ hài lòng của BN, tình
trạng vết mổ, vạt giác mạc (phẳng, hay bị
nhăn, độ trong suốt, phù nề, tình trạng
biểu mô xâm nhập dưới vạt),
Các dấu hiệu viêm nhiễm và biến
chứng sau mổ nếu có.
Đánh giá kết quả BN sau mổ theo 3
mức độ: Tốt-Trung bình-Xấu dựa theo:
Tốt: Khúc xạ giảm >70% so với
trước mổ; Thị lực tăng; không có cảm
giác cộm, chói, quầng sáng hoặc lóa mắt;
không có tai biến trong mổ và biến
chứng sau mổ. BN rất hài lòng với phẫu
thuật.
Trung bình: Khúc xạ giảm 5070%, thị lực tăng hoặc bằng có kính

5



trước mổ; chói, cộm, quầng sáng nhẹ
III. KẾT QUẢ
trong 3 tháng; không có tai biến hoặc
3.1. Đặc điểm bệnh nhân
biến chứng. Hài lòng với phẫu thuật
Nghiên cứu gồm 37 mắt (37 BN):
Xấu: Khúc xạ giảm <50%, thị lực
23 nam và 14 nữ, có lệch khúc xạ cao
bằng hoặc sụt 1 hàng, có cảm giác cộm,
giữa 2 mắt ≥5D. BN được mổ ở mắt có
chói, hoặc lóa mắt sau mổ trên 3 tháng;
khúc xạ cao hơn. 35 BN đã phối hợp với
có tai biến hoặc biến chứng. Chưa hài
gây tê tại chỗ, 2 BN phải gây mê toàn
lòng.
thân.
Bảng 1: Đặc điểm BN
Giới
Nam
Nữ
Tổng số

Số BN
23
14
37

Tuổi trung
bình

11,6 ± 42,94
12,5 ± 43,12
12,3 ± 43,12

Tuổi BN khi phẫu thuật trung bình
là 12,34 tuổi, BN nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn
nhất là 16 tuổi. Trong 37 BN có 14 nữ và
23 nam.
3.2. Tình hình khúc xạ của BN:
Tật khúc xạ trung bình (tính theo
tương đương cầu =SE) của mắt mổ là 9,40D (từ -5 đến -15D). Chênh lệch khúc

Min

Max

8
6
6

16
16
16

xạ giữa 2 mắt của cùng một BN trung
bình 9,06D (lệch thấp nhất 5D, cao nhất
là 13,5D). Sau mổ chênh lệch giữa 2 mắt
giảm xuống trung bình chỉ còn 1,51D ở
thời điểm 6 tháng.
Có 19 mắt trước mổ cận nặng từ

5D đến 10D; 18 mắt cận rất nặng từ trên
10D đến 15D. (Bảng 2).

Bảng 2: Khúc xạ trước và sau mổ 6 tháng
Khúc xạ tương đương cầu (SE) trước
Phân loại SE trước mổ
mổ
Từ 5 đến
Từ >10 đến
Mắt
Mắt
Lệch
10D
15D
mổ
không mổ
khúc xạ
TB
-9,40
± -1,10
±
9,06D ±
4,91
1,28
2,53
Min
-5,0
0
5,0
19 mắt

18 mắt
Max
-15,0
-4,5
13,5
Sau mổ ở các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng chênh lệch khúc xạ giữa 2 mắt
còn lần lượt trung bình 1,27D; 1,31D và 1,51D.
Bảng 3: So sánh khúc xạ 2 mắt trước và sau mổ
Số diop

SE trước mổ

SE sau mổ
1 tháng

6

SE sau mổ
3 tháng

SE sau mổ
6 tháng


Mắt mổ
Mắt không mổ
Khác nhau

-9,40 ± 4,91
-1,10 ± 1,28

-9,06 ± 2,53

-1,46 ± 1,92
-1,10 ± 1,28
-1,27 ± 1,41

-1,54 ± 1,82
-1,10 ± 1,28
-1,31 ± 1,24

-1,60 ± 1,91
-1,26 ± 1,33
1,51 ± 1,41

Có 16 mắt thị lực tăng 1 đến 3 dòng, 5
mắt thị lực tăng 4-9 dòng.

3.3. Tình hình thị lực của BN
Thị lực sau mổ không kính bằng so
với thị lực có kính trước mổ ở 16 mắt.

Bảng 4: So sánh thị lực không kính sau mổ 6 tháng với có kính tốt nhất trước mổ
Thị lực sau mổ
Giữ nguyên
Tăng 1-3 dòng Tăng 4-9 dòng
Tổng số
Số mắt
16
16
5

37
Trước khi mổ tất cả các mắt bệnh
Thời điểm 6 tháng sau mổ có 21/37
được chỉnh kính với tốt nhất. Với kính này
BN thị lực tăng từ 1 đến 9 hàng, chiếm
có 5 mắt thị lực đạt dưới 1/10; có 22 mắt có
73,9%. Sau mổ không cần đeo kính mà
kính thị lực đạt từ 1 đến 3/10; 8 mắt thị lực
vẫn có thị lực tốt như đeo kính trước mổ
đạt trên 3/10 tới 6/10 và chỉ có 2 mắt đeo
gặp ở 16/37 BN (43,24%).
kính đạt thị lực trên 6/10.
Bảng 5: So sánh thị lực trước và sau mổ 1, 3, 6 tháng
Thị lực
<1/10 1- <3/10 3- <6/10 >6/10
Trước mổ
5
22
8
2
Có kính
Sau mổ 6 tháng
0
17
10
10
Sau mổ 1 tháng
4
15
15

3
3
17
12
5
Không kính Sau mổ 3 tháng
Sau mổ 6 tháng
2
15
12
8

điểm 3 và 6 tháng có sự khác biệt (bảng
6).
Quang sai trước mổ ở mắt bệnh
trung bình 11,35. Sau khi mổ ở thời điểm
3 và 6 tháng lần lượt là: 3,89 và 3,12.

3.4. Nhãn áp, quang sai trước và sau
mổ
Trước phẫu thuật nhãn áp mắt mổ
là 18,24mmHg, mắt không mổ là
18,66mmHg. Sau phẫu thuật ở các thời

Trước mổ
Sau mổ 3 tháng
Sau mổ 6 tháng

Tổng số
37

37
37
37
37

Bảng 6: Nhãn áp, quang sai trước và sau mổ
Nhãn áp
Quang sai
Mắt mổ
Mắt không mổ
Mắt mổ
Mắt không mổ
18,24 ± 1,52
18,66 ± 1,45
11,35 ±
2,14 ± 1,01
2,46
18,42 ± 1,48
18,28 ± 1,51
3,89 ± 1,63
2,09 ± 1,24
18,49 ± 1,61
18,39 ± 1,48
3,12 ± 1,51
2,36 ± 1,32

7


100% BN được tạo vạt hoàn chỉnh

trong phẫu thuật.
Không có trường hợp nào trong
nghiên cứu của chúng tôi bị nhăn vạt

Sau mổ

Chói

1 ngày
2 ngày
1 tuần
1 tháng
3 tháng
6 tháng

3
0
0
0
0
0

giác mạc sau mổ, không có hiện tượng
phù vạt cũng như viêm nhiễm sau mổ.
Trục nhãn cầu ở mắt mổ trung bình
27,26mm và mắt không mổ là 23,76mm.

Bảng 7: Đánh giá cảm giác chủ quan
Cộm
Chảy nước

Quầng
Lóa mắt
mắt
sáng
17
10
4
4
2
1
4
3
0
0
4
3
0
0
3
1
0
0
0
0
0
0
0
0

Sau mổ BN có chói, cộm, chảy

nước mắt nhẹ chủ yếu trong ngày đầu,
ngày thứ 2 chỉ còn 2 trẻ có khó chịu nhẹ.
Từ 1 tuần trở đi các triệu chứng này khỏi
hoàn toàn. Có 4 BN có quầng sáng và lóa
mắt trong 1 tháng đầu sau mổ. Tất cả 37
BN đều rất hài lòng với phẫu thuật.
Theo phân loại sau mổ chúng tôi
thấy: 35 BN (95%) cho kết quả sau mổ là
tốt; 2 BN (5%) cho kết quả trung bình;
không có BN nào sau mổ kết quả xấu.

Hài lòng

37
37
37
37
37

mắt được mổ trung bình (tính theo tương
đương cầu) trước mổ là -9,40D, trong khi
mắt không mổ có số công suất khúc xạ ở
mức cận nhẹ là -1,10D. Sự khác nhau về
khúc xạ giữa 2 mắt trên cùng một BN là
rất cao: -9,06D. Với sự chênh lệch khúc
xạ cao này trẻ không thể đeo được kính,
từ đó mắt bệnh dần dần nhược thị. Kết
hợp với việc phẫu thuật khi tuổi đã lớn
thì nhược thị càng nặng và khả năng
phục hồi thị giác ở trẻ càng lớn càng khó

khăn. Vì vậy, hiện nay nhiều tác giả đã
thực hiện phẫu thuật này ở lứa tuổi ngày
càng thấp, ngay khi giác mạc đã phát
triển đầy đủ lúc trẻ 2 tuổi.
Sau mổ, số điop ở mắt cận loạn cao
đã giảm rất nhiều, ở thời điểm 1; 3; 6
tháng lần lượt chỉ còn -1,46; -1,54 và 1,60D; còn mắt bình thường có số điop
trung bình là -1,10; -1,10 và -1,26.
Chênh lệch khúc xạ giữa 2 mắt trung
bình ở các thời điểm 1; 3 và 6 tháng lần
lượt là 1,27; 1,31 và 1,51D. Các chỉ số
chênh lệch khúc xạ này tương đối ổn
định trong thời gian 6 tháng. Với số điop
chênh lệch giữa 2 mắt sau mổ thấp dưới

IV. BÀN LUẬN
Tuổi trung bình trong nhóm BN
nghiên cứu của chúng tôi là 12,34 tuổi
(±3,12), cao hơn nhiều tác giả khác
(Autrata R là 5,4 tuổi, trong 1 nghiên cứu
khác của tác giả này là 11,32 tuổi) do trẻ
em của ta chưa có điều kiện tiếp cận với
thành tựu y tế mới, và do tuyên truyền
chưa được rộng rãi. BN nhỏ tuổi nhất
trong các nghiên cứu khác là 2 tuổi trong
khi ở nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 6
tuổi.
Trong báo cáo này chúng tôi chỉ
khu trú ở nhóm cận loạn cao. Khúc xạ


8


3D (35/37 BN - chiếm 95%) giúp cho trẻ
có thể đeo đủ và đúng số kính cần thiết,
từ đó cho thị lực tốt nhất và giảm nhược
thị. Một số tác giả đã nhận thấy trong số
BN nghiên cứu của họ thậm chí sau mổ
không cần tập nhược thị mà thị lực
không kính vẫn tăng hơn thị lực có kính
tốt nhất trước mổ. Chúng tôi có 21
trường hợp như vậy. Có 1 BN trước mổ
kính tốt nhất chỉ đạt 1/10 vậy mà sau mổ
không cần đeo kính thị lực vẫn đạt 10/10;
và 3 BN từ 5/10 lên 8/10; 9/10 và 10/10.
Về thị lực của BN cũng được cải
thiện rõ rệt. 100% BN có thị lực sau mổ
không cần dùng kính vẫn sáng hơn hoặc
bằng thị lực trước mổ phải đeo kính. Kết
quả này cũng tương đương với kết quả
của tác giả Autrata R. nghiên cứu phẫu
thuật này ở 41 mắt và đã theo dõi trong
thời gian 5 năm: không có mắt nào bị
giảm thị lực so với kính tốt nhất trước
mổ. Các tác giả khác như Astle WF;
Nucci P; Paysse EA đều cho kết quả sau
mổ bênh nhân không cần đeo kính mà
vẫn cho thị lực tốt bằng hoặc hơn khi đeo
kính trước mổ.
Tất cả BN và gia đình đều hài lòng

với kết quả đạt được sau phẫu thuật, cao
hơn các BN người lớn chúng tôi đã mổ.
Vì đây là trẻ em có số kính một mắt quá
cao, trẻ không thể đeo được, coi như mắt
đó bỏ đi, và thường là sau nhiều lần theo
đuổi chữa chạy không hy vọng, giờ được
mổ laser mắt bệnh tăng thị lực rõ rệt.
Tất cả các BN có cảm giác chủ
quan như chói mắt, cộm, chảy nước mắt
rất nhẹ chỉ gặp trong vài giờ đến một
ngày đầu sau mổ. Sau đó 100% BN
không còn cảm giác khó chịu này. 4/37
BN (10,8%) thấy quầng sáng, lóa mắt

nhẹ trong thời gian sau mổ 1 tháng, sau
đó các dấu hiệu này giảm dần và hết hẳn
sau 3 tháng. Cả 4 BN này đều có độ cận
loạn rất cao từ -13 đến -15 diop. Tỷ lệ
BN có triệu chứng nhìn đèn có quầng
sáng hoặc lóa mắt thấp là do chúng tôi sử
dụng máy Laser Excimer Nidek thế hệ
mới nhất có ứng dụng phần mềm Final
Fit để điều trị và sửa chữa quang sai bậc
cao có ở mắt tật khúc xạ. Kết hợp với hệ
thống truy tìm mắt (Eye tracking) giúp
laser luôn bắn đúng tâm quang học của
mắt, từ đó tránh được các quang sai do
phẫu thuật gây ra. Tất cả các phần mềm
trên phối hợp để điều chỉnh quang sai rất
cao có trước mổ trung bình 11,35 xuống

còn 3,12 sau mổ.
Các BN được tiếp tuc hướng dẫn
tập nhược thị (tùy theo tuổi và mức độ
nhược thị) để cải thiện thị lực tốt hơn.
Chúng tôi nhận thấy những trẻ càng lớn
tuổi thì nhược thị càng sâu, và khả năng
tăng thị lực với kính trước khi mổ cũng
hạn chế, do vậy phục hồi thị lực sau mổ
cũng chỉ giới hạn ở mức đeo kính trước
mổ. Cần nhớ rằng phẫu thuật khúc xạ
này chỉ có tác dụng thay kính của BN
đang dùng-tức BN đeo kính thị lực tăng
bao nhiêu thì sau mổ thị lực tốt nhất cũng
thường chỉ đạt bấy nhiêu, chỉ có khác là
BN không phải đeo kính số rất cao nữa.
Vì vậy ở những trẻ càng nhiều tuổi tức
đã lâu không đeo được kính đúng số, thì
mắt đó bị nhược thị nặng, sau mổ thị lực
cải thiện được rất ít. Và như chúng tôi đã
nói ở trên, tập nhược thị tốt nhất khi trẻ
dưới 10 tuổi. Vậy có tác giả đã mổ cho
BN có lệch khúc xạ cao khi chúng mới
có 2 tuổi, vì khi 2 tuổi nhãn cầu của trẻ

9


và đặc biệt giác mạc (là nơi thực hiện phẫu
thuật LASIK) đã phát triển như người lớn.
Mắt mổ có trục nhãn cầu dài hơn

mắt không mổ trung bình 2,98mm. Trục
nhãn cầu khi tăng 1mm thì cận thị tăng
3D. Như vậy độ dài trục nhãn cầu tăng
tương quan với số diop tăng cận thị (là 9,40D). Vậy nguyên nhân cận thị trong
nhóm BN nghiên cứu chủ yếu là do trục.
Chúng tôi không thấy có sự thay
đổi nhãn áp ở hai thời điểm trước mổ và
sau mổ 6 tháng (lần lượt là 18,24mm và
18,42mmHg).
Trong 2 BN kết quả sau mổ được
đánh giá là trung bình do khúc xạ sau mổ
chỉ giảm được dưới 70%. Đây là 2 BN
cận rất nặng 15D. Tuy nhiên giảm được
8D ở mắt cận nặng cũng là thành công
lớn. Sau mổ 2 BN này vẫn đạt được thị
lực không kính bằng thị lực chỉnh kính
tốt nhất trước mổ. Số BN còn lại (35 =
95%) đạt kết quả tốt theo tiêu chuẩn
chúng tôi nêu trên. Không có BN nào
trong nhóm kết quả xấu.
Có 35/37 trẻ đã phối hợp rất tốt với
bác sĩ để có thể mổ gây tê tại chỗ, chỉ có 2
cháu 6 tuổi phải gây mê toàn thân. Một
điều rất thú vị là đa số các cháu bé phối
hợp rất tốt với bác sĩ khi mổ gây tê và
những lần khám lại.
Chúng tôi không gặp tai biến nào
đáng sợ trong mổ như đứt rời vạt giác
mạc, vạt giác mạc khuyết cúc áo hoặc
không tạo hết vạt giác mạc. Việc bắn

laser đúng tâm cũng được thực hiện an
toàn do máy laser Nidek thế hệ hiện đại
có hệ thống truy tìm mắt, và kết hợp
dụng cụ cố định nhãn cầu đã đảm bảo
cho toàn bộ thời gian laser bắn đều đúng
tâm đồng tử. Thời kì hậu phẫu cũng diễn

ra an toàn. Không có BN nào bị nhăn vạt
giác mạc, không có biến chứng như phù
vạt hoặc nhiễm trùng sau mổ. Chỉ có 1
BN bị trợt biểu mô giác mạc nhẹ nên
phải giữ kính tiếp xúc sau mổ 2 ngày, sau
đó mắt bình thường.
BN của chúng tôi là trẻ em, nhưng
vì chỉ phải mổ ở 1 mắt, mắt kia cơ bản
thị lực tốt nên chúng không thấy bất tiện
hoặc khó khăn gì lắm sau mổ. Ngay sau
mổ trẻ vẫn mở mắt được bình thường,
không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt.
Do là bệnh nhi nên vấn đề chăm sóc mắt
cũng như việc kiêng khem giữ gìn mắt
sau mổ cũng là vần đề lớn. Phẫu thuật
đạt kết quả tốt thì tư vấn của bác sĩ cho
bố mẹ BN và cho bản thân trẻ là việc rất
quan trọng.
Qua kết quả đã thu được là khá tốt
và độ an toàn cao, chúng tôi nhận thấy có
thể mổ cho trẻ lệch khúc xạ sớm hơn, khi
giác mạc đã phát triển đầy đủ và có thể
mổ khi độ lệch khúc xạ thấp hơn (3D)

nếu trẻ không thể đeo được kính lệch.
V.

KẾT LUẬN
Phẫu thuật LASIK có thể thực hiện
ở trẻ em có lệch khúc xạ cao giữa 2 mắt
mà không thể điều trị theo phương pháp
đeo kính gọng hoặc không thể dung nạp
kính tiếp xúc. Phẫu thuật này đã giúp giải
quyết tốt vấn đề lệch khúc xạ giữa 2 mắt,
giúp cải thiện thị lực, và phần nào cải
thiện nhược thị ở trẻ em.
Đây là phương pháp phẫu thuật an
toàn cho trẻ em, không gặp biến chứng gì
đặc biệt trong và sau mổ.
Có thể mở rộng chỉ định điều trị
khi độ lệch giữa 2 mắt là 3D nếu trẻ
không thể đeo được kính và có nguy cơ

10


nhược thị, cũng như nên mổ ở tuổi nhỏ
hơn để phòng nhược thị.
Tuy nhiên chúng tôi thấy cần theo
dõi trẻ sau mổ lâu hơn, với nhiều thông
số hơn và cần nghiên cứu trên số lượng
BN đông hơn.

Có thể phẫu thuật laser excimer cho

trẻ lệch khúc xạ cận thị, viễn thị và loạn
thị. Trong giới hạn bài này chúng tôi chỉ
tổng kết nhóm BN phẫu thuật lệch khúc
xạ
cận
thị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
AGARWAL A, AGARWAL T, et al: Results of pediatric laser in situ
keratomileusis. J. Cataract refract surg 2000; 26: 684-689
2.
AUTRATA R, REHUREK J, VODICKOVA K: Phototherapetic keratectomy in
children: 5 years results. J. Cataract refract surg 2004; 30: 1909-1916
3.
ASTLE WF, HUANG PT,B INGRAM AD, FARRAN RP: Laser-assisted
subepithelial keratectomy in children. J. Cataract refract surg 2004; 30: 25292535
4.
NUCCI P, DRACK AV: Refractive Surgery for Unilateral High myopia in
children. JAAPOS 2001; 5: 348-351
5.
PAYSSE EA, HAMILL MB, HUNSSEIN MAW, KOCH DD: Photorefactive
Keratectomy for Pediatric Anisometropia: Safety and impact on Refractive error,
visual acuity, and stereopsis. American Journal of Ophthalmology July 2004; 7077
6.
PAYSSE EA, HUNSSEIN MAW, KOCH DD, WANG L, BRADY MCCREERY
KM, GLASS NL, HAMILL MB: Successful Implementation of a Protocol for
Photorefactive Keratectomy in Children requiring General Anesthesia. J. Cataract
refract surg 2003; 29(9): 1744-1747
7.

PHILLIPS CB, PRAGER TC, GLYNETT MCCLELLAN, MINTZ-HITTNER
HA,: Laser in situ keratomoleusis for treated anisometropic amblyopia in awake,
autofixating pediatric and adolescent patients. J. Cataract refract surg 2004; 30:
2521-2528.

SUMMARY

LASIK SURGERY FOR HIGH MYOPIC ANISOMETROPIA
IN CHILDREN: PRELIMINARY RESULTS
Objective: To evaluate the visual, refactive results, efficacy and safety of
refractive surgery by laser in situ keratomileusis (LASIK) for treatment of pediatric
anisometropia. Methods: Prospective clinical trial. Pediatric patients under 16 year old

11


with anisometropia ≥5D. The eye with the higher refractive error was treated with
LASIK. Patients were under topical or general anesthesia. LASIK was performed to
creat a 130 m corneal flap. Our goal is to reduce the anisometropia to 2 diopters or less
between 2 eyes. Cycloplegic refraction, uncorrected visual acuity (UCVA) and bestcorrected visual acuity (BCVA) were measured and compared preoperative and
postoperative at the 1st, 3rd and 6th month. Results: 37 eyes of 37 patients (6 to 16
years old) received refractive surgery. Average age at the time of surgery was
12.3±43.12 (SD). The mean preoperative spherical equivalent (SE) was 9.40±4.91
(range -5.0 to -15D) and the mean postoperative SE at 6 months was 1.60±1.91 (range
+1.25 to 7.0D). Compare BCVA pre-op and UCVA at 6th month post-op: 16/373
patients (43.24%) gained 1 to 2 lines, 5/37 patients (13.51%) improved 3 to 6 lines,
16/37 patients (43.24%) regained their BCVA pre-op. No complication was observed.
Conclusions: LASIK can be performed safely, effectively to improve the visual acuity
and resolve the anisometropia in children. The importance is that they should have a cooperation enough for the operation just by topical anesthesia.
Key words: anisometropia, lasik surgery.


12



×