Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá chức năng bàng quang trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy cấp tính có ứng dụng ghép tế bào gốc trung mô nguồn gốc mô mỡ tự thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.42 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG BÀNG QUANG TRONG ĐIỀU TRỊ
CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG LIỆT TỦY CẤP TÍNH CÓ ỨNG DỤNG
GHÉP TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ NGUỒN GỐC MÔ MỠ TỰ THÂN
Nguyễn Đình Hoà*, Đỗ Đào Vũ**, Nguyễn Văn Thạch*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàng quang trong điều trị chấn thương tủy sống giai đoạn
cấp tính bằng ứng dụng cấy ghép tế bào gốc trung mô từ mô mỡ tự thân
Phương pháp: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc 40 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là chấn thương cột
sống ngực – thắt lưng liệt tủy hoàn toàn được mổ tại bệnh viện Việt đức từ 10/2012 đến10/2014; được chia làm
hai nhóm ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1.
Kết quả: Số cơn co bóp không tự chủ của nhóm điều trị là 0,4 ± 0,221 thấp hơn nhóm đối chứng là 2,3 ±
0,300, sự khác biệt này là có nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên, không thấy sự cải thiện có ý nghĩa về các chỉ số
Pdetmax, MCC và độ giãn nở bàng quang tại thời điểm 6 tháng sau cấy ghép tế bào so với nhóm chứng (p>0,05).
Pdetmax<40cmH2O tại thời điểm 3 tháng chiếm tỷ lệ cao hơn thời điểm 6 tháng nhưng sự khác biệt không có ý
nghĩa (p>0,05). Kết quả cho thấy sự yếu kém trong chăm sóc bàng quang thần kinh sau cấy là lý do khiến một số
thông số niệu động học không có sự cải thiện so với nhóm chứng.
Kết luận: Ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn.
Là phương pháp ứng dụng mới trong điều trị chấn thương cột sống đặc biệt nhằm cải thiện chức năng bàng
quang, vấn đề vốn còn nhiều khó khăn trong điều trị và chăm sóc. Phương pháp này mang đến niềm hy vọng mới
cho bệnh nhân và người nhà. Cần phải đánh giá thêm về tính an toàn và hiệu quả của phương pháp. Nhưng đây
cung là một giải phápcó triển vọng cho người bệnh có rối loạn chức năng bàng quang thần kinh sau chấn thương
cột sống có liệt tuỷ hoàn toàn.
Từ khóa: Chấn thương tủy sống, tế bào gốc, bàng quang thần kinh

ABSTRACT
EVALUATING BLADDER FUNTION IN TREATMENT OF SPINAL CORD INJURY WITH ADIPOSE


CULTURED AUTOLOGOUS MESENCHYMAL STEM CELLS
Nguyen Dinh Hoa, Do Dào Vu, Nguyen Van Thach
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 138 - 145
Objectives: To evaluate the effectiveness of rehabilitating bladder function in treatment of spinal cord injury
with adipose cultured autologous mesenchyme stem cells.
Methodology: a cross-sectional intervention study on 40 patients diagnosed with thoracolumbar injuries
and complete paralysis. The patients were operated in Viet Duc hospital from October 2012 to October 2014. The
subjects were classified randomly into two groups (1:1).
Results: The number of involuntary contraction in treatment group (0.4 ± 0.221) was lower than that of the
control group (2.3 ± 0.300); this difference was insignificant (p<0.05). There were no significant improvement in
Pdetmax, MCC and compliance at 6 months after stem cell transplantation (p > 0.05). At 3 months after
transplantation, the rate of patients with Pdetmax<40 cmH2O was higher than at 6 months after transplantation,
* Bệnh viện Việt Đức ** Bệnh viện Bạch Mai
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Đào Vũ
ĐT: 0982041278

138

Email:

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

but the difference was insignificant (p > 0.05). This finding showed that the poor management of neurogenic
bladder after transplantation caused no improvement in urodynamic parameters of the treatment group compared
to the control group.

Conclusion: Spinal cord injury (SCI) is a devastating condition producing great personal and societal costs
and for which there is no effective treatment. Nowadays we can only operate the patients with fixation and
decompression; it is difficult to recover neuron function. Stem cell transplantation is a promising therapeutic
strategy, but much preclinical and clinical research work remains. Research in stem cell biology and cell
reprogramming is rapidly advancing, with the hope of moving stem cell therapy closer to helping people with SCI.
Key words: spinal cord injury, stem cell, neurogenic bladder
học trong và ngoài nước. Nhiều bệnh lý thuộc
ĐẶT VẤN ĐỀ
nhiều chuyên nghành khác nhau đã được điều
Chấn thương tủy sống (CTTS) gây nên
trị bằng TBG với kết quả rất khả quan, trong đó
những thương tổn thần kinh bao gồm liệt vận
có bệnh chấn thương cột sống. Với đặc tính có
động, cảm giác, rối loạn cơ tròn là những hậu
khả năng tự tái tạo và biệt hóa thành những tế
quả rất phổ biến và nặng nề thường thấy trên
bào chuyên biệt, đa dòng trong những điều kiện
lâm sàng. Liệt tủy hoàn toàn thường xảy ra khi
nhất định như tế bào cơ, xương, sụn, da, tế bào
tổn thương trên nón tủy, lâm sàng được biểu
thần kinh…TBG được xem như là nguồn
hiện mất hoàn toàn vận động và cảm giác dưới
“nguyên liệu” dự trữ, giúp cơ thể sửa chữa, tái
mức tủy tổn thương bao gồm cả cảm giác quanh
tạo, thay thế những mô, tổ chức bị tổn thương từ
hậu môn(8). Hàng năm có khoảng 40 ca CTTS mới
đó cải thiện chức năng trong đó có bàng
trong một triệu dân hoặc tổng số có khoảng
quang(9,10,8). Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành
12000 ca CTTS tại Mỹ. Bệnh nhân nam giới

nghiên cứu với
chiếm đa số với tỷ lệ khoảng 77%, tuổi trung
Mục tiêu
bình của bệnh nhân trong ba thập kỷ gần đây
Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàng
khoảng từ 28,7 đến 39,5 tuổi với nguyên nhân
quang
trong điều trị chấn thương tủy sống giai
chính là tai nạn giao thông và ngã cao. Tổn
đoạn cấp tính bằng ứng dụng cấy ghép tế bào
thương đụng dập tủy chiếm 70%(8).Tại Việt Nam,
gốc trung mô từ mô mỡ tự thân.
CTTS gặp chủ yếu do tai nạn lao động và tai nạn
giao thông với độ tuổi trung bình khoảng 35-40
có thể chiếm đến 80%, đây là lực lượng lao động
chính của xã hội(4,10).Bệnh nhân CTTS ngoài vấn
đề mất sức lao động sau chấn thương, phụ thuộc
vào người chăm sóc, bệnh nhân còn phải được
điều trị các biến chứng như loét tỳ đè, viêm tắc
tĩnh mạch chi, rối loạn chức năng bàng quang
gây nhiễm trùng tiết niệu, trào ngược bàng
quang niệu quản dẫn đến tử vong trong bệnh
cảnh suy thận mạn tính(4,5).
Trong vài năm trở lại đây, bàng quang thần
kinh do CTTS là vấn đề được quan tâm vvaf có
những phương pháp điều trị mới, song kết quá
chưa được như mong đợi. Việc nghiên cứu về
ứng dụng tế bào gốc (TBG) trong điều trị bệnh
đã thu hút được sự quan tâm rất lớn trong giới y


Chuyên Đề Thận – Niệu

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Đối tượng hiểu và kí giấy chấp nhận tham
gia vào nghiên cứu này; Tuổi từ 19-60, không
phân biệt giới tính; Chuẩn đoán lâm sàng tổn
thương tủy sống theo Hiệp hội tổn thương tủy
sống của Hoa Kỳ (ASIA ở cấp độ A, liệt hoàn
toàn); Khoảng thời gian tổn thương dưới 14
ngày.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đối tượng phải thở bằng máy;
Đối tượng có khối u ác tính trong vòng 5
năm;

139


Nghiên cứu Y học
Đối tượng bị bệnh truyền nhiễm bao gồm
HIV và viêm gan C.
Các đối tượng bị tổn thương ở não hoặc chấn
thương phối hợp khác.
Các đối tượng có nhiệt độ cơ thể cao hơn
38℃ hoặc rối loạn cấp tính.
Đối tượng bị thiếu máu hoặc giảm tiểu cầu;
Đối tượng với chứng đau thắt ngực, nhồi
máu cơ tim, bệnh tim, bệnh tắc mạch, suy thận

mạn tính, bệnh cầu thận và bệnh tắc nghẽn phổi
mạn tính.
Đối tượng rối loạn suy giảm miễn dịch bẩm
sinh hoặc mắc phải.
Đối tượng với chứng loạn dưỡng cơ hoặc
cứng khớp.
Bệnh nhân không có ý thức hoặc rối loạn
giọng nói.
Bệnh nhân đang điều trị với các thuốc gây
độc tế bào (thuốc ức chế miễn dịch,
corticosteroid và thuốc gây độc tế bào) trong
suốt các thử nghiệm lâm sàng.
Bệnh nhân tham gia một thử nghiệm lâm
sàng khác trong vòng 3 thángbị bệnh nghiêm
trọng khác hoặc bị rối loạn có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến khả năng tham gia nghiên
cứu.
Phụ nữ có thai hay đang cho con bú.
Bệnh nhân có tiền sử dị ứng kháng sinh,
thuốc mê.
Bệnh nhân không đồng ý hoặc tham gia
nghiên cứu không đầy đủ.

Cỡ mẫu và cách thức tiến hành
Đối tượng nghiên cứu gồm 40 bệnh nhân
được chẩn đoán xác định là chấn thương cột
sống ngực – thắt lưng liệt tủy hoàn toàn được
mổ tại bệnh viện Việt đức. Bệnh nhân đáp ứng
đầy đủ tiêu chuẩn lựa chọn được chia làm hai
nhóm ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1, được làm xét

nghiệm trước khi cấy ghép. Bệnh nhân được
phẫu thuật theo phương pháp kinh điển cố
định cột sống giải ép, ghép xương và được

140

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
ứng dụng ghép tế bào gốc trực tiếp vào vùng
tổn thương theo các quy trình chuẩn với số
lượng tế bào 4x10^6 MSCs tiêm ở 4 vị trí trên
tổn thương, giữa tổn thương, dưới tổn thương
và dưới màng cứng.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại tại Bệnh viện Việt
Đức và Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10 năm
2012 đến tháng 10 năm 2014.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc
Chỉ định ghép tế bào gốc
Chỉ định ghép khối tế bào gốc tủy xương tự
thân cho những trường hợp chấn thương cột
sống có liệt tủy hoàn toàn đã được chẩn đoán
dựa trên lâm sàng và MRI theo những tiêu
chuẩn lựa chọn và loại trừ như trên
Quy trình kỹ thuật ghép khối tế bào mô mỡ
tự thân
Tùy vào vị trí chấn thương bệnh nhân được

phẫu thuật và kết hợp với ghép tế bào gốc tự
thân. Bằng 2 con đường: Bơm trực tiếp tế bào gốc
vào vùng thương tổn (3 vị trí: trên, giữa, dưới
thương tổn) và bơm tế bào gốc vào khoang dưới
nhện, sau khi mở màng cứng.
Các bước tiến hành
Bước 1 hỏi bệnh: Khai thác bệnh sử, thời gian
bị bệnh, nguyên nhân tai nạn.
Bước 2 khám lâm sàng: khám dấu hiệu toàn
thân; khám phát hiện liệt phân loại theo ASIA;
khám các tổn thương phối hợp; đánh giá cận lâm
sàng và hình ảnh: X quang, CT, MRI; chẩn đoán
xác định chấn thương cột sống dựa vào lâm sàng
và chẩn đoán hình ảnh.
Bước 3 Điều trị phẫu thuật: Yêu cầu: XQ tăng
sáng trong mổ, kính hiển vi phẫu thuật, phẫu
thuật viên chuyên khoa, đặc biệt và tế bào gốc để
ghép tự thân bằng 2 đường.
Chỉ định mổ: Có dấu hiệu mất vững cột sống;
Có dấu hiệu chèn ép ống tủy; Liệt tủy hoàn toàn.

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Nguyên tắc chung: Vô cảm; Bệnh được thực hiện
gây mê toàn thân với ống nội khí quản; Đặt ống
thông dạ dày tránh trào ngược, nhất là với
đường cổ trước, phẫu thuật viên cần nhận biết
để tránh thương tổn thực quản; Có thể làm giảm

chảy máu và dễ bóc tách bằng cách tiêm vào
vùng mổ hỗn hợp Adrenalin/Lidocain với tỉ lệ
1/100000.
Tư thế bệnh nhân: Thuận lợi cho phẫu thuật
viên vào đường mổ; Có thể sử dụng xquang,
kính hiển vi phẫu thuật trong mổ. Xác định vị trí
tổn thương: Chúng tôi sử dụng Xquang trong mổ
để xác định vị trí thương tổn và vùng tiêm
truyền tế bào gốc.

Thực hiện phẫu thuật cho bệnh nhân
Các phương pháp phẫu thuật: Bệnh nhân chấn
thương cột sống thắt lưng – thắt lưng: Bệnh
nhân nằm sấp, kế gối độn ở vai và hông, các thì
phẫu thuật gồm có:Tê tại chỗ; Rạch da tương
ứng vùng thương tổn; Bóc tách cơ cạnh sống;
Bộc lộ điểm bắt vít trên và dưới mức tổn thương;
Bắt vít qua cuống; Mở cung sau giải ép; Tiến
hành tiêm tế bào gốc vùng tổn thương: trên và
dưới vùng tổn thương ba liều mỗi liều 2ml, sau
khi đóng màng cứng tiêm liều 14ml; Đặt thanh
dọc; Bẻ ốc, siết ốc; Cầm máu, đặt dẫn lưu; Đóng
vết mổ theo giải phẫu.
Theo dõi, điều trị sau ghép khối tế bào gốc
mô mỡ tự thân
Sau khi thực hiện ghép tế bào gốc, tùy theo
vị trí mổ, tình trạng và tiên lượng toàn thân mà
bệnh nhân được về khoa điều trị hay điều trị
trên phòng hồi sức. Bệnh nhân được điều trị tích
cực:Kháng sinh toàn thân; Giảm đau sau mổ;

Chống phù nề tủy; Tập phục hồi chức năng; Tại
vùng lấy mô mỡ; Chảy máu, tụ máu tại vị trí hút
mỡ: thao tác chính xác, nhẹ nhàng, băng ép chặt
vị trị chọc hút mỡ. Máu tụ sẽ tự tiêu sau 3-5
ngày. Khi đau nhiều dùng thuốc giảm đau,
thuốc chống phù nề Alfachymotrypsin. Nhiễm
trùng tại vị trí hút mỡ: để tránh cần tuân thủ các
qui định về vô khuẩn trong khi hút mỡ. Dùng
kháng sinh phổ rộng. Nhiễm khuẩn sản phẩm tế

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học
bào gốc khi sản xuất: để tránh cần tuân thủ
nghiêm ngặt qui trình vô khuẩn trong khi sản
xuất tế bào gốc.

Phương pháp thu thập, phân tích số liệu
Các chỉ số nghiên cứu được thu thập theo các
biểu mẫu thiết kế sẵn tại các thời điểm trước mổ,
diễn biến trong và sau mổ, khám định kỳ hàng
tháng. Công cụ thu thập số liệu bao gồm: Hồ sơ
bệnh án theo mẫu thống nhất khi bệnh nhân vào
viện; Phiếu thu thập thông tin từ bệnh án; Phiếu
thu thập thông tin trong các lần khám bệnh nhân
định kỳ sau mổ tại Phòng khám phẫu thuật cột
sống, Bệnh viện Việt Đức; Tất cả các BN được
lựa chọn đều có mẫu bệnh án riêng với đầy đủ
các thông số cần thiết đã nêu. Đánh giá kết quả 3
tháng và 6 tháng bằng thăm dò niệu động học.


Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu sẽ được nhập vào máy tính và xử lý
theo chương trình phần mềm thống kê y học
SPSS. Các biến liên tục trình dưới dạng trung
bình. So sánh kết quả giữa các biến liên tục bằng
thuật toán kiểm định test T Student. Các biến thứ
tự và rời rạc được trình bày dưới dạng %. So
sánh kết quả của các biến rời rạc bằng thuật toán
kiểm định 2. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.

KẾT QUẢ NGHIÊNCỨU
Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới

Biểu đồ 1. Tỷ lệ giới
Nhận xét: Trong số bệnh nhân được nghiên
cứu, tỷ lệ nam/ nữ là 5.67 Trong đó bệnh nhân
nam là 34 bệnh nhân chiếm 85% nữ là 6 bệnh
nhân chiếm 15%.

141


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

Nhận xét: Tuổi trung bình của các bệnh nhân
nghiên cứu là: 37,75 ± 5.67 Bệnh nhân trẻ nhất là:

17 và bệnh nhân già nhất là 59. Tỷ lệ tuổi từ 3140 là cao nhất chiếm 37,5%

Đánh giá kết quả trên đo chức năng bàng
quang
Biểu đồ 2. Phân bố theo nhóm tuổi
Bảng 1. So sánh kết quả niệu động học thông qua số cơn co bóp không tự chủ của ở hai nhóm đối chứng và điều
trị tai thời điềm 6 tháng
Nhóm điều trị
Nhóm chứng

n
10
10

Trung bình ± Độ lệch chuẩn
0.4 ± 0.221
2.3 ± 0.300

Nhận xét: Số cơn co bóp không tự chủ của
nhóm điều trị là 0.4 ± 0.221 thấp hơn nhiều so với
đối chứng là 2.3 ± 0.300, sự khác biệt này là có

P
P=0,0001 < 0,05

nghĩa thống kê (với p<0,05; kiểm định MannWhitney test).

Bảng 2. Đánh giá mức độ cải thiện chức năng BQ thông qua các chỉ sô áp lực BQ tối đa (Pdetmax), sức chứa BQ
tối đa (MCC) và độ giản nở BQ (C) trong nhóm điều trị tại những thời điểm 3 tháng, 6 tháng
3 tháng sau

6 tháng sau
p

Pdetmax
54,78 ± 6,309
61,7 ± 10,157
>0,05

Nhận xét: Mặc dù số cơn co bóp không tự chủ
ở hai giai đoạn 3 tháng và 6 tháng có sự cải thiện
đáng kể, tuy nhiên, Pdetmax, MCC và C có sự
cải thiện nhỏ nhưng không đáng kể. Điều này có
thể giải thích là do khâu chăm sóc BQ của bệnh
nhân trong và sau điều trị không tốt
Dựa trên tương quan giữa Pdetmax, MCC
và C với

, nếu sức chứa tối đa tăng duy

trì mức ≥ 300 ml, áp lực tối đa BQ giảm dần về
giá trị 15 - 40 cm H2O, độ giản nở BQ tăng.
Điều này liên quan mật thiết đến việc tập
luyện duy trì thể tích nước tiểu trong BQ, làm

MCC
395,89 ± 46,407
338,3 ± 58,643
>0,05

C

23,06 ± 5,14
17,81 ± 6,01
>0,05

sạch nước tiểu BQ, chống rỉ tiều... Để có được
kết quả này, bệnh nhân cần được chăm sóc BQ
tốt và tham gia tập luyện phục hồi chức năng.
Thêm vào đó, sức chứa BQ tối đa ở 2 thời điểm
quan sát 3 tháng và 6 tháng sau điều trị điều
lớn ≥ 300ml. Mặc dù MCC ở thời điểm 6 tháng
thấp hơn thời điểm 3 tháng, tuy nhiên sự khác
biệt này là không có ý nghĩa. Điều này càng
củng cố thêm kết quả có sự cải thiện các thông
số niệu động học.

Bảng 3. So sánh áp lực BQ tối đa (Pdetmax), sức chứa BQ tối đa (MCC) và độ giản nở BQ (C) ở hai nhóm đối
chứng và điều trị tại thời điểm 6 tháng.
Nhóm điều trị (n=10)
Nhóm chứng (n=10)
p

Pdetmax
61,7 ± 10,157
69,7 ± 8,660
>0,05

MCC
338,3 ± 58,643
406,1 ± 52,309
>0,05


C
17,81 ± 6,01
10,79 ± 1,89
>0,05

Nhận xét: không thấy có sự cải thiện có ý
nghĩavề các chỉ số Pdetmax, MCC và C tại thời
điểm 6 tháng sau cấy ghép tế bào so với nhóm
chứng (p>0,05; kiểm định Mann-Whitney test)

142

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Biểu đồ 3. Biểu đồ phân bố bệnh nhân theo mức
Pdetmax tại hai thời điểm 3 và 6 tháng
Nhận xét: Khảo sát phân bố bệnh nhân theo
mức Pdetmax tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng
sau điều trị cho thấy: Pdetmax<40: tại thời điểm
3 tháng lớn hơn thời điểm 6 tháng tuy nhiên sự
khác biệt k có ý nghĩa. Tương tự, Pdetmax>40: tại
thời điểm 3 tháng nhỏ hơn thời điểm 6 tháng sự
khác biệt cũng không có ý nghĩa (p>0,05; kiểm
đinh Sign test). Có sự giảm nhẹ không đáng kể
về Pdetmax an toàn (Pdetmax <40) tại thời điểm
6 tháng so với 3 tháng (p>0,05), sự thay đổi này
có thể do bệnh nhân được chăm sóc, quản lý BQ

tốt dần sau điều trị

Biểu đồ 4. Phân bố bệnh nhân theo Pdetmax tại
tháng thứ 6 ở hai nhóm đối chứng và điều trị.
Nhận xét: Quan sát phân bố bệnh nhân theo
mức Pdetmax tại thời điểm 6 tháng trong hai
nhóm điều trị và đối chứng cho thấy: Tỉ lệ
Pdetmax<40: nhóm điều trị > nhóm đối chứng; Tỉ
lệ Pdetmax>40: nhóm điều trị < nhóm đối chứng.
Sự khác biệt của 2 nhóm này là không có ý
nghĩa. Vấn đề chăm sóc quản lý bệnh nhân sau
cấy ghép cần được quan tâm hơn, kèm theo đó
làsố lượng bệnh nhân trong nghiên cứu còn hạn
chế, sự đánh giá này cũng chỉ có tính chất mô tả,
chưa phản ánh được đầy đủ hiệu quả của
phương pháp điều trị. Vi vậy, cần tiếp tục đánh
giá thêm và có chế độ chăm sóc, quản lý BQ tốt
hơn sẽ giúp cải thiện Pdetmax an toàn hơn.

BÀNLUẬN
Theo kinh điển tổn thương mô thần kinh: sọ
não, tủy sống thì khả năng tái tạo là rất khó. Tuy
nhiên, gần đây các thử nghiệm lâm sàng, các
nghiên cứu về y học tái tạo mô thần kinh trung
ương với các bệnh lý như: Parkinson, thiếu máu
não và chấn thương tủy sống. Chấn thương tủy

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học

sống điều trị gồm phẫu thuật và sử dụng Steroid
liều cao đã thu được kết quả làm giảm tổn
thương thứ phát mô tủy. Tuy nhiên, hiệu quả
của điều trị Steroid liều cao là một chủ đề còn
tranh luận. Việc ứng dụng y sinh học trong điều
trị chấn thương tủy sống bao gồm việc sử dụng
các yếu tố tái tạo thần kinh của các dòng tế bào
gốc hoặc cấy ghép tế bào gốc đang dần trở thành
một xu thế để tái tạo được mô thần kinh(7).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
ghép tự thân để tránh được vấn đề liên quan tới
thải ghép và đặc biệt nguồn tế bào gốc từ mô mỡ
có nhiều thuận lợi hơn từ các nguồn khác. Thứ
nhất là rất dễ lấy với kỹ thuật gây tê tại chỗ, dễ
nuôi cấy để đạt thời gian kịp thời cấy vùng tổn
thương. Thứ hai là liệu pháp tế bào không tạo ra
tế bào ung thư. Thứ ba tế bào gốc nguồn từ mô
mỡ đã được chứng minh tạo ra rất nhiều tế bào
mô khác nhau, trong đó có tế bào thần kinh hoặc
tế bào thần kinh đệm. Ngoài ra, nhiều nghiên
cứu đã chứng minh tính an toàn khi ứng dụng
trên người(10). Tại Mỹ, chi phí cho bệnh nhân
CTTS hàng năm lên đến 10 tỷ đô la, chưa bao
gồm chi phí điều trị loét tỳ đè, một biến chứng
hay gặp nhất của liệt tủy hoàn toàn, có thể thêm
hàng tỷ đô la mỗi năm(8). Để có thể đưa các
nghiên cứu về tế bào gốc và thực tiễn ứng dụng,
thông thường cần phải theo các trình tự sau:
Nuôi cấy, biệt hoá tế bào gốc thành tế bào thần
kinh trong phòng thí nghiệm, bước này có thể

tiến hành song song với các nghiên cứu cơ chế
hình thành tế bào thần kinh từ tế bào gốc và các
nhân tố ảnh hưởng tới quá trình này. Tiếp theo
sau, các sản phẩm thí nhiệm có thể được thử
nghiệm trên mô hình động vật để chứng minh
hiệu quả của quá trình cấy ghép, xác định liều
lượng tế bào cần thiết cho qúa trình điều trị, tối
ưu hoá mức độ hồi phục các phản ứng của cơ thể
sau khi cấy ghép.
Sau khi chứng minh tính an toàn và hiệu quả
của phương pháp điều trị bằng tế bào gốc thì các
thử nghiệm lâm sàng trên người sẽ được tiến
hành theo 4 giai đoạn, tăng dần theo số lượng.
Tế bào gốc từ các nguồn khác nhau như tế bào

143


Nghiên cứu Y học
gốc phôi, tế bào gốc thần kinh từ thai, từ máu
dây rốn, tuỷ xương, mô mỡ…đều đã được thử
nghiệm trong mô hình điều trị chấn thương cột
sống. Các thử nghiệm trên bệnh nhân về tính an
toàn và tính khả thi của liệu pháp tế bào gốc đã
được tiến hành. Cho đến nay việc tiến hành
nghiên cứu trên động vật rất phổ biến và thu
được kết quả khả quan. Các nhà khoa học đã sử
dụng chuột, thỏ, linh trưởng làm đối tượng
nghiên cứu tác dụng của tế bào gốc trong điều
trị. Thông thường mô hình động vật thí nghiệm

bị chấn thương cột sống bằng cách kẹp tuỷ sống,
cắt đứt tuỷ sống. Nhìn chung, để đưa tế bào gốc
vào đôi tượng nghiên cứu có 2 con đường tuỳ
theo cơ chế hoạt động của tế bào gốc:
+ Đưa thẳng tế bào gốc (có thể là tế bào tiền
thần kinh, hoặc nguyên bào sợi thần kinh biệt
hoá từ tế bào gốc) hoặc các trường hợp chất tăng
trưởng từ tế bào gốc vào vùng tổn thương. Lúc
này tế bào gốc hoạt động theo hướng tái tao/thay
thế, biệt hoá thành tế bào thần kinh mới hoặc tế
bào đệm thần kinh.
+ Đưa tế bào gốc bằng đường gián tiếp:
Truyền tĩnh mạch hoặc tiêm vào vùng L2
(khoang dưới nhện). Các tế bào hiện diện sẽ hoạt
động theo hướng cảm ứng/hỗ trợ. Tế bào gốc
lưu thông, hạn chế tối đa sự chết theo chu kỳ và
hạn chế cả phản ứng viêm đã được chứng minh
có hại cho mô tuỷ. Các tế bào này khi hiện diện
sẽ tiết ra yếu tố tăng trưởng, đồng thời cũng tiết
ra các tín hiệu huy động các yếu tố tăng trưởng
cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích thích việc
hình thành mạch máu và tế bào thần kinh mới.
Theo một số ý kiến hiện nay, các nhà khoa học
cho rằng cảm ứng hỗ trợ này có thể là hướng
chính và hiệu quả hơn hẳn, vì theo đó, tế bào gốc
khi được đưa vào cơ thể, một mặt biệt hoá thành
tế bào thần kinh mới, một mặt tạo điều kiện để
cơ thể vật chủ tự hồi phục. Tại Việt nam gần đây
có nhiều nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong
điều trị, nhưng trong ngành chấn thương chỉnh

hình nói chung cũng như trong điều trị chấn
thương cột sống liệt tủy nói riêng còn hạn chế.
Cao Thỉ (2009) đã báo cáo ghép tủy xương để

144

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
điều trị gãy hở hai xương cẳng chân, Nguyễn
Mạnh Khánh (2010) báo cáo ứng dụng tế bào gốc
điều trị chậm liền xương, khớp giả thân xương
chày(5). Với sự phát triển không ngừng của khoa
học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển công nghê
tế bào gốc đã mở ra những hy vọng mới cho các
bệnh nhân. Ngày nay liệu pháp tế bào gốc được
ứng dụng ngày càng nhiều trong các chuyên
khoa, đặc biệt là chuyên khoa thần kinh và cột
sống. Tế bào gốc có thể lấy ở rất nhiều nơi, song
mỗi nơi có ưu nhược điểm khác nhau. Nhưng tế
bào gốc mô mỡ là ưu điểm hơn do: dễ dàng thực
hiện, bệnh nhân không đau, lượng tế bào gốc
thu được với số lượng lớn, dễ nuôi cấy.

KẾT LUẬN
Ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân
trong điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn
toàn. Là phương pháp ứng dụng mới trong điều
trị chấn thương cột sống đặc biệt nhằm cải thiện
chức năng bàng quang, vấn đề vốn còn nhiều
khó khăn trong điều trị và chăm sóc. Phương
pháp này mang đến niềm hy vọng mới cho bệnh

nhân và người nhà. Cần phải đánh giá thêm về
tính an toàn và hiệu quả của phương pháp.
Nhưng đây cung là một giải phápcó triển vọng
cho người bệnh có rối loạn chức năng bàng
quang thần kinh sau TTTS có liệt tuỷ hoàn toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.
6.

Lammertse D.P., Jones L.A.T. et la (2012) Autologous
incubated macrophage therapy in acute, complete spine cord
injury: results of the phase 2 randomized controlled
multicenter trial. SPINAL CORD: 50, 661-671.
Nguyễn Văn Thạch (2007). Nghiên cứu điều trị phẫu thuật
gãy cột sống ngực – thắt lưng không vững, không liệt và liệt
tủy không hoàn toàn bằng dụng cụ Moss Miami. Luận án tiến
sỹ Y học.
Nguyễn Lê Bảo Tiến (2004). Nghiên cứu kết quả phẫu thuật
chấn thương cột sống lưng – thắt lưng bằng vít qua cuống với
dụng cụ Moss Miami tại bệnh viện Việt Đức. Luận văn tốt
nghiệp bác sỹ nội trú các bênh viện.

Nguyễn Quang Tùng (2011). Nghiên cứu ứng dụng và hoàn
thiện quy trình thu gom, xử lý, bảo quản tế bào gốc tạo máu
dùng cho ghép đồng loại. Luận án tiến sỹ Y học.
Nguyễn Thị Thu Hà (2004). Tế bào gốc và ứng dụng trong y
sinh học, TCNCYH phụ bản 32(6): tr. 13-26.
Park H.S., Park H.C., Shim Y.S et al (2005). Treatment of
complete spinal cord injury patients by autologous bone
marrow cell transplantation and administration of

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

7.

8.

9.

granulocyte-macrophage colony stimulating factor. TISSUE
ENG; 11:913–922.
Saito F., Nakatani T., Iwase M. et al (2008). Spinal cord injury
treatment with intrathecal autologous bone marrow stromal
cell transplantation: The first clinical trial case report. J
TRAUMA; 64:53–59.
Sang H.K. et la (2013). Autologous Adipose Dirived MSCs
Trasplantation in Patient With Spinal Cord Injury Clinical trial
study.
Trần Văn Bé (1995). Chuyên đề nghiên cứu và ứng dụng tế

bào gốc ở Việt Nam: Ca ghép tủy đầu tiên ở Việt Nam. Tạp trí
y dược học.

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học
10.

Yoon S.H., Shim Y.S., Park Y.H. et al (2007). Complete spinal
cord injury treat- ment using autologous bone marrow cell
transplantation and bone marrow stimulation with
granulocyte macrophage-colony stimulating factor: phase I/II
clinical train STEM CELLS;25:2066-2073.

Ngày nhận bài báo:

10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/06/2015

Ngày bài báo được đăng:

05/08/2015

145




×