Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân điều trị thành công một trường hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào kháng trị bằng arsenic trioxide đơn độc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.26 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

NHÂN ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG MỘT TRƯỜNG HỢP BẠCH CẦU CẤP 
TIỀN TỦY BÀO KHÁNG TRỊ BẰNG ARSENIC TRIOXIDE ĐƠN ĐỘC 
Ngô Ngọc Ngân Linh*, Cồ Nguyễn Phương Dung**, Nguyễn Ngọc Quế Anh*, Võ Thị Kim Hoa**, 
Trần Quốc Tuấn*** 

TÓM TẮT 
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào bị phản ứng đỏ da toàn thân do ATRA (all‐
trans retinoic acid), thất bại với điều trị tấn công Daunorubicin liều chuẩn đơn thuần. Bệnh nhân đạt được lui 
bệnh hoàn toàn về huyết tủy đồ với điều trị tái tấn công Arsenic trioxide đơn độc. Bệnh nhân cũng đạt được lui 
bệnh về sinh học phân tử với t(15;17) và PML‐RARα (‐) sau điều trị củng cố bằng Arsenic trioxide. Chúng tôi 
không ghi nhận tác dụng phụ của arsenic trioxide ngoại trừ tình trạng sạm da mức độ nhẹ.  
Từ khóa: Bạch cầu cấp tiền tủy bào, kháng trị, all‐trans retinoic acid, Arsenic trioxide 

ABSTRACT 
THE SUCCESSFUL TREATMENT OF A CASE OF REFRACTORY ACUTE PROMYELOCYTIC  
LEUKEMIA USING ALONE ARSENIC TRIOXIDE 
Ngo Ngoc Ngan Linh , Nguyen Ngoc Que Anh, Co Nguyen Phuong Dung , Vo Thi Kim Hoa ,  
Tran Quoc Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 265 ‐ 270 
We report a patient with acute promyelocytic leukemia who suffered a severe erythema reaction by all‐trans 
retinoic  acid  (ATRA).  The  patient  was  failure  to  treatment  with  daunorubicin  chemotherapy  but  achieved  a 
hematological  complete  remission  after  reinduction  treatment  with  alone  arsenic  trioxide.  After  consolidation 
therapy with arsenic trioxide, he got a molecular biological remission with disappearance of t(15;17) and PML‐
RARα fusion gene. No side effect of arsenic trioxide was found exception mild tanning reaction. 
Key  words:  acute  promyelocytic  leukemia,  all‐trans  retinoic  acid,  arsenic  trioxide,  molecular  biological 
remission.  
nhắm  đích  lần  đầu  tiên  và  duy  nhất  cho  bệnh 
ĐẶT VẤN ĐỀ 


bạch cầu cấp, nhờ đó đã cải thiện đáng kể hiệu 
Bạch  cầu  cấp  tiền  tủy  bào  (BCCTTB),  được 
quả  điều  trị.  Trước  đó  BCCTTB  được  xem  là 
gọi là BCCDT type M3 theo phân loại Pháp‐Mỹ‐
bệnh ác tính gây tử vong cao, với điều trị bằng 
Anh (FAB), là một dưới nhóm đặc biệt của bạch 
hóa trị liệu phối hợp. Tuy nhiên, từ sau 1985 khi 
cầu  cấp  dòng  tủy  (BCCDT),  với  đặc  tính  sinh 
Yi  Zhen  Wang  chia  sẻ  các  dữ  liệu  về  hiệu  quả 
học,  đặc  điểm  lâm  sàng  và  di  truyền  học  khác 
khi  điềutrị  all‐trans  retinoic  acid  (ATRA)  trong 
biệt. Bệnh gây ra do sự ngừng biệt hóa bạch cầu 
BCCTTB, tỉ lệ lui bệnh đã tăng lên rõ rệt(12). 
ở giai đoạn tiền tủy bào và hầu hết bệnh nhân có 
Song, dù có sự cải thiện ngoạn mục về đáp 
biểu  hiện  sản  phẩm  protein  bất  thường  với 
ứng  và  về  tỉ  lệ  tử  vong  do  biến  chứng  xuất 
chuyển vị di truyền học đặc hiệu t(15;17)(14,15) 
huyết, các báo cáo vẫn ghi nhận một tỉ lệ khoảng 
Việc phát hiện và giải thích về sinh bệnh học 
12‐30%  trường  hợp,  tái  phát  với  điều  trị  chuẩn 
phân  tử  cho  BCCTTB  đã  dẫn  đến  việc  điều  trị 
ATRA  phối  hợp  Anthracyclin(2,8,11,21).  Do  vậy  mà 
* Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học Tp.Hồ Chí Minh 
*** Đại Học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh  
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Ngô Ngọc Ngân Linh 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

** Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 


 ĐT: 0902 778 222 

 Email:  

265


Nghiên cứu Y học 
vào  tháng  10  năm  2000,  sau  nhiều  thử  nghiệm 
lâm sàng khởi đầu tại Trung Quốc sau đó là Mỹ, 
một  loại  thuốc  được  chứng  minh  có  hiệu  quả 
như mong đợi, đó là Arsenic trioxide (ATO) đã 
được Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ 
(FDA)  chấp  thuận  cho  điều  trị  những  trường 
hợp BCCDTTB kháng trị hay tái phát(22,24,25,26,31). 
Tại  Bệnh  viện  Truyền  Máu  Huyết  Học  (BV 
TMHH)  Tp.HCM,  Arsenic  trioxide  vừa  có  mặt 
từ tháng 5/2013. Chúng tôi báo cáo một trường 
hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào dị ứng nặng với 
ATRA,  kháng  với  điều  trị  anthracyclin,  được 
điều trị với Arsenic oxide đơn thuần. Qua mô tả 
một trường hợp, chúng tôi tham khảo y văn và 
các  nghiên  cứu,  nhằm  xem  xét  và  phân  tích  để 
có  cái  nhìn  rõ  nét  hơn,  rộng  và  sâu  hơn  trong 
chọn lựa phương thức điều trị ATRA và Arsenic 
trioxide cho bệnh BCCTTB, với các chỉ định đơn 
thuần  hay  phối  hợp,  xem  xét  đến  yếu  tố  nguy 
cơ,  cũng  như  quan  điểm  sử  dụng  trong  giai 
đoạn  bệnh  mới  chẩn  đoán  hay  kháng  trị/  tái 

phát.  

CA LÂM SÀNG 
Bệnh  nhân  nam,  25  tuổi,  có  khởi  phát  bệnh 
khoảng 2 tuần với nhiều mảng bầm da tự nhiên 
toàn  thân  và  xét  nghiệm  máu  ghi  nhận  bất 
thường. Bệnh nhân nhập viện tại BV TMHH với 
hội  chứng  thiếu  máu  và  hội  chứng  xuất  huyết 
trên  lâm  sàng.  Huyết  đồ  ghi  nhận  tình  trạng 
giảm  3  dòng  tế  bào  máu  với  hemoglobin  (Hb) 
7,8 g/dl, tiểu cầu (TC) 7x103/ul và bạch cầu (BC) 
1,87x103/ul , trong đó bạch cầu hạt (BCH) chiếm 
0,38x103 /ul, tỉ lệ Blast 9%. Hình ảnh tủy đồ điển 
hình của một trường hợp BCCTTB với tủy giàu 
tế bào, giảm sinh 3 dòng tế bào tủy bình thường, 
bên cạnh tăng sinh quần thể tế bào non khoảng 
80%  mật  độ  tế  bào  tủy,  kích  thước  #  20  –  25 
micrometres, nhiễm sắc chất hơi mịn, tỉ lệ nhân 
và  nguyên  sinh  chất  khoảng  8  –  9/10,  nguyên 
sinh  chất  kiềm  trung  bình,  chứa  hạt;  thể  Aure, 
cho  phản  ứng  Peroxydase  dương  tính.  Kết  quả 
dấu  ấn  miễn  dịch  tế  bào  (DAMDTB)  trên  máy 
BD. FACS Canto II ghi nhận hình ảnh bạch cầu 
cấp dòng tủy với HLA‐DR âm tính (CD45: Inter, 

266

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
CD34  (‐),  CD117  (+)  75%,  HLA‐DR  (‐),CD33(+) 
99%, CD13(+) 40%, CD15 (‐), MPO (+) 97%, CD4 

(+)  15%).  Xét  nghiệm  đông  máu  ghi  nhận  tăng 
D‐dimer 11.746 ng/ml, TQ 13 s, tỷ lệ Prothombin 
96%, aPTT 30,1s và Fibrinogen 1,57 g/l. Kết quả 
nhiễm  sắc  thể  đồ  (karyotype)  ghi  nhận  chuyển 
đoạn 
t(15;17) 
trên 
14 
metaphase 
(46,XY,t(3;3)(q21;q26),t(15;17)(q22;q21)(14)/46,XY
(2)).  Kỹ  thuật  lai  huỳnh  quang  tại  chỗ  (FISH: 
fluorescence in situ hybridization) thực hiện trên 
200  tế  bào,  ghi  nhận  tỉ  lệ  chuyển  vị 
t(15;17)(q22;q21.1)  là  94.5%  trên.  Tổ  hợp  gen 
PML/RARA  (+)  với  kỹ  thuật  RT –
 PCR (reverse 
transcription – polymerase 
chain  reaction).  Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán 
bạch cầu cấp tiền tủy bào với phân nhóm nguy 
cơ trung bình.  
Bệnh  nhân  được  sử  dụng  ATRA  liều  45 
mg/m2.  Tuy  nhiên,  bệnh  nhân  bị  nổi  sẩn  hồng 
ban kèm ngứa, khởi phát chỉ sau khoảng 12 giờ 
sử  dụng  ATRA  và  diễn  tiến  nhanh  với  sốt  cao, 
đỏ  da  toàn  thân  và  phù  chỉ  trong  vòng  2  ngày 
điều trị (Hình 1). Chúng tôi không ghi nhận biểu 
hiện  tổn  thương  tại  phổi  qua  thăm  khám  lâm 
sàng và xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh học. Với 
chẩn đoán dị ứng da do ATRA, bệnh nhân được 
ngưng ATRA và điều trị ngay với Daunorubicin 

45  mg/m2/ngày  trong  3  ngày.  Phản  ứng  dị  ứng 
nặng  do  ATRA  cải  thiện  với  điều  trị 
Dexamethasone và thuốc kháng histamine. Bệnh 
nhân  không  đạt  được  lui  bệnh  hoàn  toàn  (CR) 
dù rằng tình trạng huyết học có cải thiện với xét 
nghiệm đông máu và số lượng tiểu cầu về giới 
hạn  bình  thường.  Với  tủy  đồ  thực  hiện  ở  ngày 
thứ 21 và ngày 39 ghi nhận tỉ lệ blast lần lượt là 
39%  và  8%  với  công  thức  máu  ở  ngày  cho  đến 
ngày 39 của điều trị là Hb 8,9 g/dl (nhịp truyền 
máu 3‐4 ngày/lần), TC 282x103/ul, BC 1,48x103/ul 
(SN  0,65x103/ul)  chúng  tôi  đánh  giá  bệnh  nhân 
chỉ đạt lui bệnh một phần sau điều trị tấn công 
Daunorubicin và 2 ngày ATRA. 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học
định), cũng như không ghi nhận các biến chứng 
khác. Tủy đồ đánh giá sau giai đoạn tăng cường 
với blast # 3% và PML–RARα (‐). 

BÀN LUẬN 
Điều trị BCCTTB với Arsenic Trioxide 

 


 
Hình 1. Sang thương đỏ da toàn thân do dị ứng 
ATRA 
Qua  hội  chẩn  bệnh  viện  chúng  tôi  quyết 
định  điều  trị  tiếp  tái  tấn  công  với  Arsenic 
trioxide  truyền  tĩnh  mạch  10mg/ngày  (0,15 
mg/kg/ngày)  trong  30  ngày.  Tác  dụng  phụ  về 
huyết  học  ghi  nhận  là  giảm  BCH  (BCH  giảm 
dưới 500/ul vào ngày thứ 19 của điều trị Arsenic 
trioxide, thấp nhất là 350/ul, hồi phục BCH trên 
500/ul vào ngày thứ N30). Tác dụng phụ trên da 
với sạm da mu bàn tay và sẩn hồng ban rải rác 2 
mu  chân  kèm  ngứa,  ghi  nhận  sau  4  ngày  sử 
dụng,  đáp  ứng  điều  trị  bằng  kháng  histamine. 
Tình  trạng  lâm  sàng  cải  thiện  với  lâm  sàng  ổn 
định, sẩn hồng ban và sạm da giảm dần rồi hết. 
Chúng  tôi  không  ghi  nhận  biến  chứng  khác  về 
tim mạch, gan, thận cũng như điện giải đồ. Bệnh 
nhân đạt lui bệnh hoàn toàn với hồi phục hoàn 
toàn về huyết đồ và tỉ lệ blast trên tủy đồ N28 và 
N42 lần lượt là 4% và 3%. 
Bệnh  nhân  được  điều  trị  tăng  cường  với 
phác  đồ  Arsenic  trioxide  đơn  thuần  với  liều 
10mg/ngày  x  5  ngày/tuần  x  5  tuần,  sau  đó 
ngưng 3 tuần và tiếp tục lặp lại lần hai. 
Bệnh nhân được điều trị đủ phác đồ với lâm 
sàng ổn định và không ghi nhận biến chứng về 
huyết  học  (không  giảm  BCH  và  huyết  đồ  ổn 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 


Lựa  chọn  phác  đồ  điều  trị  tấn  công  bệnh 
BCCTTB được đồng thuận dựa vào phân nhóm 
nguy cơ. Bệnh nhân BCCTTB có thể phân thành 
3 nhóm nguy cơ dựa trên số lượng bạch cầu và 
số  lượng  tiểu  cầu.  Nguy  cơ  thấp  khi  BC  < 
10x103/ul và TC > 40x103/ul, nguy cơ trung gian 
khi  BC  <  10x103/ul  và  TC  <  40x103/ul,  nguy  cơ 
cao khi BC > 10x103/ul(21). 
Chọn  lựa  đầu  tay  điều  trị  tấn  công 
BCCDTTB  là  ATRA  kết  hợp  với  các  loại  thuốc 
khác(29)  thường  là  nhóm  anthracyclin  như  các 
phác  đồ  BCCTTB  Châu  Âu(19,7),  phác  đồ  theo 
PETHEMA(21)  và  ở  một  số  quần  thể  đặc  biệt  là 
phác đồ ATRA kết hợp với arsenic trioxide(1). Sự 
kết  hợp  của  ATO  với  ATRA  được  xem  xét  cho 
những  bệnh  nhân  không  dùng  được  nhóm 
anthracycline(17). 
BN  của  chúng  tôi  được  dùng  phác  đồ  phối 
hợp  ATRA  và  anthracyclin  liều  chuẩn,  với 
ATRA dẫn nhập trước. Tuy nhiên do tình trạng 
dị ứng mức độ nặng, nên buộc phải ngưng dùng 
ATRA. Bệnh nhân không có dấu hiệu chỉ điểm 
của hội chứng ATRA và có số lượng bạch cầu < 
10x103/ul nên ít quan ngại về hội chứng RAS khi 
sử  dụng  ATRA.  Trên  BN  này,  dùng  ATO  thay 
thế ATRA giai đoạn này là cần thiết. Các nghiên 
cứu  cho  thấy  đáp  ứng  về  sinh  học  phân  tử  do 
ATO  cao  hơn  so  với  ATRA,  cả  trên  nhóm  BN 
mới  chẩn  đoán(30). Tuy  nhiên  thời  điểm  trên,  do 

không  có  thuốc,  nên  chỉ  có  thể  dùng 
Daunorubicin đơn độc. Với tình trạng huyết học 
không hồi phục ở N39 của điều trị Daunorubicin 
và hình ảnh tủy đồ Blast 8%, BN được đánh giá 
là kháng trị theo tiêu chuẩn đánh giá kháng  trị 
của  the  International  Working  Group  and  the 
European Leukaemia Net(3,5). 

267


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Hiệu  quả  của  ATRA  và  ATO  trên  bệnh 
BCCTTB  với  các  phác  đồ  đơn  trị  liệu  và  phối 
hợp. 
ATRA  và  ATO  làm  phá  vỡ  liên  kết  gen 
PML/RARα,  gây  giải  phóng  receptor  RARα, 
giúp lặp lại cấu trúc nhân tế bào, phục hồi quá 
trình  sinh  sản  và  trưởng  thành  của  tế  bào  tiền 
tủy bào thành bạch cầu hạt trung tính, đồng thời 
giải  phóng  đường  tiêu  hủy  bình  thường 
(apoptosis),  nhờ  đó  lặp  lại  vòng  đời  sống  bình 
thường của tế bào tiền tủy bào(29,30). 
Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn của ATO trong điều 
trị  BCCTTB  tái  phát  và  kháng  trị  đã  đưa  đến 
việc  nghiên  cứu  sử  dụng  ATO  cho  cả  trường 
hợp mới chẩn đoán. Các nghiên cứu khác cũng 


cho thấy ATO có hiệu quả hơn  so  ATRA  trong 
việc giảm mức độ của các tế bào tiền tủy bào tồn 
dư tối thiểu. Ở những bệnh nhân mới được chẩn 
đoán, ATRA giúp hồi phục huyết học hoàn toàn 
trong hầu hết bệnh nhân, tuy nhiên tỉ lệ thuyên 
giảm  về  mặt  sinh  học  phân  tử  thường  kém. 
Ngược  lại,  ATO  gây  ra  thuyên  giảm  phân  tử  ở 
hầu hết các bệnh nhân điều trị tại bệnh tái phát. 
Hơn nữa, một nghiên cứu của Trung Quốc cho 
thấy,  đáp  ứng  ở  mức  độ  phân  tử  của  ATO  tốt 
hơn  ATRA  ở  quần  thể  bệnh  mới  được  chẩn 
đoán. Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả hiệp 
đồng của điều trị phối hợp ATRA và ATO, với 
đáp  ứng  vượt  trội  so  với  sử  dụng  ATRA  hay 
ATO đơn độc(4,13,23,30). 

Bảng 1. Nghiên cứu sử dụng ATO đơn thuần hay phối hợp ATRA trong điều trị BCCTTB 
Phác đồ

N

CR%

Hu(13)
Ravandi(17)
Dai(4)

85
82
90


94.1
90
93.3

Ghavamzadeh(10)
Mathews(16)
George(9)

111
72
11

85.6
86
91

Post remission PCR- %
ATO + ATRA
NR
100
ATO đơn trị liệu
92
76
100

Tác dụng phụ của ATO 
ATO  đã  được  biết  đến  từ  rất  lâu  như  là 
một  loại  hóa  chất  rất  độc.  Tuy  nhiên  với  liều 
điều  trị  sử  dụng  trong  BCCTTB,  được  chứng 

minh  qua  nhiều  giai  đoạn  nghiên  cứu  và  qua 
nhiều  nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng,  các 
tác dụng phụ của ATO thường ở mức độ  nhẹ 
và  trung  bình,  tác  dụng  phụ  mức  độ  nặng  ít 
gặp.  Khi  sử  dụng  ATO  cần  theo  dõi  tác  dụng 
phụ  như  hội  chứng  giống  RAS  (retinoic  acid 
syndrome  (RAS)‐like)  như  sốt,  phát  ban  da, 
phù  nề  thường  cải  thiện  tốt  khi  dùng  steroid. 
Các  tác  dụng  phụ  khác  cần  theo  dõi  như  mệt 
mỏi,  buồn  nôn,  nôn,  chán  ăn,  tiêu  chảy,  đau 
đầu, đau bụng, mất ngủ, ho, khó thở, viêm da, 
nhịp  tim  nhanh,  đau,  hạ  kali  máu,  hạ  magne 
máu và tăng đường huyết, rối loạn chức năng 
gan,  QT  kéo  dài,  bệnh  thần  kinh  ngoại  biên 
nhưng  thường  ở  mức  độ  nhẹ  và  có  thể  kiểm 
soát  tốt(6,10,16,22,31).  Bệnh  nhân  của  chúng  tôi 

268

Phác đồ

EFS

OS

ATRA + ATO
ATRA + ATO
ATRA + ATO

89,2% tại 5 năm 91% tại 5 năm

80% tại 2 năm 85% tại 2 năm
92,2% tại 3 năm

ATO x 1
ATO x 6
ATO

63,7% tại 2 năm 87,6% tại 3 năm
74,8% tại 3 năm 86,1% tại 3 năm
81,3% tại 5 năm 91% tại 5 năm

không ghi nhận tác dụng phụ gì ngoài vấn đề 
sạm  da,  tự  dung  nạp  và  hết  trong  quá  trình 
vẫn điều trị tiếp ATO.  

KẾT LUẬN 
Trong  vài  chục  năm  qua,  bệnh  BCCTTB  đã 
chuyển  đổi  từ  một  bệnh  gây  tử  vong  cao  trở 
thành một bệnh rất có thể chữa khỏi được. Đã có 
nhiều  nghiên  cứu  cho  thấy  ngoài  chỉ  định  cho 
BCCTTB tái phát và kháng trị, ATO cho thấy có 
hiệu quả hiệp đồng với ATRA trong đáp ứng về 
mặt SHPT cũng như kéo dài thời gian sống toàn 
bộ.  Tác  dụng  phụ  của  ATO  thường  ở  mức  độ 
nhẹ và trung bình, có thể kiểm soát được. ATO 
phối  hợp  ATRA  hay  thay  thế  ATRA  (khi  có 
chống chỉ định dung ATRA) mang lại hiệu quả 
tốt về lâm sàng, huyết học và cả sinh học phân 
tử trong điều trị bệnh BCCTTB. 


Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.


12.

13.

14.

Adès L, Sanz MA, Chevret S, et al (2008), “Treatment of newly 
diagnosed  acute  promyelocytic  leukemia  (APL):  a  comparison 
of French‐Belgian‐Swiss and PETHEMA results”, Blood, 111(3): 
1078‐84. 
Burnett AK, Grimwade D, et al. (1999), “Presenting white blood 
cell count and kinetics of molecular remission predict prognosis 
in acute promyelocytic leukemia treated with all‐trans retinoic 
acid:  result  of  the  Randomized  MRC  Trial”,  Blood,  93:  4131‐
4143. 
Cheson,  B.D.  et  al.(2003),  “Revised  recommendations  of  the 
International Working Group for Diagnosis, Standardization of 
Response  Criteria,  Treatment  Outcomes,  and  Reporting 
Standards for Therapeutic Trials in Acute Myeloid Leukemia”, 
Journal of Clinical Oncology, 21: 4642–4649. 
Dai CW, Zhang GS, Shen JK, et  al  (2009),  “Use  of  all‐trans 
retinoic acid in combination with arsenic trioxide for remission 
induction  in  patients  with  newly  diagnosed  acute 
promyelocytic  leukemia  and  for  consolidation/maintenance  in 
CR patients”, Acta Haematol, 121(1): 1‐8. 
Dohner, H. et al. (2010), “Diagnosis and management of acute 
myeloid  leukemia  in  adults:  recommendations  from  an 
international  expert  panel,  on  behalf  of  the  European 
LeukemiaNet”, Blood, 115: 453–474. 
Đỗ Trung Phấn, Nguyễn Thị Loan, Trần Kiều My, Nguyễn Văn 

Trường, Bạch Quốc Khánh và cs (2008), “Lơ xê mi cấp tiền tủy 
bào: chất lượng sống sau lui bệnh hoàn toàn bởi atra và arsenic 
trioside”, Chuyên đề Hội nghị huyết học truyền máu quốc gia 
lần thứ VIII: Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên 
ngành huyết học truyền máu, 2(344): 490‐495. 
Fenaux P, Chastang C, Chevret S, et al (1999), “A randomized 
comparison  of  all  trans  retinoic  acid  (ATRA)  followed  by 
chemotherapy  and  ATRA  plus  chemotherapy  and  the  role  of 
maintenance  therapy  in  newly  diagnosed  acute  promyelocytic 
leukemia. The European APL Group”, Blood, 94(4): 1192‐200. 
Fenaux P, Chevret S, Guerci A et al. (2000), “Long term follow‐
up  confirms  the  benefit  of  all‐trans  retinoic  acid  in  acute 
promyelocytic leukemia”, Leukemia, 14: 1371‐1377. 
George B, Mathews V, Poonkuzhali B, Shaji RV, et  al.  (2004), 
“Treatment  of  children  with  newly  diagnosed  acute 
promyelocytic  leukemia  with  arsenic  trioxide:  a  single  center 
experience, Leukemia, 18(10): 1587‐1590. 
Ghavamzadeh A, Alimoghaddam K, Ghaffari SH, et 
al 
(2006), “Treatment  of  acute  promyelocytic  leukemia  with 
arsenic  trioxide  without  ATRA  and/or  chemotherapy”, Ann 
Oncol, 17(1): 131‐134. 
Hernandez JM, Martin G et al. (2001), “Additional cytogenetic 
changes  do  not  influence  the  outcome  of  patients  with  newly 
diagnosed acute promyelocytic leukemia treated with an ATRA 
plus anthracyclin based protocol. A report of the Spanish group 
PETHEMA”, Haematologica, 86: 807‐813. 
Huang ME, Ye YC et al. (1988), “Use of all‐trans retinoic acid in 
the treatment of acute promyelocytic leukemia”, Blood, 72: 567‐
572. 

Hu J, Liu YF, Wu CF, et  al.  (2009), “Long‐term  efficacy  and 
safety of all‐trans retinoic acid/arsenic trioxide‐based therapy in 
newly  diagnosed  acute  promyelocytic  leukemia”, Proc  Natl 
Acad Sci USA, 106(9): 3342‐3347. 
Kakizuka  A,  Miller  Jr  WH,  et  al  (1991),  “Chromosomal 
translocation  t(15;17)  in  human  acute  promyelocytic  leukemia 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

15.

16.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

24.

25.


26.

27.

28.

29.

fuses  RARα  with  a  novel  putative  translocation  factor,  PML”, 
Cell, 66: 663‐74. 
Larson  RA,  Kondo  K,  et  al.  (1984),  “Evidence  for  a  15;17 
translocation  in  every  patient  with  acute  promyelocytic 
leukemia”, Am J Med, 76: 827‐841. 
Mathews V, George B, Lakshmi KM, et  al.  (2006), “Single‐agent 
arsenic  trioxide  in  the  treatment  of  newly  diagnosed  acute 
promyelocytic  leukemia:  durable  remissions  with  minimal 
toxicity”, Blood, 107(7): 2627‐2632. 
Powell  BL,  Moser  B,  Stock  W,  et  al  (2010),  “Arsenic  trioxide 
improves event‐free and overall survival for adults with acute 
promyelocytic leukemia: North American Leukemia Intergroup 
Study C9710”, Blood, 116(19): 3751‐7. 
Ravandi F, Estey E, Jones D, et  al  (2009), “Effective  treatment  of 
acute  promyelocytic  leukemia  with  all‐trans‐retinoic  acid, 
arsenic  trioxide,  and  gemtuzumab  ozogamicin”, J  Clin  Oncol, 
27(4): 504‐510. 
Sanz  MA,  Grimwade  D,  Tallman  MS,  et  al  (2009), 
“Management 
of 
acute 

promyelocytic 
leukemia: 
recommendations  from  an  expert  panel  on  behalf  of  the 
European LeukemiaNet”, Blood, 113(9): 1875‐91. 
Sanz  MA,  Martín  G,  González  M,  et  al  (2004),  “Risk‐adapted 
treatment  of  acute  promyelocytic  leukemia  with  all‐trans‐
retinoic  acid  and  anthracycline  monochemotherapy:  a 
multicenter  study  by  the  PETHEMA  group”,  Blood,  103(4): 
1237‐43. 
Sanz  MA,  Lo  Coco  F,  Martin  G  et  al  (2000),  “Definition  of 
relapse risk and role of nonanthracyclin drugs for consolidation 
in patients with acute promyelocytic leukemia: a joint study of 
the PETHEMA and GIMEMA cooperation groups”, Blood, 96: 
1247‐1253. 
Shen ZX, Chen GQ, Ni JH et al. (1997), “Use of arsenic trioxide 
(As2O3)  in  the  treatment  of  acute  promyelocytic  leukemia 
(APL):  Clinical  efficacy  and  pharmacokinetics  in  relapsed 
patients”, Blood, 89: 3354‐3360. 
Shen  ZX,  Shi  ZZ,  Fang  J,  et  al  (2004),  “All‐trans  retinoic 
acid/As2O3  combination  yields  a  high  quality  remission  and 
survival  in  newly  diagnosed  acute  promyelocytic 
leukemia”, Proc Natl Acad Sci USA, 101: 5328‐5335. 
Soignet  S,  Frankel  S,  Tallman  M  et  al  (1999),  “US  multicenter 
trial  of  arsenic  trioxide  (AT)  in  acute  promyelocytic  leukemia 
(APL)”, Blood, 94(10): 698a. 
Soignet SL, Maslak P, Wang Z‐G et al (1992), “Complete remission 
after  treatment  of  acute  promyelocytic  leukemia  with  arsenic 
trioxide”, N Engl J Med 1998, 339: 1341‐1348. 
Sun HD, Ma L, Hu X‐C et al (1992), “Ai‐Lin 1 treated 32 cases of 
acute  promyelocytic  leukemia”, Chin  J  Integrat  Chin  Western 

Med, 12: 170‐172. 
Tallman MS, Andersen JW, Schiffer CA, et al (2002), “All‐trans 
retinoic  acid  in  acute  promyelocytic  leukemia:  long‐term 
outcome  and  prognostic  factor  analysis  from  the  North 
American Intergroup protocol”, Blood, 100(13): 4298‐302. 
Trần  Thị  Kiều  My,  Đỗ  Trung  Phấn,  Nguyễn  Anh  Trí,  Bạch 
Quốc  Khánh  (2010),  “Nghiên  cứu  rối  loạn  đông  máu  trong 
lơxêmi cấp tiền tủy bào giai đoạn hóa trị liệu tấn công + ATRA”, 
Nghiên cứu y học ‐ Năm 2010, 3(68): 25‐30. 
Vũ Minh Phương, Phạm Quang Vinh, Bạch Quốc Khánh (2009), 
“Nghiên cứu điều trị lơ xê mi cấp dòng tủy thể M3 có biến đổi 
gen PML/RAR alpha”, Nghiên cứu y học ‐ Năm 2009, 5(64): 16‐
20. 

269


Nghiên cứu Y học 
30. Wilson  H.  Miller  Jr, Hyman  M.  Schipper, Janet  S.  Lee, Jack 
Singer et al (2013), “Mechanisms of Action of Arsenic Trioxide”, 
Cancer Res 2002, 62: 3893‐3903. 
31. Zhang P, Wang SY, Hu XH (1996), “Arsenic trioxide treated 72 
cases of acute promyelocytic leukemia”, Chin J Hematol, 17: 58‐
62. 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
32. Zhen  YW,  Zhu  Chen  (2008),  “Acute  promyelocytic  leukemia: 
from highly fatal to highly curable”, Blood, 111: 2505‐2515. 

 

Ngày nhận bài báo:  
Ngày phản biện:  

 
 

Ngày bài báo được đăng:  

23 tháng 9 năm 2013 
24 tháng 9 năm 2013 
22 tháng 10 năm 2013 

 

270

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  



×