Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Khảo sát tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong 3 tháng giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.64 KB, 11 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU MÁU THIẾU SẮT TRONG 3 THÁNG
GIỮA THAI KỲ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Thu Nguyệt*, Bành Thanh Lan*, Trần Thị Lợi*, Phạm Quí Trọng**

TÓM TẮT
Thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt (TMTS) là vấn đề sức khỏe quan trọng ở những nước đang phát triển
cũng như những nước công nghiệp phát triển. Phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi là đối tượng nguy
cơ cao trong dân số. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt bằng
những xét nghiệm thường qui và định lượng ferritin huyết thanh; và tìm các yếu tố liên quan với thiếu máu
thiếu sắt trong thai kỳ
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 302 thai phụ ở
tam cá nguyệt thứ II đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược. Những thai phụ này sẽ được xét nghiệm
định lượng nồng độ hemoglobin (Hb), ferritin huyết thanh và các gía trị huyết học khác. Những thông tin về
dịch tễ học, trình độ học vấn, mức độ ăn uống trong thai kỳ…sẽ được thực hiện qua bảng câu hỏi mẫu.
Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ (Hb < 11 g/dl) là 20,19%, nhưng không có trường hợp nào thiếu
máu nặng (Hb < 7 g/dl), tỷ lệ TMTS (Hb < 11 g/dl và ferritin < 12 ng/ml) là 17,21%. Những yếu tố liên
quan với tình trạng TMTS là: việc sử dụng sắt dự phòng trong thai kỳ, việc uống sữa có bổ sung sắt trong
thai kỳ, số con hiện có và số lần bỏ thai
Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong thai kỳ lần lượt là 20,19% và 17,21%. Tỷ lệ này tương ứng
với các nước đang phát triển khác (25-35%) và còn cách xa với các nước công nghiệp phát triển (5-8%)

ABSTRACT
PREVALENCE OF IRON – DEFICIENCY ANEMIA IN SECOND TRIMESTER PREGNANCY
IN MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL OF HO CHI MINH CITY
Vo Thi Thu Nguyet, Banh Thanh Lan, Tran Thi Loi, Pham Qui Trong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 162 - 170


Background: Anemia, Iron – deficiency anemia (IDA) is a public health problem in the developing and
even industrialized countries. Pregnant women and the children under 5 years of age are among the high –
risk population. Our main in this study were to obtain the prevalence of anemia, IDA and its association
with mesures of IDA among a group of pregnant women by routine methods and by serum ferritin and rick
factors associated
Subjects: A cross – sectional survey the estimates are based on 302 reportedly healthy pregnant women
in their second trimester, at hospital of University of Science Medical and Pharmaceutical. A series of
determinations were conducted to determine heamoglobin concentration (Hb); serum ferritin and other
indexes. Then a questionaire for epidemiological data, type of diet, level of education, laboratory data, ect.
was filled.
Result: The prevalence of anemia (Hb < 110g/dl) was 20.19%, but severe anemia (Hb < 70g/dl) was
absent; the prevalence of IDA (Hb < 110 g/dl and serum ferritin < 12 ng/ml) was 17.21%. Iron prophy laxis
* Bộ môn Phụ Sản - Đại học Y Dược TP.HCM
** Bộ môn Huyết Học - Đại học Y Dược TP.HCM

Sản Phụ Khoa

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

in pregnancy – general, milk fortified with iron, number of children, number of abortion were associated with
IDA during pregnancy.
Conclusion: The prevalence of anemia in pregnant women was 20.19%, of IDA was 17.21%, which is
the same as the prevalence found in other developing countries (25-35%). This show that we are still far
behind the health status in the industrialized countries (5-8%)
huyết thanh là chỉ số đặc trưng sử dụng để đánh

Thiếu máu trong thai kỳ là một vấn đề sức
giá tình trạng dự trữ sắt của cơ thể(13,14). Nồng độ
khỏe cộng đồng chiếm mối quan tâm hàng đầu
hemoglobin (hay nồng độ hematocrit) không đủ
trên toàn thế giới. Theo báo cáo khoảng 56% phụ
để đánh giá tình trạng thiếu sắt ở thai phụ bởi vì
nữ mang thai ở các nước đang phát triển bị thiếu
có rất nhiều trường hợp thai phụ chỉ mới thiếu
máu, trong khi chỉ có 18% ở những nước phát
sắt chưa biểu hiện thiếu máu.
triển(6). Thiếu máu gây ra những hậu quả
nghiêm trọng như: sanh non, sanh con nhẹ cân,
gây tử vong mẹ và con ở những trường hợp
thiếu máu nặng(7,8). Thiếu sắt là nguyên nhân
chiếm hàng đầu trong các nguyên nhân gây
thiếu máu. Ở những nước đang phát triển ngoài
nguyên nhân thiếu sắt trong khẩu phần ăn
TMTS còn do các bệnh ký sinh trùng đường ruột
và sốt rét. Tỷ lệ TMTS ở những nước công
nghiệp phát triển đã giảm trong vài thập kỉ gần
đây nhưng tỷ lệ TMTS chung trên toàn thế giới
thay đổi rất ít. Khoảng 500 triệu người trên thế
giới bị TMTS, và tỷ lệ TMTS chiếm 25-35% ở
những nước đang phát triển, trong khi chỉ chiếm
khoảng 5-8% ở những nước công nghiệp phát
triển(4).
Những thai phụ có dự trữ sắt tốt, được bổ
sung viên sắt đầy đủ trong thai kỳ này vẫn có
khả năng bị TMTS trong thai kỳ sau(9,10). Khi dự
trữ sắt trong cơ thể người mẹ giảm sẽ đưa đến

tình trạng giảm sắt trong thai nhi, thậm chí tình
trạng thiếu sắt này kéo dài trong năm đầu tiên
của trẻ(11).
Trong những thập kỉ gần đây, việc cải thiện
chế độ dinh dưỡng, sử dụng sữa có bổ sung sắt,
sử dụng viên sắt dự phòng đã phần nào giảm
tần suất thiếu máu thiếu sắt(10,11).
Một trong những vấn đề quan trọng là phân
biệt TMTS và tình trạng thiếu máu do những
nguyên nhân khác như: sốt rét, nhiễm HIV, tình
trạng viêm mãn tính, bệnh lí hemoglobin(12). Xét
nghiệm máu nếu có nồng độ hemoglobin thấp
nhưng nồng độ ferritin bình thường sẽ loại trừ
được những trường hợp này. Nồng độ ferritin

Sản
2 Phụ Khoa

Nghiên cứu này thực hiện nhằm mục tiêu
đánh giá tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong thai kỳ
dựa vào nồng độ hemoglobin và ferritin huyết
thanh. Và tìm những yếu tố liên quan đến tình
trạng TMTS ở những thai phụ đến khám thai tại
bệnh viện Đại học Y Dược

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại
học Y Dược từ tháng 10/2006 đến tháng 3/2007
Trong nghiên cứu này, 302 thai phụ có tuổi
thai từ 12-24 tuần (tính theo siêu âm hoặc kinh

chót) sẽ được phỏng vấn và nhận vào nghiên
cứu nếu không có những yếu tố loại trừ. Những
thai phụ có bệnh gan, tim mạch, ung thư hoặc
đang trong tình trạng nhiễm trùng sẽ không
được nhận vào nghiên cứu.
Tất cả thai phụ sẽ được rút 2ml máu để xét
nghiệm nồng độ hemoglobin và định lượng
nồng độ ferritin huyết thanh tại phòng xét
nghiệm bệnh viện Đại học Y Dược.
Chúng tôi sẽ thu thập những thông tin về
tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, chế độ ăn
khi mang thai (ăn nhiều hơn, ít hơn hay bình
thường), thói quen ăn uống (thói quen sử dụng
trà, cà phê, thuốc lá, rượu-bia, thuốc lá), việc sử
dụng sữa có bổ sung sắt, việc được bổ sung viên
sắt dự phòng khi khám thai, số con hiện có, số
lần bỏ thai và biện pháp kế hoạch hóa gia đình.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Phân tích số liệu
Số liệu được quản lí và phân tích trên phần
mềm SPSS 15. Sử dụng phép kiểm χ2 để kiểm
định yếu tố liên quan.

KẾT QUẢ
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi:
Tuổi mang thai trung bình của thai phụ là
27,91 ± 5,13 tuổi (18 tuổi – 40 tuổi).
Đa số thai phụ có trình độ học vấn cấp 2 – 3,

chiếm 92,4%; tốt nghiệp đại học và sau đại học
(ĐH – SĐH) chiếm 7,6% và không có thai phụ
nào có trình độ cấp 1 hoặc mù chữ.
Tương ứng với trình độ học vấn, số thai phụ
làm nhân viên văn phòng (NVVP) chiếm tỷ lệ
cao nhất trong mẫu nghiên cứu 47,3%, tiếp theo
là nội trợ (37,5%) và những nghành nghề khác
(buôn bán, công nhân) chiếm 15,2%.
Vì đặc thù của bệnh viện Đại học Y Dược là
bệnh viện bán công nên không có thai phụ nào
đến khám thai có kinh tế nghèo, đa số có tình
trạng kinh tế đủ ăn và khá, chiếm tỷ lệ lần lượt là
57,6% và 42,4%.
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
Số thai phụ
0 lần
136
1 lần
105
Số lần bỏ
thai
2 -3 lần
61
> 3 lần
0
Chưa có con
166
Có 1 con
75

Số con hiện

Có 2 con
30
31
Có /3 con
Đặt vòng
23
Thuốc
15
Biện pháp
Bao cao su
68
KHHGĐ
Khác
128
Không ngừa
68
Nhiều hơn
53
Tình trạng
Bình thường
123
ăn uống
Ít hơn
121
Trà
61
Cà phê
52

Thói quen ăn
Thuốc lá
0
uống
Rượu, bia
22
Không
167

Tỷ lệ (%)
45,1
34,9
20
0
54,9
25
9,9
10,2
7,6
4,9
22,9
42,7
22,4
17,4
42,4
40,2
20,1
17,4
0
7,6

54,9

Đặc điểm

Sử dụng
viên sắt
Không

Sử dụng sữa
bổ sung sắt
không

Nghiên cứu Y học
Số thai phụ
219
83
257
45

Tỷ lệ (%)
72,4
27,6
84,9
15,1

Dựa trên bảng 1, chúng tôi nhận thấy:
Chỉ có 4,9% thai phụ nghén nhiều trong thai
kỳ, đa số thai phụ nghén ít, chiếm 59,9% và
35,2% cảm thấy bình thường như lúc không
mang thai.

Số liệu thống kê trong mẫu 302 thai phụ, tỷ
lệ thai phụ ăn bình thường và ăn ít hơn khi
mang thai tương đương nhau, chiếm 42,4% và
40,2% và chỉ có 17,4% thai phụ ăn nhiều hơn so
với lúc không mang thai.
Có 257 thai phụ sử dụng sữa bổ sung sắt
trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 84,9% và chỉ có 45 thai
phụ không sử dụng sữa, chiếm tỷ lệ 15,1%.
Hầu hết thai phụ đều có bổ sung viên sắt khi
mang thai, chiếm tỷ lệ 72,4%.
Nhóm nghiên cứu ghi nhận đa số thai phụ
không có thói quen sử dụng trà, cà phê, thuốc lá
và rượu bia, chiếm tỷ lệ 54,9%.
Đa số thai phụ trong nghiên cứu sanh lần
đầu chiếm 54,9%; sanh lần 2, lần 3 và lần 4 lần
lượt chiếm tỷ lệ 25%, 9,9% và 10,2%
Chúng tôi ghi nhận trên 302 thai phụ tham
gia nghiên cứu: có 45,1% thai phụ chưa bỏ thai
lần nào; 34,9% bỏ thai 1 lần, 20% bỏ thai 2-3 lần
và không có thai phụ nào bỏ thai trên 3 lần

Tỷ lệ thai phụ thiếu máu và TMTS trong
thai kỳ
Trong tổng số 302 thai phụ, có 61 thai phụ bị
thiếu máu (Hb < 11 g/dl) chiếm tỷ lệ 20,19% và
241 thai phụ có mức hemoglobin bình thường,
chiếm tỷ lệ 79,81% trên tổng số mẫu nghiên cứu.
Bảng 2: Phân bố mức độ thiếu máu của thai phụ
(theo tiêu chuẩn của WHO)
Mức độ thiếu máu

Số thai phụ
Nhẹ (Hb từ 10 – 10,9 g/dl)
38
Trung bình (Hb từ 7- 9,9 g/dl)
23
Nặng (Hb từ 4 – 6,9 g/dl)
0
Rất nặng (Hb < 4 g/dl)
0
Tổng
61

Tỷ lệ (%)
62,3
37,7
0
0
100

Trong tổng số 61 thai phụ bị thiếu máu có 38
thai phụ thiếu máu nhẹ (chiếm 62,3%) và 23 thai

Sản Phụ Khoa

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
phụ thiếu máu trung bình (chiếm 37,7%); không
có thai phụ nào thiếu máu nặng hoặc rất nặng

Căn cứ xét nghiệm nồng độ hemoglobin và
ferritin huyết thanh, tỷ lệ thai phụ bị thiếu máu
thiếu sắt (khi nồng độ hemoglobin < 11 g/dl và
nồng độ ferritin huyết thanh < 12 ng/ml) là
17,21%, chiếm 85,25% trong tổng số thai phụ bị
thiếu máu.

Mối liên quan giữa TMTS trong thai kỳ
và một số yếu tố nguy cơ
Về trình độ học vấn
Không có thai phụ học vấn dưới cấp 1.
Trong nhóm thai phụ trình độ học vấn đại học –
sau đại học chỉ có 1 thai phụ bị TMTS (chiếm
4,3%), nhóm thai phụ còn lại có 52 người bị
TMTS (chiếm 18,5%). Mối liên quan này không
có ý nghĩa thống kê với p = 0,889.
Về nghề nghiệp
Nhóm nghề nội trợ chiếm tỷ lệ cao nhất và
có 20,8% thai phụ bị TMTS, trong những người
làm việc văn phòng có 19,3% bị TMTS và ở
những thai phụ làm nghề khác (công nhân, buôn
bán…) tỷ lệ TMTS là 2,2%. Mối quan hệ này
không có ý nghĩa thống kê với p =0,211
Về kinh tế
Trong 302 mẫu nghiên cứu của chúng tôi
không có thai phụ có kinh tế nghèo, trong nhóm
thai phụ có kinh tế đủ ăn tỷ lệ TMTS chiếm
21,7% và trong nhóm thai phụ kinh tế khá tỷ lệ
TMTS chỉ chiếm 10,9%. Với phép kiểm χ2 chúng
tôi nhận thấy giữa TMTS thai kỳ và tình trạng

kinh tế không có mối liên quan có ý nghĩa thống
kê p=0,763
Về chế độ ăn
Những thai phụ có chế độ ăn nhiều hơn khi
mang thai có tỷ lệ TMTS là 1,9%, nhóm thai phụ
ăn bình thường so với lúc không mang thai có
TMTS là 12,9% và nhóm thai phụ ăn ít hơn khi
có thai tỷ lệ TMTS là 31,1%. Với phép kiểm χ2
chúng tôi nhận thấy chế độ ăn lúc mang thai và
TMTS không có mối liên quan có ý nghĩa thống
kê, p = 0,667.

Sản
4 Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

Về thói quen ăn uống
Chúng tôi nhận thấy không có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê với tình trạng TMTS trong
thai kỳ, p = 0,231.
Biện pháp ngừa thai và TMTS trong thai kỳ
Cũng không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê, p = 0,118.
Bảng 3. Liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và một
số yếu tố nguy cơ
Yếu tố nguy cơ
Sử dụng
viên sắt
Sử dụng

sữa bổ
sung sắt


Không


15 (6,8%) 204 (93,2%)
36 (44%)
47 (56%)
30 (11,6%) 227 (88,4%)

Không

21 (47,8%) 24 (52,2%)

Không
Số lần bỏ
thai

Số con
hiện có

Thiếu máu thiếu sắt

Không

1 (0,7%)

Giá trị P

0,041
0,023

135 (99,3%)

1 lần

22 (22,8%) 83 (77,2%)

2-3 lần

30 (49,2%) 31 (51,8%)

0 con
1 con
2 con
3 con

15 (9%)
151(91%)
14 (18,7%) 61 (81,3%)
1 (3,3%) 30 (96,7%)
22 (74,2%) 8 (25,8%)

0,007
0,011

Nghiên cứu trên 302 thai phụ chúng tôi nhận
thấy đa số phụ nữ mang thai được bổ sung viên
sắt trong thai kỳ. Trong nhóm có sử dụng viên

sắt số thai phụ TMTS chiếm tỷ lệ 6,8%, trong khi
ở nhóm không được bổ sung viên sắt tỷ lệ TMTS
là 44%. Qua phép kiểm χ2, nhóm nghiên ghi
nhận mối liên quan giữa TMTS và vấn đề bổ
sung sắt trong thai kỳ có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê, với p = 0,04
Về vấn đề sử dụng sữa có bổ sung sắt trong
thai kỳ, chúng tôi nhận thấy trong nhóm thai
phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt có tỷ lệ TMTS
là 11,6% và nhóm không sử dụng sữa bổ sung
sắt có tỷ lệ TMTS là 47,8%. Mối liên quan này có
ý nghĩa thống kê, p = 0,023
Qua khai thác tiền căn sản khoa chúng tôi
nhận thấy những thai phụ chưa bỏ thai lần nào
chỉ có 0,7% bị TMTS thai kỳ, và những thai phụ
bỏ thai 1 lần, 2-3 lần bị TMTS thai kỳ chiếm tỷ lệ
lần lượt là 20,8% và 49,2%. Mối liên quan này có
ý nghĩa thống kê (p=0,007).


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Ở những thai phụ chưa có con, tỷ lệ TMTS
chiếm khoảng 9% và tỷ lệ này tăng lên cùng với
số con hiện có (thai phụ có 3 con, tỷ lệ TMTS
chiếm 74,2%). Qua phép kiểm χ2 chúng tôi nhận
thấy mối liên quan giữa TMTS và số con hiện có
của thai phụ có ý nghĩa thống kê, với p = 0,011.

BÀN LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu và TMTS ở phụ nữ mang thai

Từ 302 thai phụ tham gia nghiên cứu được
phân tích, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ thiếu máu
trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh là 20,19%, tỷ lệ TMTS
là 17,21%.

Nghiên cứu Y học

nhiều hạn chế, vì vậy tỷ lệ thiếu máu, TMTS
trong các nghiên cứu rất cao.
So sánh với nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài thì tỷ lệ thiếu máu thai kỳ của chúng tôi
nằm trong giới hạn thay đổi chung của các nước
đang phát triển, từ 25-35%(18). Nhưng tỷ lệ này
cao rất nhiều so với những nước công nghiệp
phát triển, tỷ lệ thiếu máu thai kỳ ở các nứơc này
chỉ từ 5-8%. Và thấp hơn tỷ lệ thiếu máu trong
thai kỳ các nước thuộc thế giới thứ 3(18).
Nghiên cứu tại Mexico năm 1995 cho thấy
thiếu máu gặp nhiều ở thai phụ với tỷ lệ là
18,17%(12).

Những kết quả nghiên cứu trong trước đây
cho thấy:

Quan sát trên 3.591 phụ nữ mang thai của 15
tỉnh, Lao QK ghi nhận tỷ lệ thiếu máu vào năm
2004 của thai phụ Trung Quốc là 19,1%(15).

- Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai theo

công bố của Viện bảo vệ sức khoẻ Bà mẹ – Trẻ
em và trường Đại học Y Khoa Hà Nội vào năm
1994 là 40,4% trên toàn mẫu nghiên cứu(1).

Tại Ấn Độ, nghiên cứu trên 15 quận cho thấy
tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai là 84,9%,
trong đó tỷ lệ thiếu máu nặng (hemoglobin < 70
g/dl) chiếm đến 13,1%(17).

Năm 1996, Viện Dinh Dưỡng quốc gia thống
kê trên 53 tỉnh thành trong cả nước ghi nhận tỷ
lệ thiếu máu trong thai kỳ tại Việt Nam là
52,3%(3).

Nghiên cứu tại Malaysia năm 2005 ghi nhận
tỷ lệ thiếu máu trên 52 thai phụ tham gia nghiên
cứu là 34,6%(5).

Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, nghiên
cứu của Đặng Thị Hà thực hiện trên 2.084 phụ
nữ mang thai trên 22 quận nội, ngoại thành ghi
nhận tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai là
38,1% và tỷ lệ TMTS là 31,53%(2).
So sánh với các tác giả trong nước, tỷ lệ thiếu
máu, TMTS ở phụ nữ mang thai theo kết quả
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều(1-3).
Điều này là do nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện tại một bệnh viện, mà đặc thù của dân số
nghiên cứu ở đây đa số là có kinh tế đủ ăn và
khá giả. Thai phụ đến khám thai hầu hết đều ý

thức được vấn đề quan trọng của việc khám và
theo dõi sức khỏe bà mẹ và bé. Trong khi đó,
những nghiên cứu của các tác giả khác được
thực hiện tại cộng đồng, đặc biệt là nghiên cứu
của Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, khảo sát đến
tận các vùng nông thôn sâu, nơi điều kiện kinh
tế còn nhiều khó khăn, ý thức về chăm sóc sức
khỏe y tế và chăm sóc thai kỳ của người dân còn

Sản Phụ Khoa

Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ trong nghiên cứu của
chúng tôi là 20,19%, có nhiều khác biệt so với
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Sự khác
biệt này là do cách chọn mẫu khác nhau, điều
kiện chăm sóc y tế và chăm sóc tiền thai ở mỗi
quốc gia có sự khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung
tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ của các nghiên cứu
trên (cả Việt nam và nước ngoài) đều nằm trong tỷ
lệ thiếu máu chung ở những nước đang phát triển
theo thống kê trên toàn thế giới(5-12),(15-17).
Riêng tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại
Ấn Độ cao gấp nhiều lần so với kết quả nghiên
cứu của chúng tôi; điều này có thể do tác giả lựa
chọn đối tượng nghiên cứu và chọn mẫu nghiên
cứu có sự khác biệt.
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi không
có trường hợp nào thai phụ đến khám thai trong
tình trạng thiếu máu nặng, chủ yếu là thiếu máu
nhẹ và trung bình, trong khi đó nghiên cứu ở Ấn


5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Độ vẫn có tỷ lệ thai phụ bị thiếu máu nặng trong
thai kỳ(17).
Trong số những thai phụ thiếu máu trong
nghiên cứu của chúng tôi, chiếm đa số là
thiếu máu ở mức độ nhẹ (Hb từ 10-10,9 g/dl),
một số nhỏ thiếu máu ở mức độ trung bình
(Hb từ 7-9,9 g/d) và không có thai phụ nào
thiếu máu ở mức độ nặng (Hb từ 4-6,9 g/dl)
và rất nặng (Hb < 4 g/dl).
Nghiên cứu của Đặng Thị Hà trên 22 quận
nội, ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh ăm
2000 cho thấy tỷ lệ TMTS chiếm 82,64% tổng số
thai phụ thiếu máu và chiếm 31,53% trên toàn
mẫu nghiên cứu(2).
So với tổng số thai phụ bị thiếu máu, tỷ lệ
thai phụ bị TMTS trong nghiên cứu của chúng
tôi chiếm 85,25%, kết quả này tương đương với
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trong cả
nước. Điều này cho thấy thiếu máu trong thai kỳ
ở Việt Nam chủ yếu là do thiếu dinh dưỡng và
trong đó do thiếu sắt chiếm đa số.
Những kết quả nghiên cứu ở các nước khác
trên thế giới cũng cho chúng tôi thấy nguyên
nhân gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai chủ
yếu là TMTS.

Tại Malaysia, Hassan và cộng sự tìm thấy tỷ
lệ TMTS trên tòan bộ mẫu nghiên cứu là 21,2%,
và riêng trên những thai phụ có thiếu máu thì
nguyên nhân gây thiếu máu trong thai kỳ chủ
yếu là TMTS, chiếm tỷ lệ 61,1%(5).
Thống kê từ nghiên cứu của Liao QK trên
3.591 thai phụ Trung Quốc cho thấy tỷ lệ TMTS
ở phụ nữ mang thai là 19,1%(17).
Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ trên nghiên cứu
của chúng tôi chiếm tỷ lệ 17,21%, tỷ lệ này tương
đương với tỷ lệ TMTS thai kỳ ở những nước
đang phát triển khác trên thế giới. Tuy nhiên vẫn
có một số khác biệt so với nghiên cứu của các tác
giả trong cùng khu vực, điều này có thể giải
thích do có sự khác nhau về cách chọn đối tượng
nghiên cứu, cỡ mẫu và do có sự khác nhau về
tập quán sinh hoạt, chế độ ăn uống, các dịch vụ
chăm sóc y tế.

Sản
6 Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

Nguyên nhân thiếu máu thai kỳ trong
nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu của các
tác giả trên thế giới chủ yếu là do TMTS (chiếm
tỷ lệ từ 50,72 đến 85,25%).

Các yếu tố liên quan đến TMTS trong

thai kỳ
Trong 302 mẫu nghiên cứu, với phép kiểm ξ2
chúng tôi nhận thấy trình độ học vấn và TMTS
trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê (p=0,889); kết quả này giống với kết
quả của Đặng Thị Hà(2).
Đặc thù nghề nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng của
tình trạng học vấn. Trong mẫu nghiên cứu 302
thai phụ của chúng tôi, đa số thai phụ là nhân
viên văn phòng (chiếm 47,3%), tiếp theo là nội
trợ (chiếm 37,5%) và những nghề khác (buôn
bán, công nhân…) chiếm tỷ lệ thấp nhất 15,2%.
Kiểm định χ2 cho chúng tôi kết quả không
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình
trạng TMTS và nghề nghiệp, p = 0,211.
Theo y văn, tình trạng kinh tế thấp sẽ dẫn
đến việc bổ sung chất đạm cho bữa ăn không
đảm bảo đủ nhu cầu của cơ thể, từ đó nguy cơ
TMTS sẽ tăng lên. Qua phép kiểm χ2, với p =
0,763 chứng tỏ mối liên quan giữa TMTS trong
thai kỳ và tình trạng kinh tế trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả này khác biệt với kết quả nghiên cứu
của Đặng Thị Hà thực hiện tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 2000. Sự khác biệt này là do trong
mẫu nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao gồm
những thai phụ có tình trạng kinh tế trung bình
và khá, không có thai phụ nào có tình trạng kinh
tế nghèo(2).
Khi mang thai, do sự biến đổi sinh lí của cơ

thể, thai phụ sẽ thay đổi khẩu vị dẫn đến có sự
thay đổi trong chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên,
chế độ dinh dưỡng không có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê với tình trạng TMTS thai kỳ.
Phép kiểm χ2 cho p = 0,667.
Kết quả này có sự khác biệt với nghiên cứu
của Đặng Thị Hà trên 2.084 thai phụ tại thành
phố Hồ Chí Minh. Theo Đặng Thị Hà trường


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
hợp ăn ít hơn bình thường khi có thai sẽ tăng
nguy cơ TMTS trong thai kỳ(2).
Sự khác nhau này có thể do mẫu nghiên cứu
của chúng tôi thực hiện ở bệnh viện và nghiên
cứu của Đặng Thị Hà thực hiện trong cộng đồng
và cỡ mẫu của tác giả lớn hơn của chúng tôi.
Ngoài những chất tăng khả năng hấp thu, sắt
cũng bị ức chế hấp thu khi được sử dụng chung
với những chất như: trà, cà phê, rượu bia và
thuốc Canxi; cơ thể cũng khó hấp thu sắt nếu chế
độ ăn quá nhiều chất xơ. Thói quen chung của
người Việt Nam là sử dụng nhiều ngũ cốc trong
chế độ ăn, lượng phytate trong ngũ cốc cũng làm
khả năng hấp thu sắt giảm.
Phép kiểm χ2 cho thấy giữa thói quen sử
dụng trà, cà phê, rượu – bia và TMTS trong thai
kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê,
p = 0,231.
Qua phép kiểm χ2 chúng tôi nhận thấy rằng

trong khi chế độ ăn nhiều hay ít trong thai kỳ
không liên quan đến TMTS thì việc sử dụng sữa
bổ sung sắt lại liên quan có ý nghĩa thống kê với
TMTS (p = 0,023). Những thai phụ không sử
dụng hoặc sử dụng sữa không bổ sung sắt khi
mang thai có nguy cơ TMTS trong thai kỳ nhiều
hơn so với những thai phụ sử dụng sữa bổ sung
sắt thường xuyên trong thai kỳ.
Một nghiên cứu thử nghiệm tại vùng nông
thôn Việt Nam của P T H(16) cho thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm sử
dụng sữa bổ sung sắt và nhóm sử dụng viên sắt
trong việc cải thiện tình trạng thiếu sắt; tuy
nhiên, có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa
nồng độ hemoglobin của nhóm sử dụng sữa bổ
sung sắt và nhóm chỉ sử dụng sữa không bổ
sung sắt (nồng độ hemoglobin lần lượt ở 2 nhóm
là 1,2 ± 0,9 g/dl và 1,1 ± 0,8 g/dl, p < 0,01)(16).
Phép kiểm χ2 cho thấy giữa việc bổ sung
viên sắt và tình trạng TMTS có mối liên quan có
ý nghĩa thống kê (p = 0,04). Những thai phụ sử
dụng viên sắt ít có nguy cơ bị TMTS hơn những
thai phụ không sử dụng viên sắt trong thai kỳ.

Nghiên cứu Y học

Nghiên cứu trên 2.084 thai phụ của Đặng Thị
Hà tại thành phố Hồ Chí Minh cũng ghi nhận
hiệu quả ngừa TMTS thai kỳ của việc bổ sung
viên sắt. Những thai phụ không được bổ sung

viên sắt có nguy cơ bị TMTS cao hơn những thai
phụ có bổ sung viên sắt là 37,86%(2).
Qua phép kiểm χ2, chúng tôi nhận thấy rằng
giữa biện pháp ngừa thai và tình trạng TMTS
trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê (p = 0,118).
Phép kiểm χ2 cho thấy tình trạng TMTS và
số lần bỏ thai liên quan có ý nghĩa thống kê với
nhau (p = 0,007). Bỏ thai càng nhiều lần thì nguy
cơ TMTS càng cao. Nếu so sánh với những thai
phụ chưa bỏ thai lần nào, những thai phụ có tiền
căn bỏ thai 2 – 3 lần có nguy cơ TMTS là 49,2%.
Nghiên cứu của Đặng Thị Hà cũng cho kết
quả tương tự: thai phụ đã hút nạo thai 2 lần sẽ có
nguy cơ TMTS so với thai phụ không hút nạo
thai là 56.25%; số lần nạo hút thai từ 3-6 lần thì
nguy cơ TMTS tăng lên rõ rệt so với người
không hút nạo thai(2).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phép kiểm
χ2 cho thấy mối liên quan giữa số lần sanh và
TMTS có ý nghĩa thống kê, p=0,011. Khi sanh
con lần thứ 3 trở lên thai phụ sẽ tăng nguy cơ
TMTS thai kỳ và tỷ lệ này là 74,2%.
Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 2000 của Đặng Thị Hà cho thấy phụ nữ có
con lần thứ 3 sẽ tăng nguy cơ TMTS 54,17% so
với phụ nữ sanh con lần 1; sanh lần 4-7 thì nguy
cơ TMTS tăng đến 75,40%(2).

KẾT LUẬN

Qua khảo sát trên 302 thai phụ tại bệnh viện
Đại học Y Dược chúng tôi ghi nhận kết quả:
- Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện
Đại học Y Dược là 20,19%. Trong đó:
+Tỷ lệ thiếu máu nhẹ (nồng độ hemoglobin
từ 10 – 10,9 g/d) chiếm 62,3%.
+Tỷ lệ thiếu máu trung bình (nồng độ
hemoglobin từ 7 – 9,9 g/dl) chiếm 37,7%.
+ Không có thai phụ nào đến khám thai
trong tình trạng thiếu máu nặng hoặc rất nặng.

Sản Phụ Khoa

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
- Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ tại bệnh viện Đại
học Y Dược là 17,21%. TMTS chiếm 85,25% trong
tổng số thai phụ bị thiếu máu.
- Tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ
liên quan đến các yếu tố như:
+ Số con hiện có: những thai phụ sanh nhiều
lần sẽ tăng nguy cơ TMTS. Trong nghiên cứu
của chúng tôi những thai phụ có con lần thứ 3 tỷ
lệ TMTS thai kỳ là 74,2% so với những thai phụ
mới có con lần đầu tỷ lệ TMTS là 9%.
+Số lần bỏ thai: bỏ thai nhiều lần sẽ làm
tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Tỷ lệ TMTS
tăng dần theo số lần bỏ thai: bỏ thai 1 lần tỷ lệ

TMTS là 0,7%, bỏ thai 2 – 3 lần là 20,8%, bỏ
thai 3 lần là 49,2 %.
+ Việc sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai
kỳ với liều lượng khoảng 200 ml/ngày góp phần
làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Những
thai phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt tỷ lệ
TMTS là 11,6%, và những thai phụ không sử
dụng hoặc sử dụng sữa không có bổ sung sắt tỷ
lệ TMTS là 47,8%.
+ Việc bổ sung viên sắt trong thai kỳ làm
giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ ở phụ nữ
mang thai đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y
Dược. Trên nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận
thấy: những thai phụ có sử dụng viên sắt trong
thai kỳ tỷ lệ TMTS là: 6,8% và những thai phụ
không uống viên sắt có tỷ lệ TMTS là 44%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Alper BS, Kimber R, Reddy AK (2000). Using ferritin level to
determine iron deficiency anemia in pregnancy. J Fam Pract;
49(9): 829-32

2

Bộ Y tế, Viện BVSKBMTE/KHHGĐ (1994), Báo cáo về tần suất
thiếu máu ở Việt Nam, Hà Nội

3


Byg KE, Milman N, Hansen S, Agger AO (2000). Serum ferritin
is a Reliable. Non-invasive test for iron status in Pregnancy:
Comparison of ferritin with other iron status markers in a
longitudinal study on healthy pregnant women. Hemotol; 5(4):
319-325

4

Đặng Thị Hà (2000), Tầm soát thiếu máu thiếu sắt trong thai kì tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Y học.

5

Doyle W, Srivastava A, Crawford MA et aj (2001). Interpregnancy folate and iron status of women in an inner-city
population. Br J nutr; 86(1): 81-7

6

Godfrey KM, Redman CWG, Barker DJP, Osmond C. (1991).
The effect of maternal anemia and iron deficiency on the ratio of
fetal weight to placenta weigh. British Journal of Obstetrics and
Gynecology; 98:886-91

7

Haram k, Nilsen ST, Ulvik RJ (2001). Iron supplementation in
pregnancy-evidence and controversies. Acta Obstet Gynecol
Scand; 80(8): 683-8


8

Hassan R, Ab dullah WZ (2005), “Anemia and iron status of
Malay women attending an antenatal clinic in Kubang kerian,

ĐỀ XUẤT
Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi
đã đưa ra một số đề xuất như sau.
-Nên xét nghiệm định lượng hemoglobin
thường qui khi thai phụ đến khám thai lần đầu
để đánh giá tình trạng thiếu máu trong thai kỳ.
-Nên định lượng ferritin huyết thanh thường
qui trong thai kỳ để đánh giá đầy đủ tình trạng
thiếu sắt, TMTS của thai phụ.
-Tăng cường hướng dẫn biện pháp ngừa thai
an toàn để giảm tình trạng bỏ thai, giảm tình
trạng đa sản.
-Khuyến khích thai phụ sử dụng sữa có bổ
sung sắt trong thai kỳ để giảm nguy cơ TMTS.

Nghiên cứu Y học

Kelantan, Malaysia”. Southeast Asian J Trop Med Public
Health;36(5):1304-1307
9

Liao QK (2004),” Prevalence of iron deficiency in pregnant and
premenopause women in China: a nationwide epidemiological
survey”. Zonghua Xue Ye Za Zhi; 25(11):653-657


10

Mashako L, Preziosi P, Nsibu C et al (1991)” Iron and folate
status in Zairian mother and their newborns”. Ann Nutr Metab,
1991; 35(6): 309-14.

11

Msolla M. J., Kinabo J. L., (1997), “Prevalence of anemia in
pregnant women during the last trimester”, Int. J. Food. Sci.
Nutr., 4894), pp. 265-70.

12

P TH, Nguyen CK, van Beusekom C (2005),” Milk fortified with
iron or iron supplementation to improve nutrition status of

Sản
8 Phụ Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

pregnant women: an intervention trial from rural Vietnam”.
Food Nutr Bull; 26(1): 32-8.
13

Russia U, Madan N, Agarwal N, Sikka M, Sood S.(1995). “Effect

of maternal iron deficiency anemia on foetal outcome”. Indian J
Pathol Microbiol; 38:273-9.

14

Scholl T.O., Hediger M.L., Fischer R.L., Qheare J.W. (1992),
“Anemia iron deficiency: increase risk of preterm delivery in a
prospective study”, Am J Clin. Nutr., 55(5), pp. 985-8.

15

Toteja GS, Singh P. (2006). “Prevalence of anemia among
pregnant women and aldolescent girls in 16 districts of India”.
Food Nutr Bull; 27(4): 311-5.

16

Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia (1996), Báo cáo về tần suất thiếu máu
ở Việt Nam, Hà Nội, tr.7-9.

17

United Nations Administrative Committee on Coordination,
Sub-committee on Nutrition (ACC/SCN)(2000) Fourth report on
the World Nutrition Situation: Nutrition throughout the life Cycle.
Geneva: ACC/SCN in collaboration with International Food
Policy Research Institude.

18


United National Administrative Committee on Coordination/
Subcommitee on Nutrition.” Controlling iron deficiency”.
Geneva World Health Organization, 1991.

Sản Phụ Khoa

9


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Sản
10 Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

11



×