Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật cắt dịch kính trong điều trị viêm màng bồ đào trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.55 KB, 9 trang )

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT DỊCH KÍNH
TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM MÀNG BỒ ĐÀO TRẺ EM
Lê Minh Tuấn*, Trần Huy Hoàng**, Phạm Thị Chi Lan**, Nguyễn Thị Thanh Hà**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật cắt dịch kính trong điều trị viêm màng bồ đào ở trẻ em dựa
trên mức độ cải thiện chức năng thị giác, cấu trúc giải phẫu, và nhu cầu điều trị corticoid toàn thân. Ngoài ra,
nghiên cứu còn đánh giá các yếu tố góp phần ảnh hưởng tiên lượng thị lực sau mổ.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng không có nhóm chứng được thực hiện trên 21 mắt của 21 bệnh nhi 3 –
15 tuổi, được chẩn đoán VMBĐ nội sinh mạn tính. Các bệnh nhi này được thực hiện phẫu thuật cắt dịch kính
chủ yếu vì có dịch kính vẩn đục nhiều làm giảm thị lực. Số liệu được thu thập trước và sau mổ trong suốt thời
gian theo dõi trung bình là 8,95 tháng.
Kết quả: Trong tổng số mắt, có 85% mắt có cải thiện thị lực, trong đó, 35% thị lực tăng trên 2 dòng
(P<0,001). Phù hoàng điểm dạng nang giảm đáng kể sau mổ ở 4/8 mắt (P=0,012), nhưng không may là sự giảm
phù hoàng điểm lại không đồng nghĩa với sự cải thiện thị lực, gợi ý rằng có những yếu tố khác ảnh hưởng đến
tiên lượng thị lực sau cùng chẳng hạn như thời gian phù. Có sự giảm mức độ tái phát và nhu cầu sử dụng
corticoid toàn thân sau mổ, song sự giảm này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho
thấy thị lực trước mổ kém cũng như mức độ viêm dịch kính trước mổ nhiều ảnh hưởng xấu đến thị lực cuối
cùng.
Kết luận: Phẫu thuật cắt dịch kính mang lại hiệu quả khả quan trong điều trị viêm màng bồ đào trẻ em, đặc
biệt trong những trường hợp dịch kính vẩn đục nhiều, có hoặc không có yếu tố co kéo. Thị lực logMAR trước mổ
và mức độ vẩn đục dịch kính là hai yếu tố quan trọng giúp tiên lượng thị lực sau mổ.

ABSTRACT
VITRECTOMY IN THE MANAGEMENT OF PEDIATRIC UVEITIS
Le Minh Tuan, Tran Huy Hoang, Pham Thi Chi Lan, Nguyen Thi Thanh Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 54 – 60
Purpose: This study evaluated the effect of pars plana vitrectomy (PPV) in the management of pediatric
uveitis on visual function, anatomical outcome, and the requirement of systemic treatment. Further, predictive
preoperative factors associated with a beneficial outcome were assessed.
Methods: Clinical trial study of 21 eyes of 21 pediatric and juvenile patients with chronic uveitis between 3


to 15 years of ages who underwent a PPV for visually significant opacities. The data was recorded before and after
the operation as well as in the average 8,95 months of follow-up.
Results: Overall, 85% of eyes have the visual improvement, in which, 35% of eyes gained more than 2
Snellen lines (P<0,001). Cystoid macular edema (CME) was significantly reduced in 4 of 8 eyes postoperatively
(P=0,012). Unfortunately, the resolution of CME was not associated with a visual improvement, suggesting that
other factors such as the duration of the inflammation is responsible for the visual improvement seen in this series.
Postoperatively, there was a decrease in the recurrence rate, and the requirement of systemic treatment but it’s not
statistically significant. In the multiple regression analysis, a low preoperative logMAR visual acuity and the
grade of vitreous inflammation had a negative influence on the final logMAR visual acuity.
Conclusions: PPV had a beneficial effect on the management of pediatric uveitis especially in the significant
*Đại học Y Dược TP. HCM **Bệnh viện mắt TP. HCM
54


vitreous opacities conditions with or without tractional factor. Preoperative visual acuity and the grade of vitreous
inflammation were the most accurate predictors for the functional outcome.
đưa ra một đánh giá bước đầu về hiệu quả của
ĐẶT VẤN ĐỀ
phẫu thuật cắt dịch kính trong điều trị VMBĐ ở
Viêm màng bồ đào (VMBĐ) nói chung là
trẻ em, nhằm giúp các bác sĩ nhãn khoa trong
một bệnh lý không thường gặp, nhưng lại chiếm
việc đưa ra quyết định điều trị phù hợp và kịp
đến 5-20% trong số những nguyên nhân gây mù
thời cho một bệnh lý nhãn nhi khó, đồng thời tạo
lòa ở Mỹ và Châu Âu(10,16). VMBĐ ở trẻ em tuy
tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn về
chỉ chiếm khoảng 5-10% trong tổng số bệnh
VMBĐ sau này.
nhân VMBĐ nhưng thường có tiên lượng kém,

thị lực rất thấp, để lại di chứng nhiều về sau.
Điều trị VMBĐ trẻ em gặp phải rất nhiều khó
khăn. Trước hết là khó khăn trong việc sử dụng
thuốc. VMBĐ thường là bệnh lý diễn tiến mạn
tính, liên quan đến cơ chế miễn dịch nên việc
điều trị thuốc corticosteroid hay thuốc ức chế
miễn dịch cần sự cân nhắc rất nhiều giữa hiệu
quả đạt được, tác dụng phụ, và biến chứng có
thể gặp, đôi khi nguy hiểm đến tính mạng bệnh
nhi. Kế đến là khó khăn trong việc tuân thủ điều
trị. Bệnh nhi còn quá nhỏ, chưa nhận thức được
tầm quan trọng của việc phải uống thuốc hàng
ngày và ý thức của người nhà trong việc hợp tác
với bác sĩ cũng kém.
Vấn đề điều trị ngoại khoa trong VMBĐ cho
đến những năm gần đây mới chỉ dừng ở mức độ
giải quyết biến chứng trong những trường hợp
giác mạc dải băng, đục thủy tinh thể hay
glôcôm… Từ cuối những năm 70, phẫu thuật cắt
dịch kính bắt đầu được áp dụng trên bệnh nhân
VMBĐ với mục đích chẩn đoán và điều trị.
Trong nhiều năm sau đó, kỹ thuật và dụng cụ
mổ ngày càng cải tiến, đồng thời cũng đã có
nhiều nghiên cứu cho thấy kết quả khá khả quan
của phẫu thuật này trong điều trị VMBĐ.
Nghiên cứu của các tác giả châu Âu và Mỹ
cho rằng phẫu thuật cắt dịch kính lấy đi những
tế bào viêm, do đó làm giảm quá trình viêm ở
nội nhãn; cải thiện thị lực vì giải phóng được
phần dịch kính bị đục, tổ chức hóa, đồng thời

làm giảm phù hoàng điểm dạng nang(9,12,17).
Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có công trình
nghiên cứu nào về cắt dịch kính trong điều trị
VMBĐ ở trẻ em được đưa ra. Vì vậy, công trình
nghiên cứu này được thực hiện với mục đích

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng, không có nhóm
chứng.

Phương pháp chọn mẫu
Dữ liệu được thu thập trong 15 tháng, từ
tháng 6/2007 đến tháng 9/2008. Các bệnh nhi
được chẩn đoán viêm màng bồ đào nội sinh
mạn tính và có vẩn đục DK nhiều (2+ đến 4+),
không soi rõ đáy mắt tại khoa Mắt Nhi, Bệnh
viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh được đưa
vào nghiên cứu.

Quy trình nghiên cứu
Các bệnh nhi sẽ được khai thác bệnh sử, tiền
căn và thăm khám đầy đủ các bước theo bảng
thu thập số liệu, sau đó thực hiện phẫu thuật.
Phẫu thuật cắt DK với ba đường vào ở vùng
pars plana được thực hiện trên 21 mắt bởi cùng
một phẫu thuật viên và máy cắt DK Accurus
800CS của Alcon. Có 1 mắt (1 bệnh nhân) được
thực hiện đồng thời phẫu thuật cắt thủy tinh thể
(TTT) do mức độ đục TTT nhiều, ảnh hưởng đến

việc quan sát đáy mắt. Tất cả các bệnh nhân đều
được dùng thuốc nhỏ corticoid và kháng sinh
phòng ngừa trong 4 tuần đầu sau phẫu thuật.
BN được khám lại sau mổ, đánh giá những
yếu tố sau:
- Thị lực (thập phân và logMAR), nhãn áp
- Tình trạng viêm của DK được quy định từ
nhẹ đến nặng theo đề nghị của Hội nghiên cứu
về VMBĐ quốc tế.
- Soi đáy mắt đánh giá tổn thương của võng
mạc, phù hoàng điểm.

55


- OCT hoặc chụp mạch huỳnh quang đánh
giá phù hoàng điểm (nếu được).

Đặc điểm của nhóm nghiên cứu:
-

Quy ước thị lực bóng bàn tay và đếm ngón

Tuổi trung bình của bệnh nhi tại thời
điểm phẫu thuật là 8,67 ± 3,97 (3-15 tuổi).

tay 50cm lần lượt tương đương với thị lực 0,001

-


Giới: tỉ lệ nam/nữ xấp xỉ 3/1 (16/5)

và 0,01. Để phân tích sự thay đổi thị lực sau mổ,

-

Lý do đến khám: mờ mắt có 15 bệnh nhi

chúng tôi lấy các giá trị: thị lực một tuần sau mổ,

(71,4%), 4 (19%) bệnh nhi khác đến khám

thị lực tốt nhất sau mổ và thị lực ở lần khám cuối

vì lé, 2 (9,5%) bệnh nhi còn lại đến vì

cùng. Thị lực được coi là có cải thiện hay sụt

đồng tử trắng.

giảm đáng kể khi thay đổi ít nhất hai dòng trên

-

bảng thị lực.

phẫu thuật trung bình: 9,79 ± 8,58 tháng

Thống kê và xử lý số liệu
- Tất cả các biến số được mô tả bằng giá trị

trung bình ± độ lệch chuẩn. Giá trị thị lực được
phân tích bằng phép kiểm t. So sánh thị lực
trung bình bằng phép kiểm Friedman. So sánh
các đặc điểm giữa các nhóm bệnh bằng phép
kiểm Fisher hai chiều. Tương quan giữa các biến
kiểm định bằng Spearman.
- Phân tích đa hồi quy để xác định các biến
số độc lập có giá trị tiên đoán (thị lực logMAR
trước mổ, tuổi bệnh nhân, giới tính, tuổi lúc khởi
phát VMBĐ, thời gian bị VMBĐ cho đến lúc
được phẫu thuật, loại VMBĐ, phù hoàng điểm,
đục thủy tinh thể, mức độ vẩn đục DK, điều trị
corticoid toàn thân hay UCMD trước đó, có
những đợt VMBĐ tái phát). Xác định những yếu
tố nào sẽ ảnh hưởng đến tiên lượng thị lực sau
cùng (biến số phụ thuộc).

KẾT QUẢ

Thời gian từ lúc VMBĐ đến thời điểm
(2 - 24 tháng).

Thị lực
Trong quá trình theo dõi, chúng tôi nhận
thấy có 17 mắt (85%) thị lực cải thiện sau mổ,
trong đó, 6 mắt (30%) có thị lực thập phân tăng
trên 2 dòng, 11 (55%) mắt có thị lực cải thiện ít; 3
mắt (15%) có thị lực không cải thiện. Không có
mắt nào có thị lực giảm so với trước mổ.
Thị lực logMAR sau mổ cũng tăng từ 2,05

(± 0,70) lên 1,37 (± 0,92). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (phép kiểm t, P < 0,001), và
tương đương với thay đổi của thị lực thập
phân từ 0,02 (~ ĐNT 1m) lên 0,15 (20/120).
Có 9 trường hợp (45%) có thị lực sau mổ
một tuần kém hơn so với thị lực tốt nhất, trong
đó 4 trường hợp thị lực khác biệt đáng kể (trên
2 dòng trên bảng thị lực). Khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (phép kiểm t, P = 0,005).
Có 4 trường hợp (20%) thị lực cuối cùng

Trong thời gian từ tháng 6/2007 đến tháng

giảm so với thị lực tốt nhất, trong đó, 3 trường

9/2008, chúng tôi đã đưa vào nghiên cứu 21 bệnh

hợp giảm trên 2 dòng trên bảng thị lực thập

nhi (21 mắt, 11 mắt phải và 10 mắt trái) được

phân. Khác biệt này không có ý nghĩa thống kê

chẩn đoán là VMBĐ nội sinh mạn tính.

(phép kiểm t, P > 0,05).

P=
56



3
2.5

P < 0,001

2
1.5
1
0.5
0

TL trửụự c moồ

TL toỏ t nhaỏt

TL sau cuứ ng

Biu 1. So sỏnh th lc logMAR trung bỡnh gia cỏc thi im: trc m v tt nht sau m; tt nht v cui cựng

57


Tình trạng vẩn đục dịch kính
Bảng 1. Tình trạng đục dịch kính trước và sau mổ
0
1+
2+
3+
4+

Tổng

Trước mổ
0
0
2
8
11
21

Sau mổ
18
2
1
0
0
21

Phù hoàng điểm
Bảng 2. Phù hoàng điểm trước và sau mổ


Phù hoàng
ñiểm trước mổ Không
Tổng

Phù hoàng ñiểm sau mổ
Tổng

Không

4
4
8
0
13
13
4
17
21

Có sự giảm phù hoàng điểm đáng kể sau mổ so với trước mổ, và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (phép kiểm Fisher, P=0,012).

Mức độ tái phát của VMBĐ
Bảng 3. Mức độ tái phát của VMBĐ trước và sau mổ


VMBĐ tái phát
trước mổ
Không
Tổng

VMBĐ tái phát sau mổ

Không
1
7
0
10
1

17

Tổng
8
10
18

Trước mổ, có 8/18 mắt đã bị VMBĐ tái phát một hoặc nhiều lần. Sau mổ, chỉ có 1/21 mắt bị
VMBĐ tái phát. Tuy nhiên khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Fisher, P =
0,444).

Biến chứng sau mổ
Có 2 mắt (9,5%) tiến triển đục TTT sau mổ trong thời gian theo dõi là 10 và 11 tháng
(trước đó không có đục TTT). 3 mắt (14,2%) có xuất huyết DK nhẹ sau mổ và tự hấp thu sau
đó vài tuần. 1 mắt (4,7%) viêm tái phát sau mổ 6 tháng và hiện đáp ứng tốt với điều trị
corticoid uống và tiêm dưới tenon. Không có trường hợp nào phải phẫu thuật lại hay có các
biến chứng khác.

Các yếu tố tiên lượng thị lực sau mổ:
Bảng 4. Tương quan giữa các biến số trước mổ và thị lực sau mổ
Biến số
Thị lực trước mổ (logMAR)
Tình trạng viêm DK trước mổ
Đục TTT trước mổ
Thời gian theo dõi
Phù hoàng ñiểm trước mổ

r
0,77
0,63

0,49
-0,28
0,20

P (Spearman)
<0,001
0,003
0,026
0,216
0,385

Như vậy, chỉ có 3 biến số ảnh hưởng đến thị lực sau mổ là thị lực trước mổ, tình trạng
viêm của DK trước mổ và đục TTT trước mổ.

58


Bảng 5. Phân tích hồi quy đa biến.
Biến phụ
thuộc

R

2

R

Thị lực
cuối cùng 0,89 0,79
(logMAR)


Giá trị P Các biến
(ANOVA) dự ñoán
< 0,001

Hệ số
hồi
quy B

P

Thị lực
<
trước mổ 0,79
0,001
(logMAR)
Viêm DK
0,54 0,006
trước mổ

Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy chỉ có hai biến số độc lập là thị lực logMAR
trước mổ và tình trạng viêm DK trước mổ có liên quan đáng kể đến thị lực cuối cùng của
bệnh nhi.

Phương trình hồi quy:
Thị lực cuối cùng (logMAR) = 0,79 x Thị lực trước mổ (logMAR) + 0,54 x Viêm DK trước
mổ – 1,89.

Bàn luận
Đặc điểm nhóm nghiên cứu:

Tuổi trung bình tương đương các nghiên cứu khác. Khác biệt về giới không có ý nghĩa
trong biểu hiện bệnh cũng như tiên lượng.
Bệnh nhi thường đến khám khi bệnh đã kéo dài, ở giai đoạn muộn, thậm chí đã có biến
chứng (lé, đồng tử trắng).

Thị lực
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 85% (17 mắt) có thị lực cải thiện sau phẫu thuật, trong
đó, 6 mắt có thị lực tăng đáng kể (hơn hai dòng trên bảng thị lực). Đối chiếu với tác giả
Trittibach (Thụy Sĩ)(18) có tỉ lệ cải thiện thị lực là 86,2% (25/29 mắt), và 21 mắt có thị lực tăng
hơn hai dòng thì kết quả của chúng tôi còn khiêm tốn, song lại lạc quan hơn so với kết quả
56% của tác giả Verbraeken(19). Sự chênh lệch này có thể được giải thích do thị lực trước mổ
của họ khá cao: thị lực logMAR trước mổ trung bình của nghiên cứu Trittibach là 0,91 ± 0,67,
trong khi giá trị này trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ là 2,05 ± 0,70.
So sánh thị lực trước mổ và thị lực tốt nhất sau mổ cho thấy không có trường hợp có giá
trị thị lực giảm. Ngoài ra, cũng không có trường hợp nào phải phẫu thuật lần thứ hai. Điều
này chứng tỏ thời điểm lựa chọn phẫu thuật tương đối hợp lý và tình trạng viêm đã được
kiểm soát tốt trước phẫu thuật.
Giải thích về các trường hợp có khác biệt giữa thị lực sau mổ một tuần so với thị lực tốt
nhất, chúng tôi nhận thấy có bốn mắt có khác biệt đáng kể. Trong số này, hai mắt có biến
chứng xuất huyết DK sau mổ và tình trạng xuất huyết tự cải thiện sau vài tuần, sau đó thị
lực tăng lên 2/10 và 5/10. Hai mắt còn lại phù hoàng điểm còn tồn tại sau mổ nhưng sau 1-3
tháng thì hoàng điểm không còn phù và thị lực cũng tăng lên 5/10 và 6/10.

Tình trạng đục DK
Trước mổ, mức độ vẩn đục DK trung bình là 3,43 ± 0,67. Sau mổ, chỉ số này giảm đáng
kể, chỉ còn 0,19 ± 0,51. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Wilcoxon, P < 0,001).

59



Mức độ đục DK này ổn định trong suốt thời gian theo dõi, trừ một trường hợp viêm tái
phát.
Nghiên cứu của tác giả Trittibach(18) cũng có kết quả tương tự, chỉ số này giảm từ 1,63 ±
0,78 xuống còn 0,11 sau mổ.
Kết quả này cũng phù hợp với những giả thuyết về tác dụng tích cực của phẫu thuật cắt
DK. Giả thuyết cho rằng phẫu thuật cắt DK đã lấy đi những chất gây viêm, những
cytokines, interleukins và các yếu tố tăng sinh, cũng như những tế bào viêm trong DK, làm
sạch DK và do đó, góp phần làm giảm quá trình viêm, giảm khả năng tái phát, đồng thời
giảm nhu cầu phải sử dụng corticoid toàn than.

Phù hoàng điểm
Có sự giảm phù hoàng điểm đáng kể sau mổ so với trước mổ. Số mắt phù hoàng
điểm trước mổ là 8 mắt (38,1%; 1 mắt VMBĐ trung gian, 4 mắt VMBĐ sau và 3 mắt
VMBĐ toàn bộ) giảm xuống còn 4 mắt sau mổ (phép kiểm Fisher, P = 0,012).
Nhưng không may là sự giảm phù hoàng điểm lại không đồng nghĩa với việc cải thiện
thị lực. Trong 4 mắt giảm phù hoàng điểm sau mổ, chỉ có 1 mắt có thị lực tăng trên hai
dòng. Bệnh nhi này đến khám vì mờ mắt mới xảy ra 3 tháng và chưa từng có tiền sử VMBĐ
trước đó. 3 trường hợp thị lực không tăng thì có 2 trường hợp đến khám vì lé (không rõ thời
gian VMBĐ trước mổ), trường hợp còn lại có tiền sử VMBĐ tái phát nhiều lần trong 2 năm.

Mức độ tái phát
Mức độ tái phát của VMBĐ giảm từ 8/18 mắt trước mổ xuống còn 1/21 mắt sau mổ. Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Fisher, P = 0,444).
Ngược lại, theo tác giả Trittibach thì mức độ tái phát giảm đáng kể sau phẫu thuật, từ
15/24 mắt xuống 7/24 (P < 0,042). Sở dĩ có sự khác biệt này, theo chúng tôi, có lẽ là do trước
mổ, tỉ lệ tái phát trong nhóm nghiên cứu có thể còn cao hơn, song một số bệnh nhân không
nhận biết có VMBĐ xảy ra từ khi nào, và vì thế cũng không biết có bị những đợt tái phát
hay không.
Nhu cầu điều trị corticoid toàn thân sau mổ có giảm từ 7 mắt (33,3%) xuống còn 1 mắt
(4,7%), nhưng khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Fisher, P = 0,333). Tương

tự, nghiên cứu của Trittibach cũng báo cáo việc sử dụng corticoid sau mổ giảm từ 17 mắt
(58,6%) còn 9 mắt (31%) và khác biệt cũng không có ý nghĩa với P= 0,07.

Biến chứng sau mổ
Xuất huyết DK
Biến chứng sớm sau mổ gặp trong nghiên cứu là xuất huyết DK (14,2%), sau đó tự
hấp thu hoàn toàn trong vài tuần và không ảnh hưởng đến thị lực sau cùng. Xuất huyết
DK sớm sau mổ thường do sơ suất trong quá trình đưa dụng cụ qua lỗ mở củng mạc
hoặc chảy máu từ các màng tăng sinh khi cắt DK. Những trường hợp này thường nhẹ và
tự hấp thu mà không cần điều trị gì. Nghiên cứu của tác giả Stavrou có tỉ lệ xuất huyết
DK là 6,9%, tuy nhiên phẫu thuật của tác giả tiến hành trên người lớn, và đối tượng
nghiên cứu là bệnh nhân VMBĐ trung gian, không có những trường hợp tăng sinh, co
kéo DK và tân mạch như trong VMBĐ sau và toàn bộ.

60


Đục TTT
9,5% (2 mắt) tiến triển đục TTT sau 10-11 tháng. Một mắt sau đó đã được phẫu thuật
TTT, đặt kính nội nhãn và thị lực cải thiện.
Tỉ lệ đục TTT theo tác giả Trittibach là 55,5% (10/18 mắt) và 6 mắt sau đó được phẫu
thuật TTT.
Theo ghi nhận của các tài liệu và y văn thì hầu hết những bệnh nhân trên 50 tuổi đều
diễn tiến đến đục TTT sau phẫu thuật cắt DK. Bệnh nhân trẻ thì tỉ lệ thấp hơn. Tỉ lệ đục TTT
sẽ tăng nếu có sự đụng chạm vào TTT trong quá trình phẫu thuật.
Yếu tố tiên lượng thị lực
Bảng 3.5 phân tích hồi quy đa biến cho thấy chỉ số tương quan cao (R=0,89), có nghĩa là
có tương quan tuyến tính mạnh giữa giá trị thị lực ước lượng dựa trên phương trình hồi quy
và giá trị thị lực thực tế quan sát thấy (logMAR). Giá trị dự đoán của phương trình hồi quy
này khoảng 79% (R2 = 0,79) (ANOVA cho phương trình hồi quy, P<0,001).


KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tiến hành phẫu thuật cắt DK trên 21 bệnh nhi (21 mắt) VMBĐ mạn tính,
thực hiện trong 15 tháng (6/2007 – 9/2008) tại khoa Mắt Nhi, Bệnh viện Mắt TP. HCM, chúng
tôi rút ra một số nhận định về phương pháp phẫu thuật cắt DK như sau:
Phẫu thuật giúp 85% (17 mắt) cải thiện thị lực, trong đó, 6 mắt (30%) có thị lực tăng đáng
kể (hơn hai dòng trên bảng thị lực). Hầu hết các mắt đều duy trì được thị lực này trong quá
trình theo dõi, chỉ có 3 mắt (15%) sau đó diễn tiến các biến chứng đục TTT và viêm tái phát
gây ảnh hưởng đến thị lực sau mổ. 15% (3 mắt) có thị lực không thay đổi sau mổ. Không có
trường hợp nào thị lực sau mổ kém hơn trước mổ.
Phù hoàng điểm giảm từ 38,1% trước mổ xuống 19,0% sau mổ. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (P = 0,012). Tuy nhiên, mức độ giảm phù hoàng điểm không tương đương
với mức độ tăng thị lực.
Mức độ viêm của DK giảm đáng kể sau mổ (từ 3,43 ± 0,67 xuống 0,19 ± 0,51) và ổn định
trong suốt thời gian theo dõi, trừ một trường hợp viêm tái phát.
Có ba yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng thị lực sau phẫu thuật: thị lực trước mổ, tình
trạng viêm DK trước mổ và đục TTT trước mổ. Dựa vào yếu tố này có thể dự đoán được
79% thị lực sau mổ, số còn lại phụ thuộc vào những yếu tố khác của tùy từng cá thể mà
chúng ta chưa xác định được. Tuổi khởi phát VMBĐ hay thời gian theo dõi không ảnh
hưởng gì đến kết quả thị lực sau cùng.
Biến chứng sau mổ gặp trong nghiên cứu: xuất huyết DK (14,2%), đục TTT (9,5%) và
VMBĐ tái phát (4,7%). Các biến chứng này sau đó được kiểm soát tốt. Như vậy, có thể nói
phẫu thuật khá an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.


A.A.O. (1999 – 2000), Basic and Clinical Science Course, Section 9: Endophthalmitis and Uveitis.
Becker M, Davis J (2005). Vitrectomy in the treatment of uveitis. Am J Ophthalmol, 140(6): 1096 - 1105.
Becker MD, Harsch N, Zierhut M. Therapeutic vitrectomy in uveitis: current status and recommendations. Ophthalmologe
2003; 100: 787-795.
Boer J, Berendschot TJM, Van der Does P, Rothova A (2006). Long-term follow-up of Intermediate Uveitis in children. Am
J Ophthalmol, 141: 616-621.
Bovey EH, Herbort CP (2000). Vitrectomy in the management of uveitis. Ocular Immunology and Imflamation; 8 (4): 285-291.

61


6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.

Boyd BF, Boyd S (2002). Retinal and Vitreoretinal Surgery. Highlights of Ophthalmology.
Brinkman C, Otto A (1992). Role of the vitreous in experimental uveitis. Dev Ophthalmol 23: 226-231.

Dev S, Mieler WF, Pulido JS, Mittra R (1999). Visual outcomes after pars plana vitrectomy for epiretinal membranes
associated with pars planatis. Ophthalmology, 106: 1086 - 1090.
Eckardt C, Bacskulin A (1992). Vitrectomy in intermediate Uveitis. Dev Ophthalmol 23: 130-132.
Heiligenhaus A, Bornfeld N, Foerster MH, Wessing A (1994). Long-term results of pars plana vitrectomy in the
management of complicated uveitis. Br. J. Ophthalmol., 78: 549 - 554.
Kaplan HJ (1992). Surgical treament of intermadiate uveitis. Dev Ophthalmol 23: 185-189.
Levy-Clarke GA, Nussenblatt RB, Smith JA (2005). Management of chronic pediatric uveitis. Current Opinion Ophthalmol
16: 281-288.
Mieler W, Will B, Lewis H, Aaberg T (1988). Vitrectomy in the management of peripheral uveitis. Ophthalmology, 95: 859864.
Potter MJ, Myckatyn SO, Maberley AL, Lee AS (2001). Vitrectomy for pars planitis complicated by vitreous hemorrhage:
visual outcome and long-term follow-up. Am J Ophthalmol, 131(4): 514 - 515.
Scott RA, Haynes RJ, Orr GM, Cooling RJ (2003). Vitreous surgery in the management of chronic endogenous posterior
uveitis. Eye, 17: 221 - 227.
Stavrou P, Baltatzis S, Letko E, Samson CM, Christen W, Foster C S (2001). Pars plana vitrectomy in patients with
intermediate uveitis. Ocular Immunology and Imflammation, 9 (3): 141-151.
Tranos P, Scott R, Zambarajki H, Ayliffe W, Pavesio C, Charteris D.G. (2006). The effect of pars plana vitrectomy on CME
associated with chronic uveitis: a randomised, controlled pilot study. Br J Ophthalmol, 90: 1107 - 1110.
Trittibach P, Koerner F, Sarra GM, Garweg JG (2006). Vitrectomy for juvenile uveitis: pronostic factors for the long-term
functional outcome. Eye, 20: 184 - 190.
Verbraeken H (1994). Therapeutic pars plana vitrectomy for chronic uveitis: a retrospective study of the long-term result.
Graefe's Arch Clin Exp Ophthalmol, 234: 288 - 293.
Williamson TH (2007). Introduction to vitreoretinal surgery. Vitreoretinal Surgery. Springer; p 11-38.

62



×