Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn khu vực tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.8 MB, 172 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------

PHẠM HƢƠNG THẢO

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN KHU VỰC TÂY BẮC

Chuyên ngành: Khoa học quản lý
Mã số: 9310110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền

HÀ NỘI, NĂM 2019


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Thực tiễn nước ta cho thấy, dân cư sống ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
dân số ở Việt Nam (trên 68% dân số Việt Nam sống ở khu vực nông thôn). Trong thời
gian vừa qua, Đảng và Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp, chính sách nhằm đa dạng
hóa việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhóm đối tượng này.
Nhưng thu nhập thực tế của người dân nông thôn nói chung, nông dân khu vực Tây Bắc
nói riêng còn nhiều hạn chế.
Báo cáo từ Tổng cục Thống kê năm 2011 cho biết, thu nhập của người dân nông
thôn mặc dù tăng đều qua các năm, tuy nhiên mức thu nhập bình quân trong khu vực


nông thôn mới chỉ đạt 891 nghìn đồng/người/tháng; trong đó thu nhập của nhóm
nghèo, nhóm cận nghèo lần lượt là 406 nghìn/người/tháng và 644 nghìn
đồng/người/tháng. Nói cách khác, thu nhập bình quân của nhóm đối tượng cận nghèo
ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay mới chỉ tương đương với mức chuẩn xác định
nghèo của ngân hàng thế giới thiết lập ở năm 1993 (người nghèo là người có thu nhập
dưới 1usd/người/ngày).
Nhà nước, chính quyền trung ương ban hành rất nhiều chủ trương đường lối, các
biện pháp chính sách về việc làm nhằm tạo điều kiện để người dân nông thôn gia tăng
thu nhập. Tuy nhiên việc thực hiện những chủ trương đó tại các cơ sở lại chưa hiệu quả,
chưa đem lại những biến đổi thu nhập tích cực đối với người dân nông thôn. Chính sách
hỗ trợ việc làm cho người lao động là một trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính
sách phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Hệ thống chính sách việc làm, dạy nghề và
giải pháp thực hiện mục tiêu hỗ trợ việc làm cho người lao động, phát triển thị trường
lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn (nhất là nông thôn khu vực Tây Bắc) được xem là một trong những
chính sách cơ bản nhất của quốc gia. Chính sách việc làm nhằm giải quyết thoả đáng
nhu cầu việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc
làm; góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội; tạo điều kiện phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo cho người lao động.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn một số vướng mắc hạn chế kết quả triển
khai các hoạt động hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn Tây Bắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, vùng miền núi miền núi Tây Bắc, Việt Nam địa hình hiểm trở, có
nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Tuy nhiên đây


2
cũng là địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu kém; xuất phát điểm
và trình độ phát triển kinh tế-xã hội thấp, tỷ hộ nghèo cao, mặt bằng dân trí thấp, thường
bị ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt... Do đó, hỗ trợ việc làm cho người lao động luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm để tạo dựng việc làm, duy trì cuộc sống ổn định, lâu dài, góp

phần cải thiện chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế-xã hội của vùng.
Thứ hai, từ Đổi mới đến nay Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách về hỗ trợ
việc làm cho lao động nông thôn, nhất là lao động vùng miền núi với nhiều hình thức hỗ
trợ khác nhau và đã thu được nhiều kết quả khả quan, tỷ lệ hộ nsghèo giảm, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Tuy nhiên so với yêu cầu thực tế hiện
nay, vẫn còn nhiều hạn chế bất cập như cơ cấu ngành đào tạo chưa phù hợp với thị
trường lao động, chương trình đào tạo, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn; nhiều người đã qua đào tạo nghề vẫn gặp nhiều khó khăn để tìm được việc
làm; nhiều người phải làm việc không phù hợp với chuyên môn, ngành nghề được đào
tạo; tỷ lệ thiếu việc làm còn khá cao... báo cáo của Bộ Lao động thương binh và Xã hội
năm 2016 về phê duyệt kết quả hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2016 theo chuẩn nghèo tiếp
cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 cho hay, cả nước có 1.986.697 hộ nghèo
(chiếm 8,23% tỷ lệ so với tổng số hộ dân cư trên toàn quốc) và có 1.306.928 hộ cận nghèo
(chiếm 5,41%;) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Trong đó số hộ nghèo miền núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với 31,24 %, tiếp theo
là miền núi Đông Bắc (17,72%), khu vực Tây Nguyên (15,27%), Đông Nam Bộ có tỷ lệ
hộ nghèo thấp nhất cả nước là 1,05% và Đồng bằng Sông Hồng chỉ có 3, 23%. Do đó cần
có những đánh giá về hiệu quả, tác động của chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động
khu vực Tây Bắc, từ đó đề xuất những mô hình, chính sách phù hợp, đảm bảo hiệu quả
và tính bền vững.
Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vùng miền núi phải đối mặt với các cú sốc
bên trong và bên ngoài ngày càng lớn. Hội nhập quốc tế góp phần tạo nhiều cơ hội như
tăng khả năng thông thương, khả năng tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo cơ hội
và nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, làm giàu vốn văn hoá miền núi, góp phần cải thiện
cuộc sống và xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, vùng miền núi cũng sẽ phải đối mặt nhiều
hơn với nhiều thách thức trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động.
Khoảng cách giàu nghèo giữa vùng miền núi và vùng đồng bằng ngày một lớn; hàng hoá
sản phẩm của vùng miền núi làm ra khó tiêu thụ hơn do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán,
chất lượng sản phẩm chưa cao; văn hoá truyền thống dễ bị mai một dần nếu không được
bảo tồn và phát triển; môi trường ngày càng suy thoái do áp lực phát triển kinh tế, người

dân vùng miền núi khai thác tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản và do các chất thải công


3
nghiệp; tình trạng phạm tội và các tệ nạn xã hội nếu không kiểm soát được sẽ đe doạ sự
ổn định chính trị, xã hội và khối đại đoàn kết miền núi. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần có
những quyết sách đúng đắn, tạo mọi điều kiện cần thiết để vùng miền núi có thể tận dụng
được cơ hội và vượt qua những thách thức trong điều kiện hội nhập. Hỗ trợ việc làm cho
lao động khu vực Tây Bắc sẽ là một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết vấn
đề này.
Cuối cùng, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về hỗ trợ việc
làm cho người lao động nói chung, cho người miền núi nói riêng. Tuy nhiên những
nghiên cứu này vẫn chưa đầy đủ, thiếu tính hệ thống, thiếu tính dự báo và thường tách
rời giữa dạy nghề với hỗ trợ việc làm. Các phân tích về chính sách hỗ trợ việc làm cho
người lao động mới chỉ tập trung vào các đặc trưng về vị thế và vai trò của người
miền núi cũng như vào chính sách nhìn từ góc độ của Nhà nước mà chưa lấy đối tượng
thụ hưởng chính sách là trọng tâm, chưa tính đến đặc trưng về lịch sử, văn hoá miền
núi, kinh tế xã hội, nhu cầu và tâm lý của các nhóm lao động. Chưa có nghiên cứu nào
hệ thống đầy đủ, toàn diện các chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động và cũng
chưa có đánh giá đầy đủ, tổng hợp hiệu quả, tác động của các chính sách này. Chính vì
vậy tác giả lựa chọn thực hiện nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao
động nông thôn khu vực Tây Bắc” là có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối.
Luận án sẽ cung cấp cơ sở lý luận cũng như thực tiễn đối với khu vực Tây Bắc về các
chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động; hệ thống hoá và đánh giá một cách toàn
diện các chính sách hỗ trợ việc làm từ 1993 đến nay; phân tích, đánh giá hiệu quả, tác
động và nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống chính sách hỗ trợ việc làm đối
với lao động; dự báo nhu cầu hỗ trợ việc làm cho lao động; từ đó có căn cứ để đề xuất
giải pháp, chính sách, mô hình phù hợp, hiệu quả, bền vững đối với việc hỗ trợ việc
làm, đảm bảo cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa tiến tới
giảm nghèo bền vững, từ đó thực hiện được mục tiêu đảm bảo quốc phòng an ninh và

trật tự an toàn xã hội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Hiểu được chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn - Nghiên cứu
điển hình đối với khu vực Tây Bắc.
Đánh giá được được thực trạng chính sách hỗ trợ việc làm, kết quả cũng như tác động
của việc thực hiện chính sách này đến biến đổi việc làm của lao động nông thôn, đến thay
đổi tình trạng thu nhập và đời sống của bản thân người lao động và gia đình họ.


4
Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện đối với chính sách hỗ trợ việc
làm nhằm gia tăng thu nhập, đời sống của lao động nông thôn đến năm 2030.
Mục tiêu cụ thể
Làm rõ nội hàm việc làm và hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn; chính
sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn với các hợp phần từ căn cứ, chủ thể
ban hành, mục tiêu, nguyên tắc đến các phân hệ của chính sách hỗ trợ việc làm đối với
lao động nông thôn,
Làm rõ được các nguồn hình thành thu nhập của lao động nông thôn, mối quan
hệ giữa việc làm với thu nhập nội sinh của lao động nông thôn,
Xác định được 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ việc làm đối với
lao động nông thôn
Xác định được bộ tiêu chí đánh giá chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động
nông thôn,
Khái quát kinh nghiệm một số nước trên thế giới về hỗ trợ lao động nông thôn
gia tăng thu nhập nội sinh thông qua hỗ trợ việc làm của chính phủ,
Đánh giá được thực trạng hệ thống chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động
nông thôn của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương 6 tỉnh Tây Bắc,
Đánh giá được thực trạng chính sách hỗ trợ việc làm, kết quả và tác động của chính
sách đến tình trạng thu nhập và đời sống của lao động nông thôn ở 6 tỉnh Tây Bắc,

Khuyến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ việc làm
đối với lao động nông thôn trên địa bàn Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu này là nội dung, kết quả thực hiện và các tác động của
chính sách hỗ trợ việc làm đến tình trạng việc làm, thu nhập và đời sống của lao động
nông khu vực Tây Bắc.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vị về thời gian:
Luận án tập trung đánh giá phân tích chính sách hỗ trợ hỗ trợ việc làm đối với lao
động nông thôn khu vực Tây Bắc giai đoạn từ khi chính phủ Việt Nam triển khai các
hoạt động tấn công nghèo đói đến giai đoạn hiện nay và đưa ra các giải pháp đến 2030.


5

Phạm vị về không gian:
Hệ thống chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông được thực hiện trên
địa bàn 6 tỉnh Tây Bắc.
Về nội dung
Chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn gồm nhiều phân hệ, tuy
nhiên trong nghiên cứu này, căn cứ vào thực trạng cũng như kết quả triển khai những
chính sách hợp phần có liên quan, đề tài tập trung vào ba nhóm chính sách hợp phần là
(i) Hướng nghiệp và giới thiệu việc làm, (ii) đào tạo nghề, (iii) tín dụng; các chính
sách khác như hỗ trợ xuất khẩu lao động, hỗ trợ tiêu liên kết 4 nhà trong phát triển
nông nghiệp nông thôn... không được đưa vào nghiên cứu này bởi khu vực miền núi
Tây Bắc không có nhiều, thậm chí là có rất ít lao động nông thôn, lao động là người
dân tộc thiểu số đi xuất khẩu lao động; và việc thực hiện phát triển chuỗi sản xuất ở
khu vực này còn đang ở mức độ sơ khai... Việc đánh giá chính sách được tập trung vào
3 nội dung lớn, (i) kết quả thực hiện chính sách, (ii) tác động của chính sách đến biến

đổi việc làm và đời sống lao động nông thôn, (iii) nguyên nhân ảnh hưởng đến thực
trạng chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động Tây Bắc, trong đó hạn chế nội dung
chính sách được phân tích lồng ghép trong yếu tố từ môi trường vĩ mô.
4. Các kết quả nghiên cứu dự kiến
Về lý luận
Luận án hệ thống hoá cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao
động; xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu về chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao
động nông thôn khu vực Tây Bắc.
Xây dựng hệ thống tiêu chí/chỉ tiêu đánh kết quả, tác động của chính sách hỗ trợ
việc làm đối với lao động nông thôn.
Dự báo biến động việc làm và nhu cầu đào tạo nghề đối với lao động khu vực
Tây Bắc.
Kết quả nghiên cứu của Luận án bổ sung những luận cứ khoa học về hỗ trợ việc
làm và chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn nói chung, đặc biệt là lao
động nông thôn khu vực Tây Bắc nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy các lĩnh vực liên quan (quản lý công, chính sách công, quản lý


6
kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn ...) ở các trường cao đẳng, đại học, các viện
nghiên cứu trong phạm vi cả nước.
Về thực tiễn
Luận án hệ thống hoá các chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn
của chính quyền trung ương và các chính sách đối với hỗ trợ việc làm lao động nông
thôn khu vực Tây Bắc nói riêng đầu những năm 1990 đến nay. Luận án cung cấp cho
các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu một bức tranh
tổng thể về kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động khu vực Tây
Bắc trong thời gian qua; cung cấp thêm thông tin từ thực tiễn nghiên cứu để các nhà
khoa học có định hướng tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng chính sách phù

hợp về hỗ trợ việc làm cho lao động khu vực Tây Bắc đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030.
Luận án nghiên cứu bài học kinh nghiệm quốc tế về mô hình hỗ trợ việc làm đem
lại hiệu quả kinh tế cho người miền núi, điều này cung cấp thêm luận cứ cho các nhà
quản lý, các nhà hoạch định chính sách xác định mô hình phù hợp về hỗ trợ việc làm
đối với người lao động ở Việt Nam.
Luận án đề xuất khung đánh giá cùng bộ tiêu chí/chỉ tiêu nhằm phục vụ đánh giá
kết quả, tác động của chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động khu vực Tây Bắc ở
Việt Nam.
Những đánh giá đầy đủ, toàn diện của Luận án về kết quả, tác động của chính
sách hỗ trợ việc làm đối với lao động khu vực Tây Bắc từ đầu những năm 1990 đến
nay cũng như việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong hoạch
định chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động khu vực Tây Bắc sẽ giúp xác định
được phương hướng, đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách trong những
năm tiếp theo.


7

Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài về chính sách hỗ trợ việc làm đối
với lao động nông thôn
1.1.1. Lao động nông thôn và việc làm đối với lao động nông thôn
Theo định nghĩa của tổ chức Lao động quốc tế (ILO, 2008), việc làm là những
hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. Việc làm đối với mỗi người
lao động, được làm việc gắn với từng công việc cụ thể, không chỉ tồn tại mà còn là sự
hoàn thiện bản thân. Đối với xã hội, việc làm tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ góp
phần cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. “Việc làm có thể định nghĩa như một
thực trạng, trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật do có sự tham gia tích cực,

có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” (ILO 2014). “Việc làm theo
nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì
quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và tiêu
chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” (ILO 2014). Như vậy, việc
làm được bắt nguồn từ lao động của con người (tất nhiên là chỉ ở những người có sức
lao động) thông qua công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động nhằm tạo ra
của cải vật chất, việc làm luôn gắn với một ngành nghề nhất định.
Đối với hộ gia đình nông dân, trước sức ép từ sự biến đổi xã hội, để tồn tại, nông
dân không chỉ thực hiện các việc làm trong nông nghiệp mà còn tiến hành các hoạt
động việc làm liên quan đến kinh tế phi nông nghiệp (Davis-Brown, K., và Salamon,
S. 1987). Thực tế chứng minh các hoạt động phi nông nghiệp được nông dân các nước
có nền kinh tế chuyển đổi đóng góp từ 20-70% thu nhập của lao động nông thôn
(Adams, 2001; Benjamin, 1992; De Brauw và những tác giả khác, 2002; De Brauw và
Rozelle, 2008; Wang, Herzfeld, và Glauben, 2007; Yu và Zhao, 2009).
Nói cách khác, để đảm bảo tài chính chi tiêu cho đời sống thì người nông dân
ngoài thời gian làm nông nghiệp, còn tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, và dịch vụ khác (Carter, M., và Yao, Y. 2002; MariaLaura Di Domenico và
Graham Miller, 2012). Ngoài các khoản tiền thu được từ sự tham gia của người lao
động vào thị trường lao động người dân nói chung, nông dân nói riêng còn có được thu
nhập từ các khoản cho thuê tài sản, các khoản chuyển khoản từ lao động di cư…
Christina Pantazis (2006).
Martin M. & Ronald W.M. (2003), Unemployment duration and employability in


8
remote rural labour markets. Nghiên cứu đã phân tích những hàng rào tìm kiếm việc
làm của những người thất nghiệp ngắn và dài hạn ở thị trường lao động nông thôn.
Nghiên cứu xác định một số vấn đề về tìm việc cụ thể và công việc khác mà người thất
nghiệp sống ở cộng đồng người sử dụng lao động (cầu lao động) và thảo luận về các
chính sách tiềm năng để giải quyết nhu cầu của những cá nhân thất nghiệp. Những giải

pháp toàn diện và khách hàng làm trung tâm được yêu cầu để giải quyết các rào cản
đối với những người tìm việc ở nông thôn, bao gồm cung cấp người lớn giáo dục cơ
bản, đào tạo linh hoạt tập trung vào kỹ năng và kinh nghiệm làm việc với sự liên quan
cụ thể đến các ngành nghề kinh tế nông thôn mới và các dịch vụ hỗ trợ chính thức cho
người tìm việc trong khu vực cô lập. Đối với chính sách về Cung lao động cần kết hợp
với những biện pháp kích Cầu để khuyến khích sự phát triển nội sinh và ngoại sinh ở
khu vực nông thôn tách biệt.
- Harry Toshima (2009), Essay in development Economics in honor of Harry
Toshima, nghiên cứu đặc điểm cơ bản của nền kinh tế châu Á với mục tiêu là thay đổi
nền kinh tế từ chỗ sử dụng không hết lao động tiến tới tận dụng hết lao động ở mức độ
cao qua 3 giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Ông đưa ra lý thuyết tăng trưởng của
các nước kinh tế gió mùa. Theo ông, mô hình tăng trưởng của Lewis không có ý nghĩa
thực tế với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp gió mùa. Bởi vì nền nông
nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động trong các đỉnh cao thời vụ và chỉ thừa lao động
trong mùa nhàn rỗi. Trong mô hình này, sự phát triển được bắt đầu bằng việc vẫn giữ
lại lao động trong nông nghiệp và chỉ tạo thêm những hoạt động mới...
1.1.2. Chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn
Chính sách hỗ trợ lao động tự tạo việc làm
El Harbia and Grolleaub (2012) khẳng định vấn đề tự tạo việc làm của người lao
động không chỉ gây ra hiệu ứng lây lan, ảnh hưởng đến hạnh phúc của nhiều cá nhân,
mà còn tác động tác động đến ổn định quốc gia. Chính vì thế, các chính sách tự tạo
việc làm là cần thiết. Tuy nhiên, mỗi cá nhân, mỗi người lao động có hoàn cảnh khác
nhau khi tham gia vào thị trường lao động. Tự tạo việc làm đối với người lao động có
nhiều điểm khác biệt so với việc người lao động tham gia cung ứng sức lao động trên
thị trường. Việc làm do người lao động tự tạo ra không chỉ phụ thuộc vào năng lực của
bản thân người lao động, về giới tính của người lao động, nhu cầu làm việc và hoàn
cảnh kinh tế - xã hội gia đình của họ (De Wit, 1993; Linda Yueh, 2009) mà còn phụ
thuộc vào cơ chế chính sách tạo việc làm mà nhà nước đem đến cho người lao động
(Kang C. & Dannet L., 2003), vào chất lượng từ hoạt động hướng nghiệp, đào tạo mà
họ là đối tượng thụ hưởng (Grange, 2005) cũng như từ nhu cầu sử dụng các sản phẩm



9
hàng hoá dịch vụ mà họ cung ứng trên thị trường (De Wit, 1993). Các chính sách tự
tạo việc làm cho người lao động sẽ không thành công nếu không giải quyết cùng lúc 4
nội dung này. Điều này được thể hiện tương đối rõ nét khi tiến hành tổng quan các
công trình nghiên cứu sau:
DIFD (2001) tiếp cận góc độ các nguồn lực tạo ra sinh kế cũng chính là các
nguồn vốn để thực hiện quá trình tự tạo việc làm trong khung sinh kế bền vững. Theo
nghiên cứu này, xét một cách tương đối thì quá trình tự tạo việc làm cũng là quá trình
xây dựng sinh kế. Các hộ gia đình, cá nhân đều có phương thức kiếm sống (chiến lược
sinh kế) dựa vào những nguồn lực sinh kế sẵn có (5 loại nguồn lực) trong một bối cảnh
chính sách và thể chế nhất định ở địa phương. Những nhân tố này cũng chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên ngoài và các tác động mang tính thời vụ. Sự lựa chọn về
chiến lược sinh kế của các hộ gia đình dựa trên những nguồn lực sinh kế hiện tại là kết
quả của sự tương tác giữa các nhóm yếu tố này. Khung sinh kế đưa đến một cách toàn
diện tất cả các yếu tố khác nhau ảnh hưởng như thế nào đến sinh kế của con người, đặc
biệt là các cơ hội hình thành nên chiến lược sinh kế của con người. Các chính sách về
sinh kế do đó quan tâm đến nhiều khía cạnh nhằm đảm bảo việc làm, thu nhập cho
những đối tượng thụ hưởng của chính sách.
Để trợ giúp cho những lao động yếu thế đến từ nhiều nền văn hoá và ngôn ngữ
khác nhau với trình độ giáo dục thấp và ít kinh nghiệm về việc làm, một số đối tượng
gặp khó khăn về vấn đề sức khoẻ và các mối quan hệ xã hội, và để giải quyết việc làm
cho nhóm đối tượng yếu thế này, chính phủ Australia đã ban hành nhiều chính sách,
theo đó Nghiệp đoàn St Laurence (BSL) được phối hợp cùng doanh nghiệp và các tổ
chức phi chính phủ, phi lợi nhuận tổ chức các chương trình huấn luyện, đào tạo kỹ
năng và chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp nhằm giúp họ nâng cao khả năng đáp ứng
yêu cầu tuyển dụng và tìm được những việc làm với mức lương thỏa đáng (Australian
Bureau of Statistics, 2006). Nhằm giúp các đối tượng lao động yếu thế nhanh chóng
tìm được việc làm, ổn định cuộc sống BSL thường hướng việc đào tạo nghề nghiệp

cho những người lao động yếu thế vào các công việc như chăm sóc người già và trẻ
em, làm vườn, trông nom và quét dọn nhà cửa... Mục đích của các khóa đào tạo này
nhằm giúp những lao động yếu thế nhanh chóng vượt qua những khó khăn, rào cản
trước mắt để không bỏ lỡ những cơ hội việc làm; đồng thời cũng khuyến khích tính
chủ động của cộng đồng và tạo ra những cách thức để giải quyết việc làm cho những
người gặp rủi ro hay đang phải gánh chịu cảnh thất nghiệp dài hạn.
Thực hiện chủ trương, chính sách giải quyết việc làm của Chính phủ Australia
đối với các đối tượng yếu thế, BLS đã hỗ trợ những đối tượng này tham dự vào các


10
chương trình đào tạo trợ giúp việc làm khác nhau. Các học viên của BLS được
trang bị lý thuyết đối với các lĩnh vực như chăm sóc người già, trẻ em, vận chuyển,
nghề làm vườn, bán lẻ và lau kính.... Còn đối với những học viên gặp phải những
khó khăn khi tiếp cận tới thị trường lao động bởi tình trạng sức khỏe, hoặc thiếu
chuyên môn nghề nghiệp, thậm chí do những bất ổn về nhà ở và các mối quan hệ xã
hội ... BSL đã sử dụng hệ thống hỗ trợ chuyên sâu JPET (Nơi làm việc, nghề
nghiệp và đào tạo) và PSP (Chương trình hỗ trợ trực tiếp với các cá nhân) cũng như
phối hợp với các trường Đại họcủadelaide và Sydney, RMIT và LHMU tiến hành
các nghiên cứu về thị trường lao động và nhu cầu của người lao động, người tuyển
dụng lao động trên thị trường.
Trên nguyên lý về tự tạo việc làm, các nghiên cứu về chính sách khuyến khích
người lao động vùng dân tộc thiểu số tự tạo việc làm trong quá trình phát triển cũng
hướng đến các khía cạnh về (i) bản thân người lao động vùng dân tộc thiểu số, về giới
tính của người lao động vùng dân tộc thiểu số, nhu cầu làm việc và hoàn cảnh kinh tế xã hội gia đình của họ; (ii) vào cơ chế chính sách tạo việc làm mà nhà nước đem đến
cho người lao động vùng dân tộc thiểu số; (iii) chất lượng từ hoạt động hướng nghiệp,
đào tạo mà họ là đối tượng thụ hưởng; (iv) cũng như từ nhu cầu sử dụng các sản phẩm
hàng hoá dịch vụ mà người lao động vùng dân tộc thiểu số cung ứng trên thị trường.
Sự thành công cũng như hạn chế từ kết quả thực thi chính sách liên quan đến tự tạo
việc làm cho người lao động vùng dân tộc thiểu số được khái quát như sau:

Robert Charles G. Capistrano (2010) đã nghiên cứu kinh nghiệm về chính sách
và sự tham gia quản lý nghề cá của người dân tộc bản địa tại Canađa, Philippin và chỉ
ra rằng những biện pháp, chính sách nhằm hỗ trợ triển khai phát triển nghề cá ở hai
quốc gia này giúp cải thiện và thay đổi tích cực tình hình của người dân bản địa thông
qua việc đảm bảo sinh kế bền vững, quyền tiếp cận và quản lý tài nguyên thiên nhiên ở
khu vực họ sinh sống. Thông qua phân tích, đánh giá tác động các chính sách của
chính quyền địa phương và quốc gia về việc tham gia quản lý của cư dân bản địa,
nghiên cứu nhấn mạnh sự thành công của thực thi chính sách phát triển nghề cá với
người dân tộc bản địa tại Canađa và Philippin bắt nguồn không chỉ từ các hoạt động
hướng dẫn kỹ thuật về nuôi trồng phát triển nghề cá, mà còn cả những hộ trợ về tài
chính đối với các hộ gia đình tham gia ngành nghề này mà chính quyền địa phương
thực hiện.
Budhathoki (2014) khẳng định gắn việc bảo tồn hệ sinh thái với phát triển bền
vững và xóa đói giảm nghèo là cần thiết ở khu vực vùng cao Nepal. Để đảm bảo việc
bảo tồn hệ sinh thái đồi núi và các nguồn sinh học mang tính chất bền vững, Nepal đã


11
và đang thiết lập mạng lưới các hạng mục được bảo tồn theo Liên minh Bảo tồn Thiên
nhiên Quốc tế (IUCN), 50% diện tích được bảo tồn của Nepal nằm ở dãy Himalaya.
Mạng lưới khu vực được bảo tồn gồm Vườn Quốc gia Núi Everest và hệ sinh thái
đông Himalaya – một trong những điểm nóng về đa dạng sinh học toàn cầu. Vô số mô
hình quản trị bảo tồn đã được thông qua nhằm bảo đảm sự tham gia của người dân.
Chính phủ Nepal để thực hiện mục tiêu của mình đã tổ chức các chương trình phát
triển nghề, tự tạo việc làm cho người dân sống ở khu vực hệ sinh thái. Cơ chế chia
sẻ lợi ích bảo tồn tương đối tinh vi đã được giới thiệu tới người dân trong vùng.
Nghiên cứu đã thảo luận và phân tích các phương thức tiếp cận khác nhau được
thực hiện tại các khu vực được bảo tồn ở Himalaya, chỉ ra những thiếu sót và thế
mạnh của chúng trong việc đạt các mục tiêu phát triển bền vững và xóa đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động đào tạo nghề cho người dân gắn

với bảo vệ hệ sinh thái ở khu vực này còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân xuất phát cả
từ phía người dân với nhận thức thấp, nhu cầu làm những công việc vừa bảo vệ môi
trường vừa đem lại thu nhập bền vững cho hộ gia đình chưa cao… lẫn từ phía các
chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với điều kiện của người dân trong vùng
hay bản thân những hướng dẫn, chương trình đào tạo còn làm cho người dân thấy
mơ hồ trong quá trình thực hiện… đã chưa ảnh hưởng tích cực đến sự tham gia của
người dân vùng cao Nepal thời gian qua.
Thông qua chính sách phát triển du lịch cộng đồng nông nghiệp, nhiều người dân
vùng cao đã tự tạo việc làm phù hợp (Forsyth, 1994). "Đồi bộ lạc" ngôi làng ở miền
bắc Thái Lan nơi có điều kiện ưu đãi về thiên nhiên, là điểm đến yêu thích của nhiều
du khách bản địa và quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu tham quan du lịch, chính quyền địa
phương đẩy mạnh quảng bá phát triển du lịch cộng đồng nông nghiệp, thu hút sự thăm
quan của du khách. Để phát triển du lịch khu vực nông thôn, chính quyền địa phương
đã chủ động khuyến khích và có những chính sách hỗ trợ các hộ gia đình trong khu
vực phát triển những ngành nghề phụ trợ phục vụ trực tiếp, gián tiếp loại hình du lịch
này. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nhiều hộ gia đình đã tận dụng hoạt động phát triển
du lịch để phát triển các loại hình hoạt động có liên quan đến nông nghiệp nhằm tối đa
hóa việc sử dụng đất.
Chính sách hỗ trợ tạo việc làm đối với lao động làm thuê, làm công
Nếu như kết quả thực hiện chính sách khuyến khích người lao động tự tạo việc
làm phụ thuộc vào 4 yếu tố: (i) bản thân người lao động, về giới tính của người lao
động, nhu cầu làm việc và hoàn cảnh kinh tế - xã hội gia đình của họ; (ii) cơ chế chính
sách tạo việc làm mà nhà nước đem đến cho người lao động; (iii) chất lượng từ hoạt


12
động hướng nghiệp, đào tạo mà họ là đối tượng thụ hưởng; (iv) nhu cầu sử dụng các
sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà họ cung ứng trên thị trường, thì kết quả thực hiện chính
sách tạo việc làm cho lao động làm công, làm thuê về cơ bản có nhiều điểm tương
đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt. Việc làm cho người lao động làm công,

làm thuê về bản chất là dựa trên quy luật cung cầu của thị trường lao động (Mankiw,
2003). Tuy nhiên quy luật cung cầu lại biến động tuỳ thuộc vào mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn phát triển. Mặc dù nhu cầu, năng lực và hoàn cảnh gia đình là yếu tố đầu tiên ảnh
hưởng đến tình trạng việc làm của lao động làm công, làm thuê. Tuy nhiên, nhu cầu
tuyển dụng, sử dụng lao động lại là yếu tố quyết định đến việc người lao động có việc
làm hay không. Việc đưa ra quyết định tuyển dụng lao động một phần phụ thuộc vào
năng lực tham gia thị trường của đơn vị sử dụng lao động, nhưng mặt khác lại phụ
thuộc nhu cầu của chủ sử dụng đối với trình độ chuyên môn và tay nghề của người
được tuyển dụng. Chất lượng đào tạo nghề và hoạt động giới thiệu việc làm do đó ảnh
hưởng đến tình trạng của người lao động. Chủ thể có ảnh hưởng quyết định và có trách
nhiệm giải quyết việc làm cho người lao động trong không gian lãnh thổ là nhà nước.
Các chính sách, cách thức triển khai, can thiệp của nhà nước là một phần không thể
thiếu trong giải quyết tình trạng mất cân bằng giữa cung và cầu trên thị trường lao
động. Những nghiên cứu của các học giả quốc tế một lần nữa khẳng định vấn đề này.
Fred C. & Andy F. (2000) đã chỉ rõ quá trình phát triển kinh tế khu vực nông
thôn đang tạo ra thời kỳ thất nghiệp, thiếu việc làm đối với thế hệ trẻ do nhiều nguyên
nhân mang tính khách quan và chủ quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong
khu vực này. Việc ứng dụng khoa học công nghệ làm giảm thời gian lao động và số
lượng lao động nhưng lại tăng năng suất lao động dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ở
khu vực nông thôn là điều tất yếu; thêm vào đó những lao động nông thôn với trình độ
chuyên môn và các kỹ năng nghề nghiệp thấp thì khả năng chủ động tạo việc làm, tái
hoà nhập thị trường lao động sau khi mất việc bởi khủng hoảng và suy thoái kinh tế
không cao, làm thời gian thất nghiệp kéo dài. Nghiên cứu nhấn mạnh định hướng
chính sách chuyển đổi nghề đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động nhằm giải quyết
tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đối với lao động trẻ nông thôn là vấn đề cần sự
quan tâm, hỗ trợ của cả chính quyền trung ương, địa phương. Tuy nhiên để định hướng
này phát huy hiệu quả thì cần có sự nỗ lực từ phía người lao động để nhanh chóng tái
hoà nhập với thị trường lao động.
Martin M. & Ronald W.M. (2003) cũng đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng thất nghiệp ngắn và dài hạn ở thị trường lao động nông thôn. Theo đó, tình

trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động nông thôn bắt nguồn từ nhu cầu về lao


13
động trong khu vực nông nghiệp, về quan điểm phát triển kinh tế nông thôn của từng
khu vực, cũng như năng lực của người lao động khi tham gia vào thị trường lao động
ngoài khu vực nông nghiệp. Nghiên cứu này cũng đề cập đến các hoạt động mà chính
quyền địa phương thực hiện nhằm hỗ trợ người lao động nông thôn nâng cao trình độ
lao động, nâng cao kỹ năng nghề và thực hiện tư vấn giới thiệu việc làm nhằm khuyến
khích lao động nông nghiệp, nông thôn chủ động tìm kiếm cơ hội tham gia thị trường
lao động. Bên cạnh trao đổi khuyến nghị chính sách đối với chính quyền địa phương,
nghiên cứu này còn đưa ra những khuyến nghị đối với đơn vị sử dụng lao động, các cơ
sở đào tạo nghề… nhằm phối kết hợp nhiều bên liên quan để giải quyết vấn đề việc
làm đối với lao động nông thôn nói chung và nông dân nói riêng.
Kang C. & Dannet L. (2003) chỉ ra những chính sách của chính quyền trung
ương và việc triển khai chính sách của chính quyền địa phương có ảnh hưởng rất lớn
đến nâng cao năng suất lao động, cơ hội việc làm từ đó nâng cao thu nhập cho lao
động làm việc ở khu vực nông thôn. Nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết
của việc phát triển những ngành kinh tế phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn
nhằm tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nói cách khác, việc phát
triển chuỗi giá trị liên quan đến sản xuất nông nghiệp là điều kiện tiên quyết để phát
triển kinh tế nông thôn. Hoạt động của chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp không
chỉ hỗ trợ việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản mà còn tạo ra những cơ hội việc
làm cho những lao động đang làm theo mùa vụ trong nông nghiệp, những lao động
chuyển đổi nghề … nhưng vẫn duy trì được lực lượng lao động trong khu vực nông
thôn, không để xảy ra tình trạng thiếu vắng lao động chủ lực ở khu vực này do phải di
cư tìm việc làm nơi đô thị.
Bollman R.D. và Bryden J.M (1997) dựa trên nghiên cứu kinh nghiệm từ một số
quốc gia như Hoa Kỳ, Canađa, Na Uy và Phần Lan chỉ ra rằng, trong quá trình hội
nhập và phát triển kinh tế, nhiều lao động nông thôn chuyển đổi nghề với mong muốn

tìm được việc làm với thu nhập tốt hơn và điều kiện làm việc phù hợp hơn. Tuy nhiên
thói quen về môi trường sống, phong tục và điều kiện ăn ở cũng như sinh hoạt làm một
bộ phận người lao động không có ý định rời khỏi khu vực nông thôn hay ngừng tham
gia các hoạt động nông nghiệp. Thêm vào đó, việc đảm bảo an ninh lương thực cũng
có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, việc thực hiện mục tiêu này
cần phải có một lực lượng lao động nhất định. Chính vì vậy các chính sách về việc làm
đối với lao động nông nghiệp, nông thôn trong quá trình toàn cầu hoá hội nhập kinh tế
quốc tế đang nhận được quan tâm thoả đáng từ chính phủ các quốc gia.
Holzhall (1990) đã đưa ra những trao đổi xung quanh chiến lược phát triển nông


14
thôn ở Mexico trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển kinh tế.
Nghiên cứu này dựa trên các dữ liệu sơ cấp để kiểm tra, đánh giá cơ hội việc làm, thu
nhập ở những khu vực nông thôn. Dữ liệu thống kê cho thấy, xu thế tất yếu của việc di
cư tìm việc làm ngoài lĩnh vực nông nghiệp, ngoài khu vực nông thôn. Tuy nhiên ở
các vùng miền khác nhau, sự phát triển của các ngành kinh tế cũng có sự khác biệt bởi
yếu tố tự nhiên cũng như điều kiện nguồn nhân lực. Tác giả do đó đưa đưa ra những
trao đổi liên quan đến định hướng việc làm dựa trên tiềm năng phát triển của từng khu
vực. Chính sách việc làm theo quan điểm của tác giả gắn với chiến lược phát triển kinh
tế của từng khu vực mà chiến lược kinh tế lại đi cùng với lợi thế so sánh về địa chính
trị của mỗi địa phương.
Thomas R. (2001) đã khẳng định việc làm và thu nhập phi nông nghiệp ở nông
thôn đóng vai trò rất quan trọng đối với hộ gia đình nông thôn ở châu Mỹ Latinh.
Nghiên cứu khẳng định sự cần thiết phải phát triển hơn nữa những hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp, từng bước thay đổi phương thức sản xuất truyền thống với mô hình
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Các chương trình việc làm công hướng đến đối tượng
người nghèo tham gia cũng rất quan trọng. Nó không chỉ tạo điều kiện gia tăng thu
nhập cho nhóm đối tượng này mà còn góp phần nâng cao kỹ năng làm việc, từ đó gia
tăng năng suất lao động cho nhóm đối tượng yếu thế này - Những hoạt động đóng vai

trò quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo trong khu vực nông thôn.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nƣớc về chính sách hỗ trợ việc làm đối với
lao động nông thôn
1.2.1. Lao động nông thôn và việc làm đối với lao động nông thôn
Mai Ngọc Anh (2013), Đỗ Minh Tuấn (2018) xác định lao động nông thôn bào
gồm lao động làm việc cho khu vực chính thức và khu vực phi chính thức, được phân
bổ cho các ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Sự phân bổ này chỉ
mang tính chất tương đối và thường xuyên chuyển dịch theo sự biến động của nền
kinh tế. Trong quá trình đô thị hóa một bộ phận lao động chuyển dịch sang các ngành
kinh tế quốc dân khác và khi kinh tế suy giảm dòng chảy lại đổi chiều.
Lê Xuân Bá (2008), Phát triển việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn - thành thị, tác giả đã phân tích phát triển việc làm gắn với việc
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn - thành thị ở cấp độ địa phương. Nghiên cứu
đưa ra những kết luận: Tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng việc làm không phải lúc
nào cũng cùng chung một tốc độ; thách thức về việc làm nói chung và chuyển đổi cơ
cấu lao động nông thôn - thành thị nói riêng thường có thể thấy rõ hơn ở cấp tỉnh, nơi


15
gặp nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội địa phương. Từ đó, tác giả đã đưa ra các khuyến nghị chính sách: Thúc đẩy các
hoạt động phi nông nghiệp; phát triển hạ tầng; phát triển doanh nghiệp trên cơ sở phát
triển sản xuất và tự tạo việc làm...
Ngoài ra còn có các nghiên cứu của: Bộ Nông nghiệp và PTNT (2001), Trường
Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2012), Đặng Kim Sơn (2008),... Các nghiên cứu này đã
cho thấy xu hướng phát triển của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ;
chỉ ra các nguồn lực cho sự phát triển, những cơ hội và thách thức trong quá trình phát
triển của khu vực nông thôn Việt Nam; những kinh nghiệm phát triển NN-NT trong
quá trình CNH, HĐH của một số địa phương; đồng thời đưa ra các giải pháp chính
sách nhằm thúc đẩy phát triển khu vực nông thôn Việt Nam.

1.2.2. Chính sách hỗ trợ việc làm đối với lao động nông thôn
Chính sách hỗ trợ lao động nông thôn tự tạo việc làm
Lê Xuân Bá (2006) khẳng định việc làm của người lao động chia thành 2 hình
thức “việc làm công ăn lương” và “việc làm tự tạo”. Để giải quyết việc làm cho người
lao động, nhà nước cần hiểu đặc điểm nhu cầu của những nhóm đối tượng lao động
khác nhau để đưa ra những chính sách hỗ trợ việc làm cho phù hợp trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động việc làm ở nông thôn nước ta. Ngô Quỳnhóan (2012)
nhận định tự tạo việc làm của người lao động là quá trình họ tự tạo ra, chịu trách
nhiệm tổ chức và thực hiện các hoạt động lao động đem lại nguồn thu nhập hợp
pháp, mà với những hoạt động này người lao động tự đầu tư chi phí và hưởng toàn
bộ lợi nhuận thu được ứng với chi phí họ đầu tư. Đối với người dân vùng ven biển,
trong quá trình phát triển kinh tế, dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Trần Thọ Đạt
(2012) đã chỉ ra các khó khăn trong đảm bảo việc làm của người dân vùng ven biển
trước những rủi ro của tự nhiên từ biến đổi khí hậu. Từ đó tác giả đưa ra các giải
pháp về hỗ trợ sinh kế để thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong những
năm tiếp theo. Trong công bố này, tác giả chú trọng đến nhóm các giải pháp chính
sách mà chính quyền trung ương, địa phương cần thực thiện nhằm hỗ trợ (i) cải thiện
nguồn lực sinh kế như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính và
nguồn lực con người, (ii) tạo dựng môi trường thuận lợi về thể chế, chính sách để tạo
điều kiện phát triển.
Hồ Thị Diệu Ánh (2014) đã nghiên cứu quá trình tự tạo việc làm đối với lao động
nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng giảm tỷ trọng lao động
nông nghiệp, gia tăng số lượng và tỷ trọng lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.


16
Luận án đã xây dựng mô hình các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tự tạo việc
làm của lao động nông thôn cũng như xem xét các yếu tố cá nhân người lao động, các
yếu tố chính sách của địa phương… có ảnh hưởng như thế nào đến khả năng tự tạo
việc làm của lao động nông thôn trong quá trình dịch chuyển kinh tế xã hội trên địa

bàn. Luận án khẳng định đẩy mạnh đổi mới cơ chế chính sách, đa dạng hóa các dịch
vụ tài chính, nâng cao khả năng chia sẻ thông tin từ các tổ chức đoàn thể địa phương
sẽ tác động mạnh mẽ đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên
địa bàn tỉnh Nghệ An.
Ngân hàng thế giới (2013) cho thấy, điều kiện cần để phát triển sinh kế là tiếp
cận các nguồn vốn sinh kế (gồm vốn con người, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội
và vốn tài nguyên). Tại khu vực Tây Nguyên, người dân tộc thiểu số có những lợi thế
so sánh về nguồn lực đất đai, nguồn lực về vốn tài nguyên. Thêm vào đó, do đặc điểm
văn hoá phụ nữ ở khu vực này có tính cần cù, chịu khó học hỏi và tham gia vào các dự
án, chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế trên địa bàn. Chính vì thế việc triển khai các
dự án hỗ trợ đào tạo phát triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển các ngành nghề truyền
thống... gắn với điều kiện kinh tế xã hội cho phụ nữ dân tộc thiểu số đã góp phần giúp
cho các hộ gia đình dân tộc thiểu số mà nữ giới làm chủ hộ ở các tỉnh Đắk Nông, Đắk
Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Ngãi & Quảng Nam trên địa bàn Tây Nguyên có
những chuyển biến tích cực về kinh tế. Triệu Văn Hùng (2013) trong nghiên cứu của
mình cũng nhấn mạnh kết quả thực hiện chính sách tự tạo việc làm thông qua các hỗ
trợ về nguồn lực xã hội, nguồn lực tài chính… để cải thiện sinh kế đối với đồng bào
vùng cao và dân tộc ít người tất yếu phải dựa trên nguyên tắc phát huy tiềm năng tại
chỗ về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội gắn với đặc điểm người lao động trong vùng.
Chính sách hỗ trợ đối với lao động làm việc dưới hình thức làm thuê, làm công
Mai Ngọc Anh (2013) nhận định chuyển đổi nghề, thay đổi loại hình công việc là
xu hướng tất yếu đối với nhiều nông dân trong giai đoạn tới bởi những đòi hỏi từ phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, khu vực nông thôn nói riêng. Trong điều
kiện hiện nay, khi trình độ của lao động nông dân nhìn chung còn thấp, lao động nông
dân có khả năng chuyển đổi nghề, đặc biệt là số nông dân sau khi không còn đất để
tiếp tục làm nông nghiệp có khả năng được tuyển dụng vào làm việc tại các nhà máy,
khu công nghiệp không cao, bởi đối tượng này khi tham gia tuyển dụng thường chưa
đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật của các đơn vị tuyển dụng lao động đề ra. Điều
này tất yếu dẫn đến tình trạng trong giai đoạn tới, thất nghiệp và thiếu việc làm đối với
lao động không tiếp tục làm nông nghiệp ở khu vực nông thôn có xu hướng gia tăng.

Đối với nhóm lao động tiếp tục làm nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp là điều


17
không đáng lo ngại vì họ là những lao động không có hợp đồng lao động và sử dụng
đất nông nghiệp để tạo ra thu nhập. Đối với lao động nông dân, ngoài thời gian mùa
vụ, những lúc nông nhàn họ thường tìm việc làm thêm để gia tăng thu nhập. Tuy
nhiên, kiếm thêm thu nhập từ việc làm phi nông nghiệp khi nông nhàn càng ngày càng
không dễ với nhóm đối tượng này, bởi họ phải cạnh tranh không chỉ với nhóm lao
động đã chuyển đổi nghề, thoát ly khỏi việc làm nông nghiệp, mà còn cả với nhóm làm
nông nghiệp nhưng đang nhàn rỗi.
Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình, dự
án, chính sách nhằm hỗ trợ chuyển đổi nghề đối với nhóm đối tượng lao động này. Có
nhiều đề tài nghiên cứu, đánh giá nhiều góc độ khác nhau liên quan đến chính sách và
kết quả thực thi chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay như nghiên cứu của Đỗ Hoài Nam (2003), Đặng
Nguyên Anh (2005), Nguyễn Hải Hữu (2006), Lê Du Phong (2007), Nguyễn Hữu
Dũng (2010) Nguyễn Thị Lan Hương (2010), Mai Ngọc Cường (2006, 2011, 2013),
Mai Ngọc Anh (2013) … Những nghiên cứu về chính sách việc làm cho lao động làm
công, làm thuê tập trung vào các khía cạnh để giải quyết việc làm cho nhóm đối tượng
này cụ thể như sau: (i) bản thân người lao động với các đặc điểm về nhu cầu làm việc,
về năng lực bản thân, về hoàn cảnh kinh tế - xã hội gia đình…; (ii) cơ chế chính sách
và tổ chức thực thi, giám sát các hoạt động tạo việc làm mà nhà nước đem đến cho
người lao động; (iii) các hoạt động hướng nghiệp, đào tạo và giới thiệu việc làm cho
người lao động; (iv) cung cầu trên thị trường lao động nông thôn, thành thị; (v) các
vấn đề kinh tế xã hội phát sinh từ giải quyết việc làm cho người lao động trong quá
trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá… Kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học trong nước một lần nữa khẳng định để thành công trong giải
quyết việc làm cho người lao động trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam phải

giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề. Cụ thể như sau:
Phạm Đức Thành và Lê Doãn Khải (2002) đã hệ thống hoá cơ sở khoa học của
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH-HĐH) trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu đã phân tích, đánh
giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sau khi chỉ ra những vướng mắc cũng như những
phát sinh từ quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, nghiên cứu đã đưa ra các quan
điểm, giải pháp chính sách trọng tâm nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng Bắc


18
bộ dựa trên xu thế dự báo phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ ở khu vực này.
Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến (2004) đã làm rõ các vấn đề lý luận về phát
triển lao động kỹ thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Thực trạng phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam đã được các
tác giả phân tích đánh giá trên các tiêu chí về ngành nghề, độ tuổi, giới tính … Các
định hướng và giải pháp chính sách phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam đến năm
2010 được đề xuất từ những khó khăn hiện tại về định hướng, đào tạo nghề cũng như
nhu cầu của thị trường lao động.
Lê Du Phong (2007) đã chỉ ra, quá trình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đã làm tăng số người bị mất việc làm
trong lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu của đề tài, Trung
bình mỗi ha đất bị thu hồi, thì có 13 lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng mất việc
làm; mỗi lao động nông thôn bị thu hồi đất có khoảng 1,5 lao động rơi vào tình trạng
mất việc làm. Nghiên cứu khẳng định, chính quyền địa phương đã triển khai nhiều
biện pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động có đất bị thu hồi như hướng nghiệp,
giới thiệu cơ hội việc làm… Tuy nhiên, việc chuyển đổi nghề đối với người lao động
nông nghiệp, nhất là lớp người cao tuổi là rất khó khăn; các doanh nghiệp ở địa

phương chưa mặn mà trong tuyển dụng lao động trên địa bàn và nhiều người phải di
cư ra thành phố tìm việc làm tại các khu đô thị, khu công nghiệp… Các địa phương có
đất bị thu hồi chưa có những phản ứng chính sách kịp thời để giải quyết việc làm tại
chỗ cũng như hỗ trợ lao động tìm kiếm việc làm mới nơi đô thị khi không còn đất
nông nghiệp cũng là những nội dung được đề cập trong nghiên cứu này.
Nguyễn Văn Thắng (2013) đã chỉ ra việc chuyển đổi nghề của thanh niên vùng
thu hồi đất ở Hà Nội phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức cũng như trình độ của đối tượng
thanh niên; các hoạt động triển khai chính sách trên địa bàn còn nhiều bất cập, ảnh
hưởng của nó đến quá trình chuyển đổi nghề của thanh niên chưa thật sự rõ ràng.
Nghiên cứu này do đó gợi ý những nghiên cứu sâu hơn về các phương thức triển khai
hoạt động để đạt được mục tiêu đề ra của chính sách.
Nguyễn Hải Hữu (2005) đã đánh giá thực trạng nghèo ở Việt Nam trước khi hội
nhập WTO, nghiên cứu chỉ ra thực trạng nghèo và các nguyên nhân chủ quan, khách
quan ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của người Việt Nam thời kỳ này. Kế tiếp tư
tưởng về giảm nghèo và các chính sách giảm nghèo từ những can thiệp chính sách của
chính phủ để người dân chủ động thoát nghèo thông qua tham gia thị trường lao động
trong điều kiện giá tiêu dùng tăng cao (Nguyễn Hải Hữu, 2008). Để thực hiện giảm


19
nghèo thông qua triển khai các chính sách giúp người nghèo chủ động tham gia thị
trường lao động, từ đó nâng cao thu nhập thì việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
làm công tác giảm nghèo là cần thiết (Nguyễn Hải Hữu, 2006)
Nguyễn Thị Lan Hương (2010) đã phân tích thực trạng điều kiện kinh tế xã hội
khi tham gia vào thị trường lao động của các nhóm yếu thế ở Việt Nam, chỉ ra những
rào cản về mặt nguồn lực và các chính sách cần được điều chỉnh bổ sung để hỗ trợ các
nhóm yếu thế chủ động tham gia vào thị trường lao động từ đó nâng cao thu nhập.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế của các quốc gia như Australia, Đức,
Trung Quốc … để đưa ra những khuyến nghị giải pháp chính sách về cung ứng các
dịch vụ hỗ trợ về đào tạo nghề, giới thiệu việc làm… nhằm giúp người lao động yếu

thế có cơ hội việc làm và thu nhập tốt hơn.
Mai Ngọc Cường (2013) đã khái quát tình trạng việc làm, thu nhập và đời sống
của người dân nông thôn dưới ảnh hưởng của quá trình di cư nông thôn thành thị.
Nghiên cứu đã phân tích các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng di cư tìm việc
làm nơi đô thị; nghiên cứu cũng đã chỉ ra những tác động tích cực lẫn tiêu cực của tình
trạng di cư nông thôn - thành thị đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Những
khuyến nghị về chính sách giải quyết việc làm cho lao động di cư, lao động ở lại nông
thôn cũng đã được đề cập tuy nhiên mới chỉ dừng ở mức ý tưởng gợi ý cho hoạch định
chính sách.
Thu nhập được hình thành từ hai nguồn: (i) nội sinh và (ii) ngoại sinh, trong đó
nguồn nội sinh – nguồn do người lao động tạo ra từ sự tham gia vào thị trường lao
động là nhân tố quyết định tới tình trạng nghèo và đảm bảo chất lượng cuộc sống của
người dân (Mai Ngọc Anh, 2013). Để giúp người dân thoát nghèo, nâng cao chất
lượng cuộc sống thì việc Chính phủ hỗ trợ người lao động nói chung, lao động vùng
dân tộc thiểu số nói riêng chủ động tiếp cận tới thị trường lao động để có được việc
làm thu nhập là điều hết sức quan trọng. Thời gian vừa qua để thực hiện mục tiêu giảm
nghèo nói chung, nghèo đối với những huyện khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, Đảng
và Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, dự án, chính sách để giúp người nghèo,
người dân vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số từng bước thoát nghèo thông qua hỗ
trợ về tài chính, hỗ trợ đào tạo tay nghề … nhằm giải quyết việc làm cho nhóm đối
tượng này. ActionAid và Oxfam (2014) khẳng định đến nay, đồng bào dân tộc thiểu số
đã ở một trình độ phát triển cao hơn so với trước do đó nhu cầu của họ đã mở rộng hơn
và hướng đến chất lượng cuộc sống tốt hơn. Nghèo đối với người dân vùng dân tộc
thiểu số không chỉ liên quan đến thu nhập mà còn liên quan đến việc tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản. Hiện nay, khi Chính phủ ban hành Quyết định 59/2015/QĐ-TTg về


20
ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, thì việc rà
soát, đánh giá lại các kết quả thực thi chính sách giải quyết việc làm cho người lao

động vùng dân tộc thiểu số và các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng việc làm của
nhóm đối tượng lao động vùng dân tộc thiểu số để đưa ra những khuyến nghị phù hợp
trong tình hình mới là hợp lý và cần thiết. Những nghiên cứu tiêu biểu về chính sách
giải quyết việc làm công, làm thuê cho người dân tộc thiểu số được khái quát cụ thể
như sau:
Mai Ngọc Cường (2011) khi nghiên cứu về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2011-2015 tầm nhìn 2020 đã phân tích tình hình thực hiện các
chức năng tư vấn, hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho người lao động vùng dân
tộc đã chỉ ra những bất cập của hoạt động này, trên cơ sở đó đã đề xuất, trong những
năm tới, ngoài việc tiến hành bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đội ngũ nhân viên của
các trung tâm hướng nghiệp, các cơ sở này nên đầu tư nâng cấp trang thiết bị, bởi việc
nâng cao kiến thức cũng như điều kiện làm việc ở các cơ sở giới thiệu việc làm sẽ giúp
cho đội ngũ nhân sự của các cơ sở này phân tích được xu thế phát triển của thị trường
lao động, từ đó sẽ đưa ra được những dự báo, khuyến nghị và tư vấn hợp lý với đối
tượng tìm việc làm của người lao động vùng dân tộc thiểu số.
Phan Văn Hùng (2015) đã hệ thống hóa các nghiên cứu về chính sách dân tộc
với việc liệt kê và phân tích 60 công trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Trong phần
hệ thống hóa các nghiên cứu về chính sách dân tộc, đề tài đã chia thành nhóm các
vấn đề đó là: (i) Hệ thống các nghiên cứu về đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số
với các nghiên cứu của nhiều tác giả như Phạm Quang Hoan (2015), Phan Văn
Hùng (2015) …; (ii) Hệ thống các nghiên cứu về chính sách giảm nghèo vùng dân
tộc thiểu số với các công trình tiêu biểu của nhiều tác giả như Bùi Minh Đạo
(2003), Lò Giàng Páo (2009) …
Hà Quế Lâm (2002), Phạm Văn Dương (2003), Hoàng Văn Phấn (2004), Nguyễn
Thị Nhung (2012), Nguyễn Lâm Thành (2014) , Nguyễn Thị Thu Hà và các tác giả
(2015) … đồng quan điểm khi sử dụng những tiêu chí để nhận diện – phản ánh đời
sống của người dân nói chung, người dân tộc thiểu số nói riêng như: thu nhập, chi tiêu,
các điều kiện sống và sinh hoạt cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu (y tế,
giáo dục, điện, nước, thị trường …). Những nghiên cứu này dưới những góc nhìn khác
nhau, sử dụng những dữ liệu sơ cấp, thứ cấp khác nhau… nhưng đã đánh giá tác động

của các yếu tố, chính sách xoá đói giảm nghèo đến biến đổi hoạt động sản xuất và đời
sống của người nghèo. Những nguyên nhân hạn chế trong xây dựng và thực hiện chính
sách xoá đói giảm nghèo ở Tây Bắc được phân tích trên bình diện vĩ mô để đưa ra


21
những đóng góp liên quan đến giải pháp nhằm nâng cao vai trò của xoá đói giảm
nghèo đối với phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi phía Bắc.
Bol Baulch và Vũ Hoàng Đạt (2012) phân tích vai trò của đặc điểm (đặc điểm
nhân khẩu hộ gia đình, trình độ học vấn, sở hữu đất, đặc điểm xã hội …) và hiệu quả
thu nhập của các đặc điểm (do ảnh hưởng của các yếu tố không quan sát được qua điều
tra mức sống, ví dụ như chất lượng đất, chất lượng giáo dục, các rào cản văn hóa, định
kiến và kỳ thị với đồng bào dân tộc thiểu số…) đến sự khác biệt về thu nhập/chi tiêu
giữa nhóm dân tộc đa số và các nhóm dân tộc thiểu số, dựa trên số liệu điều tra mức
sống hộ gia đình (VHLSS 2010) (cập nhật một nghiên cứu tương tự trước đó dựa trên
số liệu VHLSS 2006). Nghiên cứu cho thấy chính thu nhập từ việc làm là yếu tố cơ
bản làm nên sự khác biệt về đời sống của các nhóm dân tộc. Tuy nhiên việc làm của
lao động vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là người dân tộc thiểu số còn chưa tạo ra thu
nhập cao, số lao động có hợp đồng lao động còn ít…
Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương (2012) cho thấy trong giai đoạn
2007- 2012, có 22,1% các hộ đã thoát nghèo nhưng lại có đến 14,3% các hộ gia đình
rơi trở lại tình cảnh nghèo đói. Các hộ gia đình nghèo người Kinh chủ yếu nằm trong
diện nghèo tạm thời, trong khi các hộ gia đình nghèo DTTS chủ yếu là nghèo kinh
niên. Điều này chỉ ra rằng công tác xóa đói giảm nghèo ở các xã này chưa bền vững,
một phần do sự phụ thuộc quá lớn của các hộ gia đình vào thu nhập từ nông nghiệp và
ít có sự chuyển đổi từ các hoạt động nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Kết quả
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chương trình chỉ đạt được một phần các mục tiêu đã đặt
ra. Tỉ lệ nghèo đã giảm từ 57,5% xuống còn 49,2% so với mục tiêu là 30%. Chỉ có
41% các hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức 3,5 triệu VNĐ/
năm, trong khi mục tiêu là 70%. Bên cạnh đó, mức độ hoàn thành mục tiêu là rất khác

biệt giữa các nhóm dân tộc. Trong khi có sự cải thiện rất lớn về thu nhập và giảm
nghèo bền vững ở các dân tộc Tày, Nùng, Dao và H‟Mông thì có rất ít cải thiện ở các
nhóm dân tộc khác, đặc biệt là dân tộc Thái. Điều này có nghĩa là lợi ích từ chương
trình không được phân phối đồng đều giữa các nhóm dân tộc. Do đó cần có thêm các
hỗ trợ cho các xã này từ các chương trình trong tương lai, với thiết kế tốt hơn và có
tính đến điều kiện, nhu cầu và văn hóa cụ thể của từng nhóm dân tộc.
Nguyễn Cao Thịnh và cộng sự (2015) đã đánh giá thực trang 8 mục tiêu thiên
niên kỷ trong dân tộc thiểu số, đồng thời chỉ rõ đến năm 2015, mục tiêu đầu tiên trong
8 mục tiêu chưa thực hiện được bởi cách thức tiếp cận giảm nghèo cho đồng bào dân
tộc thiểu số chưa thực sự phù hợp và còn thiếu sự động bộ giữa các chính sách,
chương trình dự án giảm nghèo. Nghiên cứu cũng chỉ ra 6 giải pháp cụ thể nhằm thực


22
hiện mục tiêu thiên niên kỷ trong giai đoạn tới. Phạm Thái Hưng và các tác giả (2008)
khi đánh giá về Chương trình 135 Giai đoạn II, đã khái quát về đời sống văn hóa xã
hội của người dân thuộc các xã nghèo, về điều kiện cơ sở hạ tầng các xã thuộc chương
trình 135 II, năng lực quản lý các dự án phát triển hạ tầng cơ sở tại các xã này và nhận
định của các hộ gia đình đối với công tác quản lý dự án. Richard Jones, Trần Thị
Hạnh, Nguyễn Anh Phong và Trương Thị Thu Trang (2009) đã phân tích và chỉ ra các
chồng chéo về nội dung dự án của các chương trình nghèo triển khai ở Việt Nam đến
năm 2009. Các chương trình 135II, CTMTQGGN, NQ30a, NSVSMTNT, Giáo dục
cho mọi người, ĐBSCL, Tây Nguyên, Chương trình 134, các chương trình giảm nghèo
khác được thực hiện nhằm: (i) Tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy
nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở và nước sinh hoạt; (ii) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông
qua các chính sách tín dụng ưu đãi, đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, khuyến
nông-lâm-ngư, xuất khẩu lao động; và (iii) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các
xã đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy các hợp phần của các dự án nhìn qua thấy có sự
chồng chéo giữa các dự án. Nghiên cứu này chỉ ra, trên thực tế triển khai ít có sự
chồng chéo giữa các dự án bởi các dự án được thiết kế theo các hướng giảm nghèo

khác nhau và các đối tượng thụ hưởng là khác nhau. Điều này dẫn đến ít có sự điều
phối giữa các dự án và các hợp phần dự án bởi các đơn vị thụ hưởng và cung ứng chỉ
quan tâm đến hợp phần của dự án mà họ có liên quan. Thêm vào đó là tình trạng phân
tán nguồn lực và chưa phát huy được tổng lực giữa các chương trình.
Trịnh Quang Cảnh (2013) chỉ ra rằng, trong quá trình phát triển kinh tế để thu hút
đầu tư từ bên ngoài, khu vực miền núi đã ban hành rất nhiều chính sách nhằm thu hút
các nhà đầu tư. Theo đó các nhà đầu tư được ưu ái khi thực hiện đầu tư mà ít phải quan
tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Chính điều này làm cho môi trường tự nhiên của
khu vực vùng cao cũng dần bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Nghiên
cứu cũng khẳng định mặc dù các doanh nghiệp đầu tư vào các tỉnh vùng cao được
hưởng nhiều ưu đãi, những doanh nghiệp này cũng có những đóng góp nhất định đối
với sự phát triển kinh tế xã hội tại những khu vực họ thực hiện đầu tư. Thêm vào đó
nhìn một cách tổng quát, sự tác động tích cực của những doanh nghiệp này đối với khu
vực đầu tư chưa tương xứng với những ưu đãi mà họ được hưởng, khi mà nhiều tỷ lệ
lao động người dân tộc thiểu số làm việc cho các doanh nghiệp không cao nếu không
muốn nói là rất ít bởi chỉ 3% lao động người dân tộc thiểu số được đào tạo nghề.
Ngân hàng Thế giới (2012) đưa ra một cách nhìn mới về cuộc sống của người
nghèo gồm cả nam, nữ và trẻ em, đồng thời đi sâu tìm hiểu những hạn chế cũng
như cơ hội hiện thời của họ để thoát nghèo. Thứ nhất, báo cáo đề xuất sửa đổi hệ


23
thống theo dõi nghèo của Việt Nam-thông qua sử dụng dữ liệu tốt hơn, sử dụng các
chỉ số tổng về phúc lợi cập nhật và sử dụng chuẩn nghèo mới nhằm đảm bảo những
dữ liệu và chỉ số đó phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội mới hiện nay của Việt
Nam. Thứ hai, báo cáo xem xét lại những thực tế được cho là hiển nhiên về tình
trạng thiếu thốn và nghèo ở Việt Nam và xây dựng một bức tranh nghèo cập nhật
trên cơ sở sử dụng VHLSS năm 2010 và những nghiên cứu thực địa định tính mới.
Thứ ba, báo cáo phân tích những thách thức chính trong công tác giảm nghèo trong
thập kỷ tiếp theo, gồm những hình thái giàu nghèo theo vùng đang thay đổi, tỉ lệ

nghèo cao, tình trạng nghèo dai dẳng của các nhóm DTTS và mức độ bất bình đẳng
ngày càng tăng trong hưởng thành quả phát triển và tiếp cận cơ hội. Báo cáo đưa ra
bức tranh khá toàn cảnh về nghèo đói ở Việt Nam, tuy nhiên vẫn chưa đề cập đến
các yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đói cũng như các giải pháp thoát nghèo, các giải
pháp về thể chế cũng như chính sách.
Chính sách giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc thiểu số của Chính phủ
Việt Nam thời gian qua không chỉ hướng đến giải quyết tình trạng việc làm công, làm
thuê cho những lao động tham gia vào thị trường lao động trong nước, mà còn hướng
đến việc giải quyết việc làm cho nhóm lao động muốn tham gia vào thị trường lao
động ngoài nước. Để hỗ trợ lao động người lao động vùng dân tộc thiểu số đi xuất
khẩu lao động, những chính sách được Chính phủ ban hành không chỉ hướng đến hỗ
trợ người lao động vùng dân tộc thiểu số, huyện nghèo… có nhu cầu đi xuất khẩu lao
động tham gia học nghề, mà còn có hỗ trợ cả những cơ sở đào tạo nghề cho những
nhóm đối tượng thuộc Quyết định 71/2009/QĐ-TTg (Thủ tướng Chính phủ, 2009).
Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ đào tạo người dân vùng dân tộc thiểu số và miền
núi đi xuất khẩu lao động được ban hành tương đối đầy đủ, phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, đáp ứng được nhu cầu của lao động nông thôn, hộ
nghèo (Nguyễn Văn Nhuận, 2013), góp phần thúc đẩy nâng cao thu nhập của hộ gia
đình cũng như phát triển kinh tế địa phương (Hội đồng Dân tộc, 2013). Tuy nhiên
đánh giá của một số địa phương cho thấy, hiệu quả của chính sách này chưa cao đối
với người lao động ở vùng dân tộc thiểu số và vùng núi khi mà văn hoá làm việc ở
nước ngoài không phù hợp với văn hoá của người dân tộc nên tình trạng bỏ về diễn ra
không ít. Chính những đối tượng này góp phần tạo ra những hiệu ứng lan truyền tiêu
cực cho những đối tượng khác khi họ quay về sinh sống và làm việc tại quê nhà… (Uỷ
ban nhân dân huyện Tây Trà, 2014; Bùi Tôn Hiến, 2015; Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện
Biên, 2016...).
Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) cho rằng hiệu quả của chính sách là


24

những lợi ích mà một chính sách mang lại cho toàn hệ thống. Lợi ích mà một chính
sách đem lại cho toàn hệ thống thể hiện trên 2 mặt (i) kết quả dương tính với mục
tiêu và (ii) biến đổi xã hội dương tính. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có nhiều
cách tiếp cận xem xét hiệu quả của chính sách như hiệu quả kinh tế, hiệu quả văn
hóa và hiệu quả xã hội:
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả có thể tính được thành tiền. Quan điểm này tương
đồng với quan điểm mà Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Đoàn Thị Thu Hà (2010) đưa ra hiệu quả là kết quả so với chi phí. Tuy nhiên một số học giả khác lại sử dụng quan
điểm chi phí/lợi ích để phản ánh hiệu quả kinh tế (Bùi Tôn Hiến, 2015).
Hiệu quả xã hội là loại hiệu quả thể hiện trên lối sống, phong tục tập quán, quan
hệ giữa con người trong xã hội. Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) thừa nhận rằng
đánh giá hiệu quả văn hóa chỉ có thể phân tích định tính. Hiệu quả văn hóa xem xét,
phản ánh những hệ lụy về biến đổi xã hội của chính sách. Hiệu quả xã hội là một loại
hiệu quả xem xét tới những hệ lụy của biến đổi xã hội rộng hơn về cấu trúc, trật tự xã
hội, hiệu quả an ninh và quốc phòng...
Trên cơ sở rà soát các chính sách giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, hướng
trọng tâm vào các chính sách hỗ trợ người lao động vùng dân tộc thiểu số chủ động
tham gia vào thị trường lao động để tăng nguồn thu nhập nội sinh, chủ động thoát
nghèo bền vững. Các nghiên cứu của UNDP (2012), Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội (2012), Hội đồng Dân tộc (2013), Ban Quản lý Trung ương các Dự án thủy lợi
(2013), Cục Bảo trợ xã hội (2014)… đánh giá về hiệu quả và tác động của chính sách
dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc thiểu số về nguyên tắc tuân
theo nguyên lý và phương pháp đánh giá hiệu quả và tác động mà các học giả trong và
ngoài nước thực hiện. Tuy nhiên phương thức đánh giá hiệu quả và tác động của chính
sách dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc thiểu số được gộp thành
hai nhóm cụ thể như sau:
(i) Hiệu quả và tác động của nhóm chính sách hỗ trợ nguồn lực phục vụ cho quá
trình sản xuất của lao động vùng dân tộc thiểu số:
- Hệ thống tín dụng ưu đãi với mạng lưới dịch vụ bao phủ 100% xã, phường. Tỷ
lệ đồng bào dân tộc thiểu số được vay vốn (27,5%) cao hơn so với các hộ dân tộc
Kinh/Hoa (20,3%) (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 2012). Đến 28/2/2013 thông

qua ngân hàng Chính sách xã hội, Nhà nước đã cho đồng bào dân tộc thiểu số vay số
tiền là 23.425 tỷ đồng, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện
đời sống, giảm nghèo cho gần 1 triệu hộ (Cục Bảo trợ xã hội, 2014).


×