Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 100 trang )

ĐẶNG VĂN VẠN

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CÔNG TÁC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN VẠN

KHÓA 2 NĂM 2015

HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY
SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN VẠN

HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY
SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH LONG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài Luận văn thạc sĩ “Hỗ trợ
việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện từ thực tiễn tỉnh Vĩnh
Long” tôi đã nhận được giảng dạy và hướng dẫn của các thầy cô, sự hỗ trợ
của các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình. Với sự kính trọng và biết ơn tôi xin
bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô Khoa Công tác xã hội – Học
viện Khoa học xã hội, nhất là PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, hướng dẫn khoa học
luận văn. Đồng thời cảm ơn Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Chi cục
Phòng chống tệ nạn xã hội tỉnh Vĩnh Long, Trung tâm Điều trị nghiện ma túy
tỉnh Vĩnh Long và đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp số liệu,
tài liệu và động viên tinh thần để tôi hoàn thành Luận văn này.
Bản thân tôi đã rất cố gắng, song chắc chắn Luận văn sẽ còn có thiếu
sót hạn chế, kính mong nhận được sự tham gia góp ý kiến của các thầy giáo,
cô giáo, các đồng chí và các bạn bè đồng nghiệp.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong

bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn

Đặng Văn Vạn


MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................................6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ..................................................................................7
.......................................................................................................................................7
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
Chương 1....................................................................................................................12
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƯỜI
NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN..................................................................12
Chương 2....................................................................................................................45
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH
LONG.........................................................................................................................45
2.2.1 Thực trạng người nghiện ma túy sau cai nghiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long 46
Tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ đào tạo nghề của người sau cai nghiện...............46
2.2.2 Việc làm của người nghiện ma túy sau cai nghiệm đã tái hòa nhập cộng đồng............49
3.3.1. Đào tạo nghề, chuyển nghề cho người sau cai nghiện ma túy.....................................78
3.3.2. Trao việc và xếp việc cho người sau cai nghiện ma túy................................................80

3.4. Một số kiến nghị..................................................................................................82
Từ nghiên cứu của mình, học viên đưa ra một số kiến nghị sau đây:.......................82
3.4.1. Đối với chính quyền địa phương và các doanh nghiệp................................................82
3.4.2. Đối với các Đoàn thể, tổ chức chính trị- xã hội............................................................83



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Tên đầy đủ

NNMTSCN

Người nghiện ma túy sau cai nghiện

NSCNMT

Người sau cai nghiện ma túy

THNCĐ

Tái hòa nhập cộng đồng

CTXH

Công tác xã hội

THCS

Trung học cơ sở

PTTH

Phổ thông trung học


PVS

Phỏng vấn sâu


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về tình hình ma túy thế giới năm 2014, có thể đưa ra một bức tranh
tổng thể về những diễn biến chính trên thị trường ma túy với nhiều loại ma
túy khác nhau, từ sản xuất đến buôn bán, các cung đường và phương thức
mới, cũng như việc tiêu thụ và sử dụng ma túy. Báo cáo đưa ra cái nhìn tổng
thể với những tiến triển gần nhất liên quan đến thuốc phiện, cô-ca-in, cần sa
và ma túy tổng hợp (am-phe-ta-min) và tác động của việc sử dụng ma túy đối
với sức khỏe, đồng thời tập trung vào việc kiểm soát tiền chất được sử dụng
trong sản xuất ma túy bất hợp pháp.
Bức tranh toàn cầu về ma túy cho thấy tỷ lệ sử dụng ma túy trên toàn
cầu vẫn tiếp diễn không có nhiều xáo trộn với khoảng 243 triệu người – tương
đương với 5% dân số thế giới ở độ tuổi từ 15 - 64 đã từng sử dụng các chất
ma túy trái phép trong năm qua. Trong khi đó số người lệ thuộc ma túy chiếm
khoảng 27 triệu người, chiếm xấp xỉ 0.6% dân số trưởng thành trên toàn cầu
hay cứ mỗi 200 người thì có một người lệ thuộc vào ma túy. Năm 2012 đã có
khoảng 200.000 trường hợp tử vong có liên quan đến ma túy.
Theo báo cáo của các nước thành viên của UNODC, số người tiêm
chích ma túy hiện là 12,7 triệu người, tương ứng với tỷ lệ 0,27% đối với dân
số trong độ tuổi 15 - 64, số người tiêm ma túy chung sống với HIV là 1,7 triệu
người. Ước tính hơn một nửa số người tiêm chích ma túy sống chung với

viêm gan C. Đây là những con số đáng báo động, trong khi các chất kích thần
mới (NPS), tiền chất bất hợp pháp vẫn được bán khá công khai và đang hình
thành “mạng đen” – chợ ảo trên internet, trở thành một hang ổ an toàn cho
người mua và kẻ bán ma túy bất hợp pháp, thậm chí các đối tượng phạm tội
đã và đang sử dụng các thủ đoạn mới để tránh hoạt động kiểm soát quốc tế.
1


Một loạt chất “tiền – tiền chất” mới chưa được quản lý đã mau chóng xuất
hiện thay thế cho các tiền chất đã bị quản lý để sản xuất ma túy tổng hợp như
(Met-am-phe-ta-min). Điều này tạo ra những thách thức mới cho hệ thống
kiểm soát ma túy quốc tế.
Báo cáo tình hình ma túy thế giới năm 2014 được UNODC nhấn mạnh,
lạm dụng và buôn bán ma túy bất hợp pháp gây hậu quả nguy hiểm. Ma túy
bất hợp pháp đe dọa sức khỏe và phúc lợi của người dân. Các rối loại do sử
dụng ma túy làm xói mòn các mối quan hệ thân thuộc, tàn phá cuộc sống gia
đình, kể cả cuộc sống của con trẻ, tiêu tan cơ hội học hành và việc làm.
Với diễn biến phức tạp của tệ nạn ma tuý ở các nước trong khu vực nói
chung, ở Việt Nam nói riêng, theo số liệu tổng điều tra, rà soát người nghiện
ma túy của Bộ Công an, cuối tháng 9/2014 cả nước có khoảng 204.400 người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, gấp 3,7 lần so với năm 1994 (55.445 người).
Trong giai đoạn 1994 – 2013, trung bình mỗi năm số người nghiện có hồ sơ
quản lý tăng 6,5% tương đương với 6.660 người. Khoảng 90% số quận huyện
và 60% số xã phường của cả nước có người nghiện có hồ sơ quản lý. Cũng
như ở Mỹ và nhiều quốc gia khác, tệ nạn nghiện ma túy ở Việt Nam cũng có
liên quan chặt chẽ tới các tội phạm hình sự: khoảng 13,1 % người nghiện có
hồ sơ quản lý năm 2013 đang được quản lý trong các trại giam, trại tạm giam;
số đang cai nghiện trong các Trung tâm là 22,4%. Công tác cai nghiện và tái
hòa nhập cộng đồng cho người nghiện ma túy vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
bất cập. Khoảng 50% trong số người nghiện ma túy có các vấn đề về sức khỏe

tâm thần và thể chất, 38% đã có tiền án, tiền sự. Mô hình cai nghiện tại Trung
tâm tốn nhiều kinh phí, hiệu quả hạn chế, tỷ lệ tái nghiện cao, từ 70 – 95%,
bên cạnh đó còn chịu nhiều sự chỉ trích của các tổ chức quốc tế về nhân quyền
cũng như về cơ sở khoa học điều trị nghiện trong Trung tâm.

2


Hầu hết các học viên đều phải chấp hành đủ 24 tháng cai nghiện tại
Trung tâm. Tại các Trung tâm cai nghiện bắt buộc, quy trình cai nghiện được
thực hiện theo thông tư 41/2010/TTLT/BLĐTBXH-BYT, ngày 31/12/2010
sau giai đoạn cắt cơn, các học viên được chăm sóc sức khỏe, điều trị các bệnh
cơ hội, tư vấn tâm lý, được tổ chức học nghề, tạo việc làm và nhiều hoạt động
khác; Tuy nhiên, do cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề thiếu thốn; nên hầu hết
các Trung tâm chỉ có thể dạy các nghề đơn giản như: may, mộc, làm lông mi
giả, sửa xe Honda… Do vậy, nhiều học viên khi về với gia đình cũng không
sử dụng được nghề đã học trong Trung tâm, cơ hội tìm việc làm khó khăn; tỷ
lệ tái nghiện sau khi về cộng đồng là rất cao.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phòng chống ma túy như: Chỉ thị số 21- CT/TW của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống
ma túy; Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ở Việt Nam đến năm 2020;
Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về Tăng cường
công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới.
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã đánh dấu thêm một bước tiến
quan trọng trong lộ trình đổi mới quan điểm đối với công tác cai nghiện phục
hồi bằng việc quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc tòa án nhân dân cấp
huyện (trước đây thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện). Những

đổi mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính trong việc cai nghiện ma túy bắt
buộc đã tăng thêm tính minh bạch, quyền được bào chữa của người bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc. Công tác cai
nghiện phục hồi tuy đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng về cơ bản tính
hiệu quả và bền vững chưa cao, tỷ lệ tái nghiện còn cao. Trình độ văn hoá
3


thấp, không có nghề nghiệp, không có việc làm là một trong những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma tuý trong thanh thiếu niên.
Hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục
hồi là một trong những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã
hội, nhằm giúp đối tượng trở về cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao
hiệu quả công tác phòng chống tệ nạn ma tuý. Tuy nhiên, trên thực tế kết quả
giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi
còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này ngoài những khó khăn
khách quan của nền kinh tế thị trường còn do nhận thức, trách nhiệm của
chính quyền, đoàn thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp xã ít
quan tâm. Về phía bản thân đối tượng và gia đình họ còn ỷ lại xã hội, không
nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có cơ chế chính
sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh tế - xã hội
tham gia giải quyết việc làm cho đối tượng.
Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm, có thu nhập
ổn định không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện mà
còn là yêu cầu thiết yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng,
phòng chống tái nghiện có hiệu quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết ở
Tỉnh Vĩnh Long nói riêng, ở cả nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một
cách cơ bản, có hệ thống hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma
tuý để giúp họ thực sự tái hoà nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở
thành người có ích cho xã hội. Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó,

tôi chọn đề tài “Hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện
từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Long ” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

4


Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan tới vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài
sau:
Trong đề tài nghiên cứu “Quản lý dạy nghề và giáo dục phục hồi nhân
cách cho người sau cai nghiện: vấn đề và kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí
Minh” của Trần Nhu và Hồ Bá Thâm (2008). Các tác giả đã đi từ thực tế các
giải pháp quản lý, dạy nghề cho người sau cai nghiện trong chương trình 3
năm tại các trung tâm ở Tp.HCM. Từ đánh giá thực trạng, để phát hiện những
nhân tố khách quan và chủ quan, xác định rõ những khó khăn và thuận lợi
trong hoạt động quản lý dạy nghề cho người nghiện ma túy. Từ đó đưa ra các
giải pháp về hoạt động quản lý và dạy nghề cho học viên là người nghiện ma
túy có tính khả thi theo thời gian quy định (3 năm) ở các đơn vị. Đối tượng
nghiên cứu của đề tài tập trung vào giải quyết việc làm, nhu cầu việc làm cho
người nghiện ma túy của Thành phố do sở Lao động - Thương binh và Xã hội
cùng Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố quản lý. Mặc dù nghiên
cứu trên bình diện xã hội học nhưng nghiên cứu cũng đã cho thấy thách thức
lớn nhất mà người nghiện ma túy đang phải đối mặt là vấn đề việc làm và
thỏa mãn nhu cầu việc làm cho họ. Nghiên cứu cũng đã đưa ra những giải
pháp cụ thể cho các doanh nghiệp khi sử dụng lao động là người nghiện ma
túy [17].
- Đề tài “Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma
túy ở nước ta hiện nay” (năm 2008) của Nguyễn Thị Lợi đã chỉ ra rằng việc
hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma túy ở nước ta là việc

làm cơ bản, cấp bách và lâu dài, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu
quả công tác cai nghiện, phục hồi, góp phần làm giảm tỷ lệ tái nghiện và
phòng chống các Tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, việc làm cho người sau cai
nghiện ma túy là vấn đề lớn, cần phải có những giải pháp đồng bộ có hiệu
5


quả, thiết thực không chỉ là trách nhiệm của ngành Lao động mà là của toàn
xã hội. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hỗ trợ tại trung tâm Lao động xã
hội có các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp nhận người sau cai nghiện
ma túy sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề việc làm cho những người nghiện
ma túy khi tái hòa nhập cộng đồng [13].
- Đề tài “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở
thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Hồng Minh (2010), với đã đề cập khá cụ thể
các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma túy và sau cai nghiện
trên địa bàn TP HCM; các nội dung, phương pháp để hoàn thiện tổ chức tư
vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Về thực tiễn,
luận án đã hệ thống hoá được các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người
nghiện ma túy và sau cai nghiện trên địa bàn TP HCM; đánh giá được thực
trạng về cách tổ chức các hoạt động quản lý, giáo dục thanh niên sau cai
(TNSCN) ở TP HCM và chỉ ra những mặt hạn chế để tìm giải pháp khắc
phục, hoàn thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp (TVHN) cho thanh niên sau cai
nghiện tại cộng đồng. Đã đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động
của Văn phòng tư vấn hướng nghiệp cho TNSCN làm cơ quan đầu mối cho
hoạt động TVHN cho TNSCN ở cộng đồng; đề xuất đổi mới mô hình tổ chức
và phương thức hoạt động của Đội tình nguyện; xây dựng nội dung chương
trình giáo dục chuyển biến nhận thức và hành vi TNSCN ở cộng đồng [15].
- Đề tài “Nhu cầu về việc làm của người sau cai nghiện ma túy”, từ cách
tiếp cận tâm lý học, tác giả Hoàng Thị Hương (2013) đã nhận định rằng, sau
khi được cai nghiện và trở về tái hòa nhập cộng đồng, đa số người nghiện ma

túy đều có nhu cầu việc làm. Tuy nhiên, chất lượng việc làm của người sau
cai nghiện ma túy chưa tốt là do chưa thực sự đáp ứng, phù hợp với nhu cầu,
nguyện vọng của họ. Nếu được giúp đỡ, hỗ trợ đúng nhu cầu về việc làm của
người sau cai nghiện ma túy thì công việc của họ sẽ thuận lợi hơn [10].

6


Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với
những cách tiếp cận khác nhau. Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập
rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma
túy, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề
hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo
được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các
công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa phương, tôi có thể
rút ra một số giải pháp hỗ trợ việc làm cho những người sau cai nghiện ma
tuý tỉnh Vĩnh Long hiện nay. Trong đó sẽ đi sâu vào khía cạnh thực trạng việc
làm của người sau cai nghiện ma túy, vai trò của các tác nhân như gia đình,
cộng đồng và bản thân người sau cai nghiện ma túy tác động đến khả năng tìm
kiếm việc làm và đề xuất những giải pháp theo thực tế nghiên cứu, đưa công
tác xã hội vào trợ giúp cho đối tượng là người sau cai nghiện ma túy
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễ (qua thực tiễn tỉnh Vĩnh
Long) về hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện. Từ đó
đề xuất một số biện pháp công tác xã hội trong việc hỗ trợ việc làm cho người
sau cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về ma tuý, sử
dụng ma tuý, cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ma tuý.

7


- Phân tích lý luận về hỗ trợ việc làm cho đối tượng sau cai nghiện, góp
phần hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của tệ nạn ma tuý đối với kinh tế
- xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma
túy sau cai nghiện.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ việc làm cho
người nghiện ma túy sau cai nghiện ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện từ thực
tiễn tỉnh Vĩnh Long.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu về vấn đề hỗ trợ việc làm cho
những người sau cai nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên phạm
vi tỉnh Vĩnh Long.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng hỗ trợ việc làm cho những người
sau cai nghiện ma tuý từ năm 2011 đến năm 2015; đề xuất giải pháp cho
những năm tiếp theo.
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu số liệu tổng hợp của các cơ quan
quản lý có liên quan về hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý ở
tỉnh Vĩnh Long.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Dựa trên quan điểm của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nhìn nhận, đánh giá hoạt động dịch vụ công tác xã hội đối với công tác hỗ trợ
việc làm cho NSCNMT phải xuất phát từ thực tiễn và đặt hoạt động dịch vụ

8


công tác xã hội đối với NSCNMT trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố
khách quan và chủ quan.
- Thuyết nhu cầu: Tiếp cận theo nhu cầu của NSCNMT là cách tiếp cận
dựa trên việc đáp ứng tốt nhất các dịch vụ công tác xã hội đối với các nhu cầu
của NSCNMT. Đây là những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của
NSCNMT. Vận dụng thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng
tôi tìm hiểu các nhu cầu của NSCNMT tại Trung tâm Điều trị nghiện ma túy
tỉnh Vĩnh Long và xem xét việc bảo đảm các nhu cầu đó như thế nào qua việc
cung cấp dịch vụ công tác xã đối với nhóm đối tượng này tốt hay chưa, vì sao.
- Thuyết vai trò: Đối với cán bộ, NVCTXH cung cấp dịch vụ CTXH cho
NSCNMT, vai trò thể hiện ở việc tổ chức, thực hiện, quản lý, điều phối dịch
vụ công tác xã hội đối với NSCNMT: Sàng lọc, chẩn đoán, đánh giá nhu cầu,
lập kế hoạch, tổ chức thực hiện; tham vấn; trị liệu; tuyên truyền giáo dục nâng
cao nhận thức; vận động, kết nối, giới thiệu nguồn lực dịch vụ trợ giúp; biện
hộ, bảo vệ chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này tôi chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc sử dụng một bảng
hỏi soạn sẵn, người điều tra phát bảng hỏi, hướng dẫn cách trả lời, người được
hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu bảng hỏi. Điều tra viên thu lại và xử lý.

Tác giả sử dụng bảng câu hỏi điều tra đánh giá công tác hỗ trợ việc làm cho
người nghiện ma túy sau cai nghiện tại Vĩnh Long.
Số lượng mẫu: 127 mẫu là đối tượng nghiện ma túy sau cai nghiện.
5.2.2. Phương pháp so sánh

9


Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình phân tích, đánh giá
thực trạng công tác xã hội đối với hỗ trợ việc làm cho NSCNMT trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long. Tác giả so sánh sự thay đổi trong mức sống, nhận thức của
đối tượng NSCNMT trước và sau cai nghiện.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đối tượng được lựa chọn để trả lời phỏng vấn sâu bao gồm: 5 đối tượng
sau cai nghiện ma túy (cả người có việc làm và chưa có việc làm); 5 cán bộ
làm công tác phòng chống tệ nạn xã hội và cán bộ lãnh đạo quản lý tại các
huyện, thị; 5 hộ gia đình của người sau cai nghiện ma túy.
5.2.4. Phương pháp quan sát
Với phương pháp này tác giả đã đến nhà một số gia đình người sau cai
nghiện ma túy tại Trung tâm nhằm quan sát và tìm hiểu rõ hơn về cuộc sống
thường ngày của họ với mục đích tìm hiểu sâu hơn thực trạng hoàn cảnh cử
đối tượng này tại đơn vị nghiên cứu.
5.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích và xử lý dữ liệu có
được qua các kết quả nghiên cứu, các kết quả phỏng vấn và số liệu thu thập
được trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Nghiên cứu sẽ xác định khung lý thuyết đã xây dựng được hệ thống khái
niệm công cụ về hỗ trợ việc làm đối với người cai nghiện ma túy, các nhiệm

vụ của công tác xã hội đối với người nghiện ma túy, các yếu tố tác động đến
công tác xã hội đối với hỗ trợ việc làm cho người nghiện ma túy sau cai
nghiện. Cơ sở lý luận này góp phần bổ sung và hoàn thiện các vấn đề lí luận
về công tác xã hội đối với người nghiện ma túy.
6.2. Về mặt thực tiễn

10


Từ thực tế hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện tại
tỉnh Vĩnh Long, nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ
trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai nghiện nhìn từ góc độ công
tác xã hội.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu góp phần giúp nhân viên công tác xã
hội, thúc đẩy sự thành công tìm kiếm việc làm cho người sau cai trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long trong điều kiện nguồn lực và hoàn cảnh thực tế.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho người làm nghề CTXH, cán bộ quản lý nghiên cứu hoạch định
chính sách và chỉ đạo thực tiễn về tạo việc làm cho người sau cai nghiện
không chỉ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long mà còn phù hợp với điều kiện và tình
hình ở mỗi địa phương, góp phần đẩy mạnh công tác phòng chống ma túy,
làm giảm tỷ lệ tái nghiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, nội dung luận văn có 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ việc làm đối với người nghiện
ma túy sau cai nghiện
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ việc làm đối với người nghiện ma túy sau
cai nghiện từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Long
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ việc làm đối với

người nghiện ma túy sau cai nghiện nhìn từ góc độ công tác xã hội

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY SAU CAI NGHIỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người nghiện ma tuý
1.1.1 . Một số khái niệm liên quan đến ma tuý
- Ma tuý
Thuật ngữ “ma túy” xuất hiện ở Việt Nam ban đầu có ý nghĩa là chỉ
thuốc phiện, về sau còn được hiểu là các cây cần sa, cô ca và các loại thuốc
tân dược gây nghiện khác. Có ý kiến giải thích thuật ngữ “ma tuý” đó là vì
các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái. Nó chữa được một số bệnh
có hiệu quả cao và làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, đồng thời làm
cho con người mê mẩn, ngây ngất và tuý luý. Và như vậy, thuật ngữ “ma tuý”
được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và tuý luý.
Chương trình kiểm soát ma tuý quốc tế của Liên Hợp quốc (UNDCP)
năm 1991 đã xác định: “Ma tuý là những chất độc có tính gây nghiện, có
nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập và cơ thể con người thì có tác
dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc
vào chúng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng”; theo
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Ma tuý là bất kỳ chất gì mà khi đưa vào cơ
thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”.
Hay hiểu ngắn gọn theo cách định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt: “Ma túy là
tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn và dùng
quen thành nghiện”.
Từ các quan niệm nêu trên, có thể nêu khái niệm như sau: ma túy là các
chất có nguồn gốc từ tự nhiên hay tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể nó có

tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó ( Ma túy thiên
12


nhiên: thuốc phiện, cần sa, cây cô ca,...; Ma túy bán tổng hợp: heroin; Ma túy
tổng hợp: methamphetamine(ma túy đá), estasy(thuốc lắc),...)
- Nghiện ma tuý
Khi dùng ma túy lần đầu, người ta thấy có cảm giác lâng lâng, dễ chịu
và thèm muốn dùng lại. Ma túy vào cơ thể vài lần sẽ tác động đến cơ quan
cảm thụ, gây trạng thái quen thuốc, nếu không dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau
đớn, vật vã…, thèm muốn được dùng lại và trở nên nghiện ma tuý. Do đó,
nghiện ma tuý, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là tình trạng một bộ phận
trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma tuý. Còn theo
nghĩa hẹp thì nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các
chất ma tuý, làm cho con người ta không thể quên và từ bỏ được ma tuý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về “nghiện ma tuý”, nhưng
chưa có một khái niệm đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) “Nghiện ma tuý là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính
có hại cho cá nhân và xã hội do dùng lặp lại một chất ma túy tự nhiên hay
tổng hợp” [01, tr.4].
- Cai nghiện ma tuý
Với những hậu quả, tác hại mà ma túy gây ra cho người nghiện và gia
đình, xã hội… thì tất yếu phải có hoạt động cai nghiện ma tuý, đó là biện
pháp giúp người nghiện ma tuý thông qua chữa trị để từ bỏ ma tuý, phục hồi
sức khoẻ tinh thần và tái hoà nhập cộng đồng. Thực chất “cai nghiện ma tuý”
là quá trình giải quyết sự rối loạn ba yếu tố của người nghiện (trạng thái tâm
sinh lý, nhận thức và hành vi).
Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: cai nghiện là một biện pháp tổng hợp
gồm các tác động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức…nhằm điều trị
giúp người nghiện ma túy cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khoẻ và

tái hoà nhập xã hội.
13


- Tái nghiện ma tuý
Quá trình nghiện ma tuý đã tạo cho người nghiện có phản xạ cực nhạy
với ma tuý, cho nên mặc dù đã cắt cơn rồi nhưng trong phạm vi 60 tháng hễ
cứ nhìn thấy ma tuý, ngửi thấy hơi người nghiện, tiếp xúc với người nghiện,
thậm chí nói đến tên loạn ma tuý quen dùng, là cơn thèm khát ma tuý lại bùng
lên dữ dội, khó có thể kiềm hãm được. Vì vậy, khi ra khỏi các trung tâm cai
nghiện, người cai trở lại sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự ảnh hưởng
trực tiếp của môi trường xã hội còn chưa trong sạch ma tuý dẫn đến khả năng
tái sử dụng ma túy là rất cao. Việc tái sử dụng ma tuý chính là tái nghiện ma
tuý và theo PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì:
Tái nghiện được hiểu là một đối tượng nghiện ma tuý đã được gia đình,
chính quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục, chữa trị cai
nghiện để trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội. Thế nhưng vì một lý do
nào đó họ đã không kiềm chế được những ham muốn cá nhân, những suy nghĩ
lệch lạc nên lại tiếp tục sử dụng các loại chất ma tuý, người ta gọi trường hợp
này là tái nghiện [02, tr.201].
“Tái nghiện được xem như một quá trình, một loạt kích thích không tốt
và cuối cùng dẫn đến việc dùng trở lại các chất ma tuý”.
Ranh giới giữa tái sử dụng ma tuý (tái nghiện) và dứt khoát đoạn tuyệt
với ma túy là rất mong manh. Chính vì vậy, công việc phòng, chống tái
nghiện khi người cai hoà nhập cộng đồng là một việc làm tất yếu phải được
thực hiện.
- Tác hại của ma túy
+ Đối với người nghiện:
• Gây tổn hại sức khỏe: Hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, các bệnh
về da, làm suy giảm chức năng thải độc, nghiện ma túy dẫn đến tình trạng

nhiễm độc ma túy mãn tính, suy nhược toàn thân, cơ thể gầy dét do suy kiệt
14


hoặc phù nề do suy dinh dưỡng, rối loạn sinh học, thức đêm ngủ ngày, sức
khỏe giảm sút rõ rệt. Người nghiện ma túy bị suy giảm sức lao động, giảm
hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí óc, sử dụng ma túy quá
liều có thể tử vong.
• Gây tổn hại về tinh thần: Người nghiện thường có hội chứng quên,
hội chứng loạn thần kinh sớm ( ảo giác, hoang tưởng, kích động...) và hội
chứng loạn thần kinh muộn ( Các rối loạn về nhận thức, cảm xúc, về tâm tính,
các biến đổi về nhân cách đăc trung cho người nghiện ma túy). Ở trạng thái
loạn thần kinh sớm, người nghiện ma túy có thể có những hành vi nguy hiểm
cho bản thân và người xung quanh.
• Gây tổn hại về kinh tế: Sử dụng ma túy tiêu tốn nhiều tiền bạc. Khi đã
nghiện, Người nghiện luôn có xu hướng tăng liều lượng sử dụng, chi phí về
tiền của ngày càng lớn, dẫn đến họ bị cạn kiệt về kinh tế.
+ Đối với gia đình người nghiện: Nghiện ma tuý và tái nghiện ma túy
khiến gia đình người nghiện bị điêu đứng về kinh tế: người nghiện lần lượt
đem tiền bạc, của cải trong gia đình đi đổi lấy ma tuý, đẩy đời sống gia đình
đi vào đổ vỡ, mâu thuẫn, xung đột sâu sắc và bần cùng.
+ Đối với nền kinh tế: Ma tuý gây ảnh hưởng đến kinh tế xã hội một
cách nặng nề. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì
đến cuối năm 2014 cả nước có khoảng 204.400 người nghiện có hồ sơ quản
lý, nếu trung bình một ngày người nghiện dùng hai tép heroin (mỗi tép giá
50.000đ) thì một năm tổng số người nghiện đã tiêu tốn khoảng 3.679 tỷ đồng.
Khi số lượng người nghiện trên tái nghiện thì số tiền tiêu phí sẽ lớn hơn rất
nhiều. Ngoài ra, hàng năm ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng
cho công tác cai nghiện phục hồi, phòng chống tái nghiện, trả lượng cho đội
ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tệ nạn ma tuý, chưa kể tiền của gia đình

người nghiện đóng góp. Thêm vào đó, tái nghiện ma tuý làm tổn thất một
15


nguồn nhân lực rất lớn cho phát triển kinh tế vì đại đa số người nghiện, tái
nghiện đều trong độ tuổi lao động và còn rất trẻ. Như vậy, thiệt hại về kinh tế
do tái nghiện ma túy không chỉ dừng lại ở các con số kể trên.
+ Tác hại đối với xã hội
Nghiện ma túy gắn liền với bệnh tật, nghiện ma tuý là thân tàn ma dại,
sức khoẻ bị suy kiệt, người nghiện chỉ có tuổi thọ trung bình là 40 tuổi, trong
khi tuổi thọ bình quân của người bình thường là 75 tuổi. Vì thế sẽ là lãng phí
nguồn nhân lực, sức lực lớn nếu như không tổ chức cai nghiện, hỗ trợ việc
làm giúp người sau cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng phòng ngừa tái nghiện
cho gần hai trăm ngàn người nghiện, trong đó chiếm tới 80% là thanh niên.
Nghiện ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh, trật tự an toàn
xã hội, làm gia tăng và lan rộng các căn bệnh xã hội nguy hiểm như
HIV/AIDS, ảnh hưởng đến văn hoá, đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục,
bản sắc và giá trị văn hoá của dân tộc. Nghiện ma tuý có mối quan hệ liên đới
với rất nhiều loại tệ nạn và tội phạm xã hội khác: khoảng 85% người nghiện
ma túy có tiền án, tiền sự, 40% các vụ trọng án là do người nghiện ma túy gây
ra. Thông qua các vấn đề xã hội cũng như việc giải quyết các vấn đề đó có thể
đánh giá khả năng điều hành đất nước của một chính phủ nào đó và tình hình
chính trị ổn định như thế nào. Không loại trừ nguy cơ các thế lực thù địch,
phản động lợi dụng vấn đề ma tuý để công kích sự nghiệp cách mạng của
nước ta.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người nghiện ma túy sau cai nghiện ma tuý
* Khái niệm: Người sau cai nghiện ma túy là người từng bị lệ thuộc
vào ma túy và đã được áp dụng các hoạt động điều trị, tư vấn, học tập, lao
động và rèn luyện nhằm chấm dứt tình trạng lệ thuộc vào ma túy và đang tái
hòa nhập xã hội, chịu sự quản lý của cộng đồng nơi cư trú hoặc tiếp tục tham

gia hoạt động trong các trung tâm quản lý sau cai nghiện [3, tr.63].
16


Hiện nay, theo Nghị định 94/2009/NĐ-CP, ngày 26 tháng 10 năm 2009
của chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy, khi nói
đến Người nghiện ma túy sau cai nghiện là nói đến học viên cai nghiện trong
các Trung tâm quản lý sau cai nghiện và cả những người nghiện ma túy sau
cai nghiện tại cộng đồng có thể tiếp tục điều trị nghiện bằng hình thức dùng
thuốc điều trị thay thế Methadone [4, Điều 5, khoản 1 điều 17].
Như vậy, Người nghiện ma túy sau cai nghiện là người từng sử dụng và
lệ thuộc vào ma túy, vừa trải qua quá trình cai nghiện phục hồi. Trong quá
trình đó, họ đã được hỗ trợ hàng loạt các liệu pháp về y tế, tâm lý, xã hội...làm
cho chức năng tâm sinh lý được phục hồi. Quá trình cai nghiện phục hồi giúp
họ cắt cơn giải độc và trị liệu nhận thức, hành vi. Đây là giai đoạn quan trọng
để Người nghiện ma túy sau cai nghiện cần loại bỏ sự lệ thuộc vào ma túy.
* Đặc điểm người nghiện ma túy sau cai nghiện
Nhiều người sau cai do hiểu rất rõ trình độ và năng lực nghề nghiệp hạn
chế, kém cỏi của mình, tỏ ra thiếu tự tin trong quá trình tái hoà nhập cộng
đồng mới bắt đầu này. Không ít người sau cai băn khoăn, lo lắng trong quá
trình tái hoà nhập này là sức khoẻ kém, thiếu, thậm chí mất sự tự tin nơi chính
mình - khi bước vào một giai đoạn mới rất quan trọng để có thể khẳng định
kết quả những năm cai nghiện tập trung, được rèn luyện để giờ đây bước đầu
trên con đường trở lại đời thường. Một số khác luôn tự dày vò mình về những
năm tháng không ra gì trong quá khứ nghiện ngập, giờ đây vẫn canh cánh bên
lòng rằng, họ sẽ tiếp tục bị coi thường, bị bàn bè cùng trang lứa, thậm chí
người thân ghét bỏ, khinh thị và xa lánh...tâm trạng đó có thật và có thể chia
sẻ. Không phải ai khác mà chính là những người sau cai khẳng định: năng lực
nghề nghiệp kém, sức khoẻ èo uột, thiếu tự tin, lo lắng sầu não bị mọi người

xa lánh do quá khứ không ra gì…làm tăng rất cao khả năng tái nghiện đối với
17


họ. Trở về với cộng đồng trong bối cảnh ấy nguy cơ tái nghiện là rất cao, khó
tránh khỏi.
Tình trạng rối loạn tâm lý là nghiêm trọng, kể cả rối loạn sinh lý giới
tính, kéo dài trong nhiều năm do bị cách li với bên ngoài. Do đó, nhiều người
vẫn chưa đủ quyết tâm dứt khoát đoạn tuyệt với chất gây nghiện, vì vậy cuộc
vật lộn nội tâm gay gắt dẫn đến rối loạn tâm lý, khó có thể tập trung trí lực và
thể lực vào lao động sản xuất trước mắt và trong một thời gian nhất định.
Tâm lý lười lao động vẫn chiếm ưu thế trong đặc điểm nhân cách
Người nghiện ma túy sau cai nghiện do họ từng tách mình ra khỏi lao động,
trở thành kẻ ăn bám, nhiều người trong số họ mất lòng tin ở chính mình, mất
thăng bằng và dễ rơi vào trầm cảm, không muốn tham gia bất cứ hoạt động
nào [5, tr.79].
Sức khỏe người nghiện ma túy sau cai nghiện bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, dễ mắc các bệnh thông thường do sức đề kháng yếu, trong quá trình sử
dụng ma túy có thể mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp, tiêu hóa, tim
mạch... đăc biệt là nhiễm HIV.
1.1.3. Nhu cầu của người sau cai nghiện ma túy
* Vay vốn
Người sau cai nghiện ma túy rất có nhu cầu về vay vốn để bắt đầu một
công việc kiếm sống khi họ không thể tìm được việc làm phù hợp, không
được các doanh nghiệp chấp nhận sử dụng lao động, hoặc trước khi nghiện
ma túy họ đã có một nghề: cắt tóc, sửa chữa xe đạp xe máy….. Để đáp ưng
được nhu cầu vay vốn của người sau cai nghiện đã có quyết định số 29⁄QĐTTg ngày 26⁄4⁄2014 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình
và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị các chất
dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương. Ngày
09⁄09⁄2014, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Quyết

18


×