Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tình trạng mảng bám ở bệnh nhân mang mắc cài chỉnh nha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.97 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

TÌNH TRẠNG MẢNG BÁM Ở BỆNH NHÂN
MANG MẮC CÀI CHỈNH NHA
Phạm Lệ Quyên*

TÓM TẮT
Mở đầu: Giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt đặc biệt quan trọng ở đối tượng đang mang khí cụ chỉnh hình răng
mặt cố định vì sự tích tụ mảng bám lâu ngày có thể dẫn đến sút mắc cài, mất khoáng mô răng, sâu răng và bệnh
nha chu. Tuy nhiên, tình trạng vệ sinh răng miệng ở đối tượng này ít được nghiên cứu ở Việt Nam.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng mảng bám ở một nhóm bệnh nhân đang điều trị chỉnh nha bằng khí cụ cố
định.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 61 bệnh nhân (12 nam, 49
nữ), tuổi từ 12 đến 46, đang mang mắc cài để điều trị chỉnh nha tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược
Tp.HCM. Tình trạng và tính chất của mảng bám được đánh giá trên lâm sàng bằng mắt thường và sau khi
nhuộm gel GC Tri Plaque ID để phân biệt mảng bám non, trưởng thành và acid. Chỉ số PlI (Silness và Löe biến
đổi theo Williams) cho đối tượng mang mắc cài, được áp dụng do một người đánh giá duy nhất đã được định
chuẩn. Các dữ liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS phiên bản IBM.
Kết quả: Trong nhóm khảo sát, 100% đối tượng có mảng bám non, 96,7% có mảng bám trưởng thành và
77% có mảng bám acid. Số vị trí có mảng bám acid và chỉ số mảng bám acid ở nam cao hơn ở nữ có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) và ở nhóm ≤18 tuổi cao hơn 2 nhóm >18 tuổi (p<0,01). Chỉ số mảng bám trung bình PlI = 0,58±0,15;
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ, và giữa các giai đoạn điều trị (p>0,05) nhưng ở nhóm
≤18 tuổi cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 19-26 tuổi (p<0,05). Số vị trí trung bình có mảng bám là 40,23±11,92; số
vị trí có mảng bám trưởng thành là 15,69±10,52 và mảng bám acid là 7,69±7,69. Tỉ lệ có mảng bám acid cao ở vị
trí phía nướu, phía gần và 6 răng trước trên.
Kết luận: Đánh giá tình trạng mảng bám ở bệnh nhân mang mắc cài chỉnh nha cho thấy cần lưu ý vệ sinh
răng miệng đặc biệt ở nam và đối tượng dưới 18 tuổi, nhất là ở phía nướu và phía gần để hướng dẫn các biện
pháp vệ sinh răng miệng tăng cường phù hợp.
Từ khóa: Mảng bám, mắc cài, điều trị chỉnh chình răng mặt, gel nhuộm màu mảng bám



ABSTRACT
EVALUATION OF DENTAL PLAQUE ON PATIENTS WEARING ORTHODONTIC BRACKETS
Pham Le Quyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 58 - 65
Background: Good oral hygiene is very important in patients treated with fixed orthodontic appliance as
dental plaque in advanced stages may cause debonding of brackets, teeth demineralization, caries and periodontal
disease. However, oral hygiene status in these subjects has not been thoroughly studied in Vietnam.
Objective: Evaluate dental plaque in a sample of patients undergoing orthodontic treatment with fixed
appliance.
Materials and methods: This cross-sectional study was conducted on 61 patients (12 males, 49 females),
aged from 12 to 46 years, wearing orthodontic brackets at the Faculty of Odonto- Stomatology, University of
*Khoa Răng Hàm Mặc, Đại học Y dược Tp.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Lệ Quyên

58

ĐT: 0903716159

Email:

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học

Medicine and Pharmacy at HCM city. Dental plaque was evaluated clinically by one calibrated examiner
according to PlI (Silness and Löe Plaque Index, modified by Williams for patients with brackets). GC Tri Plaque
ID disclosing gel was then applied to classify biofilm as new, mature or containing acidogenic bacteria. Data

analysis was done in SPSS IBM.
Results: 100% subjects had new biofilm, 96.7% had mature and 77% had acidic biofilm. The number of sites
with acidic biofilm was significantly higher in male and ≤18 years-old patients (p<0.05). Average PlI was
0.58±0.15 with no significant difference between the two genders and among different stages of treatment (p>0.05)
while it was significantly higher in ≤18 years-old patients compared to 19-26 years-old group (p<0.05). The
average number of plaque sites was 40.23±11.92, among which 15.69±10.52 sites had mature biofilm and
7.69±7.69 acidic biofilm. Acidic biofilm was most frequently observed at gingival and mesial sites and on the 6
upper front teeth.
Conclusions: The results of this study on dental plaque in subjects undergoing fixed appliance orthodontic
treatment showed that reinforced motivation should be required for male and ≤18 years-old patients. On the other
hand, sites (gingival and mesial) and teeth at higher risk of plaque retaining should be visualized by the patient
and personalized instructions on appropriate oral hygiene method should be given to help improving oral hygiene
status.
Keywords: Dental plaque, biofilm, brackets, orthodontic treatment, disclosing gel
2005(2). Tuy nhiên, hầu hết các chỉ số này đều
ĐẶT VẤN ĐỀ
xuất phát từ các chỉ số thông dụng dùng trong
Bệnh nhân mang mắc cài chỉnh hình răng
điều tra sức khỏe răng miệng cộng đồng, chưa
mặt luôn gặp khó khăn trong vấn đề giữ gìn vệ
có sự đồng thuận về một chỉ số có tính thực tế và
sinh răng miệng do bị đau, thao tác chải răng
phù hợp nhất cho nhóm đối tượng này(1,4).
phức tạp vì vướng mắc cài, dây cung, thun liên
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu
kết, triển dưỡng nướu… Vệ sinh răng miệng
khảo sát tình trạng vệ sinh răng miệng ở bệnh
kém sẽ dẫn đến nhiều vấn đề, đôi khi rất nghiêm
nhân mang mắc cài chỉnh nha, so sánh sự thích
trọng, gây ảnh hưởng xấu đến quá trình và kết

hợp của các chỉ số, đánh giá hiệu quả của các
quả điều trị chỉnh nha, ví dụ như đốm mất
biện pháp và sản phẩm vệ sinh răng miệng bổ
khoáng, ảnh hưởng thẩm mỹ sau khi tháo mắc
trợ (so sánh các loại đầu bàn chải, nước súc
cài, sâu răng và bệnh nha chu (viêm nướu, tiêu
miệng…) trực tiếp trên lâm sàng hoặc thông qua
xương, răng lung lay vừa do lực chỉnh hình dịch
việc cấy vi khuẩn trong mảng bám(2,3,5,6,7). Tuy
chuyển răng, vừa do mô nha chu suy yếu). Hơn
nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào
nữa, pH thấp của mảng bám có thể ảnh hưởng
về tình trạng vệ sinh răng miệng ở nhóm đối
đến keo dán làm dễ sút mắc cài.
tượng này.
Để có những hướng dẫn vệ sinh răng miệng
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
phù hợp cho đối tượng này điều đầu tiên cần
nhằm khảo sát tình trạng vệ sinh răng miệng ở
làm là đánh giá tình trạng mảng bám.
đối tượng mang mắc cài chỉnh nha, thông qua
Hiện nay có rất nhiều chỉ số mảng bám được
việc đánh giá tình trạng mảng bám và tính chất
sử dụng để đánh giá tình trạng vệ sinh răng
mảng bám với các mục tiêu chuyên biệt sau:
miệng ở bệnh nhân điều trị chỉnh hình răng mặt
Xác định tỉ lệ người mang mắc cài có mảng
bằng khí cụ cố định, ví dụ như chỉ số mảng bám
bám, mảng bám non, trưởng thành và acid.
của Silness và Löe biến đổi theo Williams, chỉ số

Đánh giá tình trạng và tính chất mảng bám
của Wigley Hein biến đổi theo Turesky, O’Leary,
qua số vị trí có mảng bám và chỉ số mảng bám
chỉ số Navy biến đổi theo Rustogi, chỉ số Attin
PlI dành cho đối tượng mang mắc cài.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

59


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

So sánh tình trạng và tính chất mảng bám
giữa 2 giới, giữa các nhóm tuổi và giữa các giai
đoạn điều trị chỉnh nha.

Hình 1: Chỉ số PlI (Silness và Löe, biến đổi theo
Williams cho đối tượng mang mắc cài)(3).

Mô tả tình trạng mảng bám acid theo các vị
trí trên từng răng.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện
trên 61 bệnh nhân (12 nam, 49 nữ) đang điều trị
chỉnh hình răng mặt tại Khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh được chọn

ngẫu nhiên.
Tiêu chuẩn chọn vào mẫu: Bệnh nhân đang
mang mắc cài chỉnh nha đồng ý tham gia nghiên
cứu và có sức khỏe tốt.
Tiêu chuẩn loại khỏi mẫu: Bệnh nhân chỉ
mang mắc cài 1 hàm, bệnh nhân có bệnh tâm
thần ảnh hưởng khả năng giao tiếp và vệ sinh
răng miệng, bệnh nhân được cạo vôi trong vòng
3 ngày trước ngày khám.
Tình trạng mảng bám được một người khám
duy nhất đã được định chuẩn đánh giá bằng mắt
thường theo chỉ số PlI (Silness và Löe, biến đổi
theo Williams cho đối tượng mang mắc cài)
(Hình 1):
0: Không có mảng bám.
1: Mảng bám chỉ thấy được sau khi nhuộm
màu hoặc cạo bằng thám trâm.
2: Mảng bám trung bình thấy được bằng mắt
thường.
3: Mảng bám nhiều.

Hình 2: Mảng bám sau khi nhuộm màu với GC Tri
Plaque ID gel.
Sau đó sử dụng GC Tri Plaque ID gel nhuộm
màu mảng bám và ghi nhận tính chất mảng bám
(Hình 2).
Màu hồng/đỏ: Mảng bám non (là mảng bám
mới hình thành <24 giờ).
Màu xanh đậm/tím: Mảng bám trưởng thành
(là mảng bám hình thành >48 giờ).

Màu xanh dương nhạt: Mảng bám acid (có
chứa vi khuẩn sinh acid).
Sau khi ghi nhận tính chất mảng bám, bệnh
nhân được hướng dẫn chải răng ở những vị trí
có mảng bám. Các số liệu được xử lý với phần
mềm SPSS IBM.

KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu bao gồm 61 bệnh nhân
đang được điều trị chỉnh nha, với 12 nam và 49
nữ; tuổi trung bình là 23,16 tuổi được chia thành
3 nhóm tuổi (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Phân bố của mẫu nghiên cứu theo tuổi và
giới tính.

Tỉ lệ người có mảng bám
60

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Trong nhóm khảo sát, 100% đối tượng có
mảng bám non, 96,7% có mảng bám trưởng
thành và 77% có mảng bám acid. Khảo sát

Nghiên cứu Y học

những đối tượng được phát hiện có mảng bàm

trưởng thành và acid cho thấy có sự phân bố
theo giới và nhóm tuổi theo Biểu đồ 2, 3, 4 và 5.

Biểu đồ 2: Tỉ lệ đối tượng có mảng bám trưởng thành
phân bố theo giới.

Biều đồ 3: Tỉ lệ đối tượng có mảng bám trưởng thành
phân bố theo tuổi.

Biểu đồ 4: Tỉ lệ đối tượng có mảng bám acid phân bố
theo giới.

Biều đồ 5: Tỉ lệ đối tượng có mảng bám acid phân bố
theo tuổi.

Tình trạng và tính chất mảng bám

*p>0,05; **p<0,05

Tình trạng mảng bám được đánh giá qua số
vị trí có mảng bám và chỉ số mảng bám. Trong
mẫu khảo sát, trung bình mỗi đối tượng có 40,23
± 11,92 vị trí có mảng bám. Chỉ số mảng bám
trung bình PlI là 0,58 ± 0,15; trong đó có sự phân
biệt theo mảng bám non, trưởng thành và acid
theo Bảng 1 và Bảng 2. So sánh giữa hai giới cho
thấy số vị trí có mảng bám acid và chỉ số mảng
bám acid ở nam cao hơn có ý nghĩa so với ở nữ
(p<0,05).


Bảng 2: Phân bố chỉ số mảng bám theo giới.

Bảng 1: Phân bố số vị trí có mảng bám theo giới.
Nam
Nữ
Chung
TB ðLC TB ðLC TB ðLC p
Số vị trí có MB 42,50 12,24 39,67 11,90 40,23 11,92 *
Số vị trí có MB
non
34,42 13,30 32,80 9,63 33,11 10,34 *
Số vị trí có MB TT 17,42 8,24 15,27 10,92 15,69 10,52 *
Số vị trí có MB
acid
12,25 8,32 6,57 7,18 7,69 7,69 **

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nam
TB ðLC
PlI
0,61 0,17
Chỉ số MB non 0,49 0,18
Chỉ số MB TT 0,25 0,13
Chỉ số MB acid 0,18 0,13

Nữ
TB ðLC
0,58 0,15
0,48 0,12

0,22 0,15
0,10 0,11

Chung
TB ðLC
0,58 0,15
0,48 0,13
0,23 0,15
0,11 0,12

p
*
*
*
**

*p>0,05; **p<0,05

Khảo sát tình trạng mảng bám giữa các
nhóm tuổi cho thấy số vị trí có mảng bám acid
và chỉ số mảng bám acid ở nhóm ≤18 tuổi cao
hơn có ý nghĩa so với 2 nhóm còn lại (p<0,01).
Chỉ số mảng bám trung bình chung PlI chỉ có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm ≤18 tuổi và nhóm
19-26 tuổi (p<0,05).
Bảng 3: Phân bố số vị trí có mảng bám theo tuổi.
<=18 tuổi 19-26 tuổi >=27 tuổi
TB ðLC TB ðLC TB ðLC
Số vị trí có MB 44,59 14,56 37,04 9,43 40,94 11,92


p
*

61


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học

<=18 tuổi 19-26 tuổi >=27 tuổi
TB ðLC TB ðLC TB ðLC
Số vị trí có MB
non
34,65 11,69 31,00 8,71 34,94 11,30
Số vị trí có MB
TT
19,12 11,94 14,04 9,70 14,88 10,10
Số vị trí có MB
acid
13,65 8,40 6,33 6,90 3,88 4,18

p

chỉnh nha khác nhau cho thấy không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 4).

*

Bảng 4: Phân bố chỉ số mảng bám theo tuổi.


*
**

*p>0,05; **p<0,05

Khảo sát tình trạng và tính chất mảng bám ở
những bệnh nhân thuộc các giai đoạn điều trị

<=18 tuổi
TB ðLC
PlI
0,66 0,19
Chỉ số MB non 0,51 0,14
Chỉ số MB TT 0,29 0,18
Chỉ số MB acid 0,20 0,13

19-26 tuổi
TB ðLC
0,55 0,12
0,46 0,12
0,20 0,13
0,09 0,10

>=27 tuổi
TB ðLC
0,56 0,13
0,48 0,13
0,20 0,13
0,05 0,05


p
**
*
*
**

*p>0,05; **p<0,05

Bảng 5: Phân bố số vị trí có mảng bám và chỉ số mảng bám theo giai đoạn điều trị chỉnh nha.

Số vị trí có MB
Số vị trí có MB non
Số vị trí có MB TT
Số vị trí có MB acid
PlI
ðiểm số MB non
ðiểm số MB TT
ðiểm số MB acid

Làm ñều
TB
ðLC
43,25
13,74
33,50
6,35
17,25
13,28
6,25

8,77
0,65
0,24
0,50
0,12
0,26
0,21
0,10
0,14

Di xa răng nanh
TB
ðLC
43,00
11,50
32,55
9,78
19,64
13,18
10,27
9,26
0,63
0,15
0,48
0,12
0,28
0,18
0,15
0,14


Lui răng cửa
TB
ðLC
44,86
7,01
36,14
7,90
21,29
7,39
5,86
5,11
0,64
0,09
0,51
0,09
0,31
0,11
0,08
0,07

Hoàn tất
TB
ðLC
36,21
13,84
29,57
11,71
12,07
9,83
5,21

5,96
0,52
0,15
0,43
0,15
0,17
0,12
0,07
0,08

p
*
*
*
*
*
*
*
*

*p>0,05

Vị trí tích tụ mảng bám acid

Biểu đồ 6: Phân bố mảng bám acid theo vị trí trên từng răng hàm trên.

Biểu đồ 7: Phân bố mảng bám acid theo vị trí trên từng răng hàm dưới.

62


Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Mảng bám acid là loại mảng bám đã tích tụ
lâu và có nguy cơ gây sâu răng cao nhất nên
chúng tôi phân tích những vị trí trên răng có sự
hiện diện của loại mảng bám này. Tính theo tỉ lệ
có mảng bám acid đối với từng mặt răng cho
thấy nhìn chung, mảng bám acid hiện diện
nhiều nhất ở phía nướu và phía gần nhiều hơn
phía xa, ít nhất ở phía nhai, ở các răng trước
nhiều hơn các răng sau, răng hàm trên nhiều
hơn hàm dưới.

BÀN LUẬN
Khảo sát tình trạng và tính chất mảng bám ở
đối tượng mang mắc cài cho thấy tất cả các đối
tượng đều có mảng bám trong đó tỷ lệ có mảng
bám đã tích tụ trên 48 giờ chiếm 96,7%. Ngoài ra,
số vị trí có mảng bám trung bình cho mỗi đối
tượng là 40,23 chiếm 50% tổng số vị trí khảo sát.
Điều này nói lên sự khó khăn trong việc tự chăm
sóc vệ sinh răng miệng ở nhóm đối tượng này.
Mặc dù tỉ lệ nam trong nghiên cứu thấp nhưng
sự khác biệt về số vị trí và chỉ số mảng bám acid
vẫn có ý nghĩa giữa 2 giới, cho thấy nam là nhóm
đối tượng cần được lưu ý hơn về vệ sinh răng
miệng. 2 chỉ số này ở bệnh nhân ≤18 tuổi cũng
cao hơn so với 2 nhóm còn lại cho thấy bệnh

nhân vị thành niên có xu hướng thiếu chú ý đến
vệ sinh răng miệng hoặc chưa giữ vệ sinh răng
miệng được hiệu quả. Do vậy, cần tăng cường
nhắc nhở và hướng dẫn các biện pháp vệ sinh
răng miệng phù hợp cho nhóm đối tượng này.
Trong quá trình đánh giá, chúng tôi nhận
thấy phần lớn mảng bám chỉ ghi nhận được sau
khi bôi thuốc nhuộm màu (mức độ 1), phù hợp
với kết quả chỉ số mảng bám trung bình PlI < 1.
Tình trạng mảng bám cũng không có sự khác
biệt đáng kể giữa các giai đoạn điều trị cho thấy
bệnh nhân có quan tâm đến vệ sinh răng miệng
trong suốt quá trình điều trị. Tuy nhiên, tính chất
phân hóa mạnh của các dữ liệu (độ lệch chuẩn
lớn), phù hợp với nhận định lâm sàng cho thấy
có bệnh nhân giữ gìn vệ sinh răng miệng rất tốt
và có bệnh nhân lại rất chểnh mảng điển hình
như trong mẫu khảo sát có một bệnh nhân (nam)

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

có mức độ 3. Khó đối chiếu kết quả PlI trong
nghiên cứu này với các nghiên cứu khác cũng sử
dụng PlI do độ tuổi chọn mẫu không tương ứng
hoặc PlI ban đầu ở nghiên cứu khác được chọn
lọc ở mức cao nhất định nhằm đánh giá hiệu quả
làm giảm mảng bám của các biện pháp hoặc
công cụ vệ sinh răng miệng. Ngoài ra, do chưa

có chỉ số quy ước để đánh gíá mảng bám ở
người mang mắc cài nên một số các nghiên cứu
dùng những chỉ số mảng bám khác, với cách bố
trí vùng ghi nhận và mức độ khác nhau, hoặc
dùng chỉ thị cấy khúm vi khuẩn thay vì gel phát
hiện mảng bám(2,3,4,5,6,7).
Sử dụng GC Tri Plaque ID gel có ưu điểm là
cho phép khảo sát trực quan tính chất của mảng
bám. Qua nghiên cứu này chúng tôi thấy tại một
vị trí quy định theo chỉ số PlI được sử dụng,
mảng bám có thể có nhiều tính chất khác nhau.
Điều này cho thấy muốn đánh giá tính chất của
mảng bám, sử dụng những chỉ số có sự phân
vùng chi tiết hơn như chỉ số Quigley-Hein biến
đổi, chỉ số Navy biến đổi... có thể thuận lợi hơn.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến tính thực tiễn của
sự phân vùng của chỉ số sử dụng, nhằm đơn
giản hóa trong việc hướng dẫn cho bệnh nhân.
Dù sao sử dụng gel ba màu cho phép phân biệt
loại mảng bám đã tồn tại lâu (>48 giờ) và/ hoặc
có nguy cơ gây mất khoáng để có thể hướng dẫn
biện pháp xử lý cụ thể và thiết lập vệ sinh răng
miệng thích hợp nhất cho từng cá nhân.
Cách phân tích theo vị trí trên từng răng mà
chúng tôi sử dụng cho phép đánh giá một cách
tương đối những vị trí dễ tích tụ mảng bám lâu
dài hơn, cần lưu ý bệnh nhân chải kỹ hơn. Qua
khảo sát thực tế chúng tôi thấy có một số răng
không đánh giá được như răng cối lớn thứ nhất
và thứ hai thường mang khâu, một số răng lệch

lạc nhiều chưa được gắn mắc cài trong các giai
đoạn điều trị sớm hoặc sút mắc cài. Những răng
này đã bị loại ra khỏi việc đánh giá vì có thể gây
sai lệch dữ liệu. So sánh giữa các vị trí cho thấy
vùng tiếp cận nướu là vị trí dễ tích tụ mảng bám
nhất, tiếp theo là phía gần và phía xa, đặc biệt
các răng có chiều cao thân răng lâm sàng thấp,

63


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

nằm cao về phía hành lang, có nướu triển dưỡng
đều khó chải sạch. Trong khi đó, vị trí phía mặt
nhai ở một số răng có chỉ số bằng 0. Những điều
này cho thấy bệnh nhân có xu hướng chải
ngang, không chải kỹ vùng cận nướu, vùng dưới
dây cung hoặc thun chuỗi. Do vậy, cần hướng
dẫn và động viên bệnh nhân tích cực sử dụng
bàn chải kẽ răng, tăm nước và có thể phối hợp
với tác dụng hóa học của nước súc miệng kháng
khuẩn, giảm mảng bám để tăng cường làm sạch
ở những vùng này.

Phát hiện và đánh giá tính chất mảng bám
bằng GC Tri Plaque ID gel có thể giúp hiển thị
mảng bám tồn tại đã lâu ở những vị trí trên từng

răng để hướng dẫn biện pháp vệ sinh tăng
cường thích hợp tại các vị trí đó, cụ thể nhất là ở
vùng cổ răng để tránh tình trạng viêm nướu và
sâu răng có thể xảy ra.

Đây chỉ mới là nghiên cứu thăm dò để có
những dữ liệu ban đầu giúp xây dựng nghiên
cứu kế tiếp với cỡ mẫu lớn hơn, sự phân bố theo
giới và theo giai đoạn điều trị cân đối hơn nhằm
đưa ra kết quả so sánh giữa các nhóm đối tượng
một cách xác đáng hơn.

2.

KẾT LUẬN
Đánh giá mảng bám trên 61 đối tượng
nghiên cứu cho thấy nói chung bệnh nhân có
quan tâm đến vệ sinh răng miệng, thể hiện bằng
chỉ số PlI tương đối thấp, nhưng vẫn chưa đúng
mức và chưa đồng đều. Nhóm đối tượng nam và
≤18 tuổi có tình trạng vệ sinh răng miệng kém
hơn các đối tượng khác. Không thấy có sự khác
biệt về tình trạng mảng bám giữa các giai đoạn
điều trị.

64

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


3.

4.

5.

6.

7.

Acharya S, Goyal A, Utreja AK, Mohanty U (2011). Effect of
three different motivational techniques on oral hygiene and
gingival health of patients undergoing multibracketed
orthodontics. Angle Orthod, 81: 884-888.
Attin R (2005). Introduction of a new plaque index designed
for control and motivation of orthodontic patients. Inf Orthod
Kieferorthop, 37: 271-273.
Clerehugh V, Williams P, Shaw WC, Worthington HV,
Warren P (1998). A practice-based randomized controlled trial
of the efficacy of an electric and a manual toothbrush on
gingival health in patients with fixed orthodontic appliances. J
Dent, 26: 633-639.
Costa MA, Silva VC, Miqui MN, Sakima T, Spolidorio DMP,
Cirelli JA (2007). Efficacy of ultrasonic, electric and manual
toothbrushes in patients with fixed orthodontic appliances.
Angle Orthod, 77: 361-366.
Cugini MA, Thompson M, Warren PR (2006). Correlations
between two plaque indices assessment of toothbrushes
effectiveness. J Contemp Dent Pract, 7(5): 1-9.
Thienpont V, Dermaut LR, Van Maele G (2001). Comparative

study of electric and manual toothbrushes in patients with
fixed orthodontic appliances. Am J Orthod Dentofacial
Orthop, 201: 353-360.
Tufekci E, Casagrande ZA, Lindauer SJ, Fowler CE, Williams
KT (2008). Effectiveness of an essential oil mouthrinse in
improving oral health in orthodontic patients. Angle Orthod,
78(2): 294-298.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



×