Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc đói bằng cách theo dõi glucose máu trước và sau truyền glucose - insulin - kaliclorua (GIK)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.24 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG KHÁNG INSULIN Ở BỆNH NHÂN  
RỐI LOẠN GLUCOSE MÁU LÚC ĐÓI BẰNG CÁCH THEO DÕI  
GLUCOSE MÁU TRƯỚC VÀ SAU TRUYỀN GLUCOSE – INSULIN – 
KALICLORUA (GIK) 
Hoàng Ngọc Vân*, Nguyễn Đức Công*

TÓM TẮT 
Cơ sở: Rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là yếu tố nguy cơ thường gặp của bệnh đái tháo đường týp 2. 
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp theo 
dõi nồng độ glucose trước và sau truyền dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 
Kết quả: Trong nghiên cứu này, 80 người RLGMLĐ có tuổi trung bình là 64,2 ± 11,1. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy: Giá trị trung bình của chỉ số kháng insulin G120/G0 là: 1,3 ± 0,6. Tỷ lệ kháng insulin của bệnh nhân 
RLGMLĐ  được  xác  định  bằng  phương  pháp  theo  dõi  nồng  độ  glucose  máu  trước  và  sau  truyền  dung  dịch 
glucose ‐ insulin – kaliclorua là 52,5%. 
Kết luận: Bệnh nhân RLGMLĐ có tỷ lệ kháng insulin cao. 
Từ khóa: Rối loạn glucose máu lúc đói, kháng insulin, truyền liên tục, glucose – insulin ‐ kaliclorua. 

ABSTRACT
STUDY OF THE INSULIN RESISTANCE IN PATIENTS WITH IMPAIRED FASTING GLUCOSE BY 
MONITORING BLOOD GLUCOSE LEVELS WHEN INFUSING GLUCOSE ‐ INSULIN ‐ KALICLORUA 
Hoang Ngoc Van, Nguyen Đuc Cong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 108 ‐ 112 
Background: Impaired fasting glucose is the major factor of type 2 diabetes mellitus. 
Objective:  To  evaluate  insulin  resistance  in  patients  with  impaired  fasting  glucose  by  monitoring  blood 
glucose levels before and after continuous infusion glucose – insulin – kaliclorua. 
Methods: A prospective descriptive cross section. 


Results: In this study, the mean age of 80 patients with impaired fasting glucose is 64.2 ± 11.1. The results 
of the study showed that: The  average  value of  the  index insulin resistance (G120/G0) were 1.3 ± 0.6, rates 
insulin resistance in patients with impaired fasting glucose were 52.5%. 
Conclusion: The ratio of insulin resistance in patients with impaired fasting glucose is high. 
Key words: impaired fasting glucose, insulin resistance, continuous infusion, glucose – insulin – kaliclorua. 
bệnh lý tim mạch khác. Trong thời gian gần đây 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
kháng  insulin  đang  là  vấn  đề  thời  sự  không 
Kháng insulin là yếu tố nguy cơ thường gặp 
những trên thế giới mà cả ở Việt Nam. 
trong một số bệnh lý, bao gồm ĐTĐ týp 2, béo 
Có  nhiều  phương  pháp  xác  định  tình  trạng 
phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và những 
* Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BSCKII Hoàng Ngọc Vân  ĐT: 0988.881.789 

108

 Email:   

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
kháng  insulin  Trong  khi  đó  các  phương  pháp 
xác định tình trạng kháng insulin hiện nay đều 
có những mặt hạn chế. Phương pháp trực tiếp – 
phương pháp kẹp insulin được cho là tiêu chuẩn 
vàng  trong  xác  định  tình  trạng  kháng  insulin. 
Nhưng  phương  pháp  này  khó  thực  hiện. 

Phương  pháp  này  chỉ  thực  hiện  được  trong 
phòng  thí  nghiệm,  khó  ứng  dụng  được  trong 
thực hành lâm sàng. 
Các  phương  pháp  gián  tiếp  (HOMA  1, 
HOMA  2,  QUICKY…)  phần  lớn  xác  định  tình 
trạng kháng insulin dựa vào nồng độ glucose và 
insulin  máu  lúc  đói.  Nhưng  các  phương  pháp 
này  có  những  mặt  hạn  chế  nhất  định,  kết  quả 
phụ thuộc vào nồng độ insulin máu và glucose, 
trong khi đó insulin máu bình thường luôn luôn 
biến đổi. Ít có giá trị đánh giá tình trạng kháng 
insulin trên một người cụ thể. 
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến 
hành  “nghiên  cứu  tình  trạng  kháng  insulin  ở 
người  rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  bằng 
phương  pháp  theo  dõi  glucose  máu  trước  và 
sau  truyền  dung  dịch  glucose  –  insulin  ‐ 
kaliclorua”  nhằm  mục  tiêu:  Đánh giá tình trạng 
kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc 
đói. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 80 người rối loạn glucose máu lúc đói 
(RLGMLĐ) 

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Những  người  được  chẩn  đoán  RLGMLĐ 
đến khám và điều trị nội trú tại khoa nội Tổng 
hợp  B1  bệnh  viện  Thống  Nhất,  thời  gian  từ 

tháng 01/2010 ‐ 01/2011. 

nguyên nhân khác (ví dụ như nhồi máu cơ tim, 
hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu...). 
Phụ nữ mang thai. 
Đang sử dụng một số thuốc ảnh hưởng đến 
chức  năng  tế  bào  β,  độ  nhạy  insulin  như 
corticoid,  thuốc  ức  chế  beta,  thuốc  tránh  thai 
trong vòng một tháng gần đây... 
Bệnh  nhân  mắc  các  bệnh:  to  đầu  chi, 
Cushing do thuốc, cường chức năng tuyến giáp. 
Bệnh  nhân  không  đồng  ý  tham  gia  nghiên 
cứu. 

Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  rối  loạn  glucose 
máu lúc đói (RLGMLĐ)  
Chẩn đoán rối loạn glucose máu lúc đói dựa 
theo  tiêu  chuẩn  của  liên  đoàn  đái  tháo  đường 
quốc  tế  (IDF)  năm  2005.  Rối  loạn  glucose  máu 
lúc  đói  khi  glucose  huyết  tương  lúc  đói  ≥  5,6 
mmol/L (100mg/dL) và < 7 mmol/L (126mg/dL), 
phải dựa vào 2 lần thử trong vòng 3 ngày và tối 
đa là 1 tuần kể từ lần xét nghiệm đầu tiên(1). 
Đánh  giá  tình  trạng  kháng  insulin  ở  người 
rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp 
theo  dõi  nồng  độ  glucose  trước  và  sau  truyền 
dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua.  
Dung  dịch  dùng  để  đánh  giá  tình  trạng 
kháng  insulin  là:  glucose  30%  250ml,  kaliclorua 
10%  10ml  và  insulin  Actrapid  10  đơn  vị.  Thời 

gian truyền liên tục là 90 phút. 
Thời điểm để đánh giá kháng insulin là 120 
phút sau truyền dung dịch GIK. 
Công thức tính chỉ số kháng insulin là tỷ lệ 
giữa  glucose  máu  sau  truyền  ở  phút  120  với 
glucose máu trước truyền (chỉ số G120/G0). 
‐ Nếu chỉ số G120/G0 ≤ 0,89 là tăng nhậy cảm 

Tiêu chuẩn loại trừ
Người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). 

insulin. 

Người  bị  suy  tim,  suy  gan,  suy  thận  nặng, 
suy kiệt nặng, đang mắc các bệnh ác tính. 

insulin bình thường. 

Đang  trong  bệnh  cảnh  cấp  tính  như  nhiễm 
khuẩn huyết, hôn mê do chuyển hóa hay do một 

Nghiên cứu Y học

‐  Nếu  0,90  <  G120/G0  ≤  1,10  là  nhậy  cảm 
‐  Nếu  chỉ  số  G120/G0  >  1,11  là  có  tình  trạng 
kháng insulin(2)  

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

109



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 

Nội dung nghiên cứu
Hỏi  tiền  sử,  khám  lâm  sàng,  đo  chiều  cao, 
cân  nặng,  chỉ  số  khối  cơ  thể  (BMI),  tính  chỉ  số 
vòng  bụng/vòng  mông  (WHR).  Xét  nghiệm 
glucose  máu  lúc  đói,  HbA1c,  cholesterol  toàn 
phần, triglyceid, LDL – C, HDL – C. Định lượng 
insulin máu lúc đói. 
Các  đối  tượng  nghiên  cứu  được  tuần  tự 
làm các bước sau: Truyền tĩnh mạch dung dịch 
glucose 30% 250ml, insulin Actrapid 10 đơn vị, 
kaliclocua  10%  10ml,  truyền  qua  máy  đếm 
giọt,  thời  gian  truyền  90  phút.  Trước  khi 
truyền  lấy  máu  xét  nghiệm  glucose  (G0),  sau 
khi  kết  thúc  truyền  xét  nghiệm  glucose  tại 
phút 120 (G120)(2). 
Thông qua tỷ lệ G120/G0 xác định được tình 
trạng kháng insulin và mức độ kháng insulin. 

Xử lý số liệu 
Các  thông  số  nghiên  cứu  được  xử  lý  theo 
thuật toán thống kê ứng dụng trong y sinh học 

trên phần mềm SPSS version 16.0. 
So  sánh  sự  khác  biệt  giữa  các  biến  định 
tính bằng phép kiểm chi bình phương, với các 
biến định lượng bằng phép kiểm t ‐ test 

Nhận xét: bệnh nền chủ yếu là THA (67,5%), 
tiếp theo là RLCHLP và thấp nhất là bệnh lý về 
dạ dày (10%).  
Bảng 3. Giá trị trung bình của chỉ số G120/G0 m 
RLGMLĐ (n = 80)
Toàn nhóm

Chỉ số G120/G0
1,3 ± 0,6

Tuổi <60
Tuổi ≥60
Nam
Nữ

1,15 ± 0,45
1,3 ± 0,52
1,25 ± 0,45
1,3 ± 0,5

p

>0,05
>0,05


Sự  khác  biệt  của  chỉ  số  G120/G0  giữa  nam  và 
nữ không có ý nghĩa (p >0,05). Sự khác biệt của 
chỉ số  G120/G0 giữa nhóm tuổi <60 và nhóm tuổi 
≥60 không có ý nghĩa (p >0,05). 
Bảng 4. Tỷ lệ kháng insulin của bệnh nhân 
RLGMLĐ 
Chỉ số G120/G0
Kháng, n (%)
Không, n (%)

Nhóm RLGMLĐ
42 (52,5)
38 (47,5)

Nhận  xét:  Tỷ  lệ  kháng  insulin  ở  bệnh  nhân 
RLGMLĐ là 52,5%. 

BÀN LUẬN 

RLGMLĐ  là  64,3  ±  11,1  năm.  Tuổi  trung  bình 

Đặc điểm đối tương nghiên cứu 
Bảng 1. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 

Toàn bộ (năm)
Nam (năm)
Nữ (năm)
p

Tỷ lệ (%)

67,5
47,5
58,8
58,8
16,3
10,0

Trong  bảng  1  cho  thấy:  tuổi  của  bệnh  nhân 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 

Tuổi

Tần số (n = 80)
54
38
47
47
13
8

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 

Ngưỡng giá trị p < 0,05 

Nhóm

Bệnh nền
Tăng HA
Thiếu máu cơ tim

Thừa cân, béo phì
Rối loạn chuyển hóa lipid
Đột quỵ
Bệnh lý dạ dày

Nhóm RLGMLĐ
(n = 80)
64,2 ± 11,1
63,1 ± 11,8
64,8 ± 10,9
0,531

Nhận xét: Tuổi trung bình giữa nam và nữ là 
tương đương 
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nền của đối tượng nghiên 
cứu 

của  người  RLGMLĐ  trong  một  số  nghiên  cứu: 
Theo  Lương  Văn  Một,  Nguyễn  Văn  Quýnh 
(2003) nghiên cứu tình trạng rối loạn lipid máu ở 
những người có rối loạn glucose máu lúc đói và 
rối  loạn  dung  nạp  glucose,  tuổi  trung  bình  của 
người  rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  là  56,5  ± 
4,3(3).Theo  Nathan  MD  và  cộng  sự  (2007),  tuổi 
trung  bình  của  người  rối  loạn  glucose  máu  lúc 
đói  là  57  tuổi(4).  Như  vậy  tuổi  trung  bình  của 
người rối loạn glucose máu lúc đói trong nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn các tác giả trên. Có lẽ 

110


Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

do  những  đối  tượng  phục  vụ  của  bệnh  viện 

Trong  bảng  4  cho  thấy  có  42/80  bệnh  nhân 

Thống  Nhất  chủ  yếu  là  người  cao  tuổi  do  đó 

(52,5%) có kháng insulin. 

những người được chọn vào nghiên cứu có tuổi 

Tỷ lệ kháng insulin ở người rối loạn glucose 

trung  bình  cũng  cao  hơn  các  nghiên  cứu  khác. 

máu lúc đói của chúng tôi thấp hơn một số  tác 

Các tác giả nghiên cứu rối loạn glucose máu lúc 

giả:  Novoa  FJ,  Boronat  M  (2005)  trong  nghiên 

đói trên các đối tượng có bệnh nền khác nhau. 


cứu  Novoa  ở  người  Tây  Ban  Nha  rối  loạn 

Bệnh nền của đối tượng nghiên cứu 

glucose  máu  lúc  đói  có  tỷ  lệ  kháng  insulin  là 

Trong  bảng  2  cho  thấy  bệnh  nền  của  đối 

65%(5). Theo Carnevale Schianca GP (2003), trong 

tượng  nghiên  cứu  chủ  yếu  là  tăng  huyết  áp 

nghiên  cứu  Carnevale  Schianca  ở  nguời 

(67,5%),  thừa  cân  và  béo  phì  (58,8%),  rối  loạn 

Caucasian có rối loạn glucose máu lúc đói, tỷ lệ 

lipid  máu  (58,8%),  bệnh  mạch  vành…Điều  này 

kháng insulin là 63%(6). 

cho  thấy  phần  lớn  bệnh  nền  của  các  đối  tượng 

Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  tỷ  lệ 

nghiên  cứu  đều  là  các  yếu  tố  nguy  cơ  cao  và 

kháng insulin thấp hơn các tác giả trên có lẽ do 


chính yếu của bệnh đái tháo đường týp 2. Tất cả 

các  nghiên  cứu  trên  đều  áp  dụng  tiêu  chuẩn 

các yếu tố trên có nhiều nguyên nhân và cơ chế 

chẩn  đoán  rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  của 

bệnh  sinh  khác  nhau  song  chúng  đều  có  một 

WHO  năm  1999  (glucose  máu  lúc  đói  ≥ 

điểm  chung  cơ  chế  bệnh  sinh  đó  là  tình  trạng 

6,1mmol/L  và  <  7mmol/L).  Và  các  tác  giả  trên 

kháng insulin. 

đều  xác  định  tình  trạng  kháng  insulin  dựa  vào 

Tình  trạng  kháng  insulin  ở  người 
RLGMLĐ 

công  thức  HOMA  1.  Các  nghiên  cứu  trên  đều 

Đánh  giá  tình  trạng  kháng  insulin  ở  người 

Phần lớn các nghiên cứu thực hiện trên các đối 

rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp 


tượng  thừa  cân  và  béo  phì.  Và  có  lẽ  là  do  sự 

theo  dõi  nồng  độ  glucose  trước  và  sau  truyền 

khác  nhau  về  chủng  tộc,  màu  da  và  chế  độ  ăn 

dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua 

uống, sinh hoạt. 

Kháng insulin hay nhạy cảm insulin chỉ một 

được thực hiện ở người châu Âu và người Mỹ. 

KẾT LUẬN 

tình  trạng  mà  có  thể  đo  được  bằng  nhiều 

Qua  nghiên  cứu  80  bệnh  nhân  rối  loạn 

phương pháp. Đa số các phương pháp được áp 

glucose  máu  lúc  đói  chúng  tôi  rút  ra  kết  luận 

dụng hiện nay là phương pháp gián tiếp đều có 

sau: 

sử dụng nồng độ insulin và glucose máu lúc đói. 


Chỉ số kháng insulin ‐ G120/G0 của bệnh nhân 

Các  phương  pháp  này  đều  có  những  mặt  hạn 

rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  là  1,3  ±  0,6.  Tỷ  lệ 

chế nhất định. Trong nghiên cứu này chúng tôi 

kháng  insulin  của  người  rối  loạn  glucose  máu 

đánh  giá  tình  trạng  kháng  insulin  bằng  phương 

lúc đói là 52,5%. 

pháp  theo  dõi  glucose  máu  trước  và  sau  truyền 
glucose – insulin – kaliclorua. 
Trong  bảng  3  cho  thấy  chỉ  số  G120/G0  của 
bệnh  nhân  RLGMLĐ  là  1,3  ±  0,6,  không  có  sự 
khác biệt của G120/G0 giữa nam và nữ (p > 0,05). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

International  Diabetes  Federations  (2005),  “Global  Guideline 
for type 2 diabetes”, pages 8‐9. 
Hoàng  Ngọc  Vân,  Nguyễn  Đức  Công  (2012),  Bước  đầu  xây 
dựng công thức tính chỉ số kháng insulin bằng phương pháp 
theo dõi nồng độ glucose máu trước và sau truyền glucose – 

insulin – kaliclorua, Y học TP Hồ Chí Minh, Tập 16, phụ bản 
số 4: 241‐245. 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

111


Nghiên cứu Y học 
3.

4.

5.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Lương Văn Một, Nguyễn  Văn  Quýnh  (2003),  “Tình trạng rối 
loạn lipid máu ở những người có rối loạn glucose máu lúc đói và rối 
loạn dung nạp glucose”, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 2 
chuyên ngành nội tiết và đái tháo đường, tr 272‐276. 
Nathan  DM,  Davidson  MB,  DeFronzo  RA  et  al  (2007), 
“Impaired  fasting  glucose  and  impaired  glucose  tolerance: 
implications for care”, Diabetes Care, 30(3): 753. 
Novoa FJ, Boronat M, Saavedra P et al (2005), “Differences in 
cardiovascular  risk  factors,  insulin  resistance,  and  insulin 
secretion in individuals with normal glucose tolerance and in 

subjects with impaired glucose regulation”, the Telde Study, 
Diabetes Care, 28: 2388–2393. 

Schianca  Carnevale  GP,  Rossi  A,  Sainaghi  PP,  et  al  (2003), 
“The significance of impaired fasting glucose versus impaired 
glucose  tolerance:  importance  of  insulin  secretion  and 
resistance”, Diabetes Care, 26:1333–1337 

6.

 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 

 

 

01‐7‐2013 
18‐7‐2013 
01‐08‐2013 

 

112

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 




×