Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Chỉ định và kỹ thuật mổ tạo hình bộ phận sinh dục nam ở lưỡng giới kinh nghiệm trên 34 bệnh nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.04 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

CHỈ ĐỊNH VÀ KỸ THUẬT MỔ TẠO HÌNH BỘ PHẬN SINH DỤC NAM  
Ở LƯỠNG GIỚI KINH NGHIỆM TRÊN 34 BỆNH NHÂN 
Trần Ngọc Bích *  

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Chỉ định chọn giới tính nam. Trình bày kỹ thuật mổ chữa. Đánh giá kết quả mổ. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả những bệnh nhân bị lưỡng giới thật và giả có chỉ định mổ tái tạo bộ phận 
sinh dục thành bộ phận sinh dục nam. Kỹ thuật mổ chữa cắt bỏ phần sinh dục của nữ và tạo hình dương vật, 
niệu đạo. 
Kết quả: 34 bệnh nhân bị lưỡng giới đã có chỉ định mổ tạo bộ phận sinh dục theo giới nam, trong đó có 13 
lưỡng giới thật, 20 nam lưỡng giới giả và 1 nữ lưỡng giới giả ở bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh. Đã 
mổ cắt bộ phận sinh dục nữ ở 31 bệnh nhân và mổ tạo niệu đạo 26 bệnh nhân với kết quả tốt 20 bệnh nhân, 
trung bình 6 bệnh nhân. 
Kết luận: Lưỡng giới là một loại dị tật phức tạp cần chẩn đoán sớm và chỉ định mổ sớm với sự chọn giới 
phù hợp. 
Từ khóa: Luỡng giới. 

ABSTRACT 
INDICATION AND TECHNIQUE OF MALE GENITOPLASTY IN INTERSEX 
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 135 ‐ 139 
Objectives:  Indicate  the  male  genitoplasty.  Present  the  technique  of  male  genitoplasty.  Evaluate  the 
operating results. 
Methods:  Methods:  Descriptive  study.  Technique  :  Ablation  of  the  female  genital  organ  and  male 
genitoplasty. 
Results: 34 patients suffering from intersex were operated on for male genitoplasty. Among them there were 
one  girls  suffering  from  congenital  adrenal  hyperplasia,  13  patients  suffered  a  true  hermaphrodites  and  20 
patients with male pseudohermaphroditism. Ablation of the female organs in 32 patients and urethroplasty in 26 


patients with results of following up: the good result in 20 patients, average in 6 patients. 
Conclusion:  The  intersex  needs  having  early  diagnosis  and  early  treatment  with  the  preferable  sexual 
choice. 
Key words: Intersex. 

ĐẶT VẤN ĐỀ  
Lưỡng giới là loại dị tật bẩm sinh phức tạp, 
khó  chẩn  đoán  và  điều  trị.  Người  bệnh  sống 
trong  tình  trạng  mơ  hồ  giới  tính  hay  giới  tính 
không được phân định của mình. Do vậy dị tật 
này gây ra sang chấn tinh thần, ảnh hưởng xấu 
tới  chất  lượng  cuộc  sống  và  nghề  nghiệp  của 
người bệnh đồng thời cũng gây nên tâm lý nặng 
* Bệnh viện HN Việt Đức 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Bích 

136

nề cho cả gia đình bệnh nhân. Vấn đề đặt ra là 
cần  có  chẩn  đoán  sớm  và  đúng  để  có  hướng 
điều  trị  cụ  thể  về  giới  tính  sẽ  mổ  tạo.  Đã  có 
nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về 
tình trạng bệnh lý này và cách điều trị  (7,8,1,2,3,4,5,6). 
Vấn  đề  đặt  ra  là  với  tình  trạng  lưỡng  giới,  khi 
nào có chỉ định mổ tạo thành bộ phận sinh dục 
nam và nên chọn loại kỹ thuật mổ chữa nào để 

 ĐT: 0912047958 

 Email:  


Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
có kết quả tốt nhất. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Chỉ  định  chọn  giới  tính  nam.  Trình  bày  kỹ 
thuật mổ chữa. Đánh giá kết quả mổ. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là  những  bệnh  nhân  bị  lưỡng  giới  thật 
(LGT),  nam  lưỡng  giới  giả  (NaLGG)  và  nữ 
lưỡng  giới  giả  (NuLGG)  có  chỉ  định  mổ  tái  tạo 
bộ phận sinh dục thành bộ phận sinh dục nam. 
Trong thời gian từ 1997 tới 3/2012. 

Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả. 

Nội dung nghiên cứu 
Chỉ định mổ tạo bộ phận sinh dục theo giới 
nam: dựa khả năng có con của giới định chuyển, 
khả năng sinh hoạt tình dục với sự hoà nhập với 
cộng  đồng  của  giới  định  chuyển,  ý  muốn  của 
bệnh nhân và của cha mẹ bệnh nhân. 
Nét chính về kỹ thuật mổ chữa: Cắt bỏ phần 
sinh dục của nữ như: Cắt tử cung, âm đạo, ống 

dẫn  trứng,  loa  vòi,  buồng  trứng  hay  tổ  chức 
buồng  trứng.  Tạo  hình  dương  vật  và  niệu  đạo 
làm dương vật thẳng, đúng vị trí và tạo niệu đạo 
với lỗ đái đưa tới đỉnh qui đầu. 

Đánh giá kết quả 
Chúng tôi đề nghị đánh giá kết quả theo các 
tiêu chuẩn sau. 
Tốt: Dương vật thẳng khi cương, đái ra đỉnh 
qui đầu. Không hẹp, không rò niệu đạo. Có chức 
năng sinh dục và tiểu tiện bình thường 
Trung bình: Dương vật thẳng khi cương, đái 
ra  đỉnh  qui  đầu.  Còn  hẹp  niệu  đạo  hay  có  rò 
niệu  đạo  phải  mổ  lại  nhưng  kỹ  thuật  mổ  đơn 
giản. Vẫn có khả năng sinh hoạt tình dục. 
Xấu:  Không  đạt  được  yêu  cầu  của  mổ  mà 
phải mổ lại, lần mổ lại khó như lần mổ đầu hoặc 
khó hơn: Dương vật còn cong, hẹp niệu đạo hay 
toác niệu đạo, phải tạo hình lại niệu đạo. 

KẾT QUẢ  
Số lượng bệnh nhân: 34. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

Tuổi  :  <  2  tuổi:  7  bệnh  nhân,  3  ‐  5  tuổi:  11 
bệnh nhân, 6 ‐ 15 tuổi: 5 bệnh nhân, > 15 tuổi: 11 
bệnh nhân (1 bệnh nhân 49 tuổi). 


Tình trạng giới tính trước mổ 
Lưỡng  giới  thật:  13  bệnh  nhân.  Các  bệnh 
nhân  này  đều  có  buồng  trứng  hay  mô  buồng 
trứng ở tuyến sinh dục. Nhiễm sắc thể giới tính: 
46  XY  ở  4  bệnh  nhân,  46  XX/  46  XY  ở  2  bệnh 
nhân, 46 XX ở 5 bệnh nhân, có 2 bệnh nhân chưa 
làm Nhiễm sắc thể giới tính. Nam lưỡng giới giả 
: 20 bệnh nhân. Nhiễm sắc thể giới tính 46 XY ở 
13  bệnh  nhân,  47  XYY  ở  1  bệnh  nhân,  45  X/  46 
XY ở 2 bệnh nhân, XX ở 2 bệnh nhân, có 2 bệnh 
nhân chưa làm NST giới tính. Nữ lưỡng giới giả 
ở bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh: 1 
bệnh  nhân  có  nhiễm  sắc  thể  giới  tính  46  XX. 
Bệnh  nhân  này  có  tử  cung,  buống  trứng  bình 
thường,  có  xoang  niệu  dục,  phân  loại  theo 
Prader type III. 
Các triệu chứng lâm sàng:  Đến  khám  dị  tật 
lỗ  đái  lệch  thấp  33  bệnh  nhân,  trong  đó  kèm 
theo: Thoát vị bẹn: 3 bệnh nhân. Không có tinh 
hoàn ở bìu: 19 bệnh nhân. Có lỗ âm đạo: 8 bệnh 
nhân. Có thoát vị bẹn ở một bên và ẩn tinh hoàn 
bên đối diện: 2 bệnh nhân. U bụng (Ung thư tinh 
hoàn)  bên  phải,  tuyến  sinh  dục  trái  ở  trong  ổ 
bụng. Một bệnh nhân sau mổ làm thẳng dương 
vật và tạo hình niệu đạo, mổ thăm dò tuyến sinh 
dục  trái  không  có  ở  ống  bẹn  đã  15  năm,  tới 
khám lại và mổ chữa vì có sỏi trong âm đạo do 
còn  xoang  niệu  dục.  Vị  trí  lỗ  đái  trước  mổ:  Lỗ 
đái ở tầng sinh môn 13 bệnh nhân, ở 1/3 sau bìu 

15 bệnh nhân ở giữa bìu 5 bệnh nhân. Đến khám 
vì gốc dương vật ở vị trí thấp: 1 bệnh nhân. 

Kỹ thuật mổ chữa đã thực hiện 
Yêu  cầu  mổ  chữa  khi  tạo  nam  là  cắt  bỏ  bộ 
phận sinh dục nữ, tạo hình lại bộ phận sinh dục 
nam  như  làm  thẳng  dương  vật,  chuyển  gốc 
dương  vật  về  vị  trí  bình  thường,  tạo  hình  niệu 
đạo từ lỗ đái thấp tới đỉnh qui đầu. Tùy mức độ 
dị tật mà mổ 1, 2 hay 3 thì. Các kỹ thuật mổ một 
hay nhiều thì: đã mổ 32 bệnh nhân. 
Mổ một thì 5 bệnh nhân: tất cả các yêu cầu trên 
được làm trong một lần mổ. 

137


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Mổ hai thì: ở 21 bệnh nhân. 
Thì 1: cắt bộ phận sinh dục nữ, có thể dựng 
thẳng dương vật kèm theo. 
Thì 2: làm thẳng dương vật và tạo hình niệu 
đạo. 
Mổ 3 thì: ở 7 bệnh nhân. 
Thì  1:  sinh  thiết  tuyến  sinh  dục  có  thể  kèm 
theo cắt bộ phận sinh dục nữ. 
Thì  2:  làm  thẳng  và  chuyển  gốc  dương  vật 

về vị trí bình thường có thể kèm theo cắt tuyến 
sinh dục nữ. 
Thì 3: tạo hình niệu đạo. 

Với  Nữ  lưỡng  giới  thật  và  Nữ  lưỡng  giới 
giả ở 14 bệnh nhân 
Cắt  bỏ  phần  sinh  dục  của  nữ  như  cắt  tử 
cung, âm đạo, ống dẫn trứng, loa vòi và buồng 
trứng,  tuyến  sinh  dục  hỗn  hợp  hay  tổ  chức 
buồng trứng ở 13 bệnh nhân. Ở 1 bệnh nhân: cắt 
bỏ U tinh hoàn phải trong ổ bụng và sinh thiết 
tuyến  sinh  dục  trái.  Kết  quả  giải  phẫu  bệnh: 
tuyến sinh dục trái là buồng trứng, còn bên phải 
là  tinh  hoàn  ung  thư  (seminone).  Sau  ra  viện, 
chuyển bệnh nhân điều trị hóa chất. Tạo hình lại 
dương vật và niệu đạo ở 10 bệnh nhân, 4 bệnh 
nhân đang chờ mổ tạo niệu đạo. 

Với Nam lưỡng giới giả ở 19 bệnh nhân 
Cắt bỏ phần sinh dục của nữ như cắt tử cung 
nhỏ, âm đạo, vòi trứng, loa vòi trứng. Tạo hình 
niệu đạo ở 16 bệnh nhân, còn 3 bệnh nhân đang 
chờ mổ. Có 2 bệnh nhân vẫn để lại âm đạo khi 
mổ tạo hình niệu đạo. Một bệnh nhân nam XX 
có gốc dương vật ở vị trí thấp và 2 tinh hoàn nhỏ 
ở trong bìu chưa mổ. Nếu mổ thì chỉ chuyển gốc 
dương vật về vị trí bình thường. 

Các kỹ thuật tạo niệu đạo với các chất liệu 
như sau ở 26 bệnh nhân 

Tạo hình lại niệu đạo bằng vạt da dày tự do: 
3  bệnh  nhân.  Tạo  hình  lại  niệu  đạo  bằng  vạt 
niêm mạc bao qui đầu tự do ở 8 bệnh nhân. Tạo 
hình lại niệu đạo bằng vạt da giữa bìu kết hợp 
vạt niêm mạc bao qui đầu tự do ở 7 bệnh nhân. 
Tạo  hình  lại  niệu  đạo  bằng  vạt  da  giữa  bìu  kết 
hợp vạt niêm mạc bao qui đầu có cuống mạch ở 
7  bệnh  nhân.  Tạo  niệu  đạo  bằng  da  dương  vật 

138

và bìu, bao qui đầu: 1 bệnh nhân. Mới xác định 
giới tính, mổ làm thẳng dương vật, đang chờ mổ 
tạo niệu đạo: 7 bệnh nhân. 

Kết quả mổ qua theo dõi 
Kết quả sớm: ngay sau khi ra viện, bộ phận 
sinh  dục  đã  có  hình  thái  như  của  nam  nhưng 
còn phù nề nhẹ da dương vật. Không có hoại tử 
các  phần  đã  mổ  tạo  hình,  không  nhiễm  khuẩn, 
không tử vong. Kết quả qua theo dõi ở 26 bệnh 
nhân.  Thời  gian  theo  dõi:  Theo  dõi  <  6  tháng  3 
bệnh  nhân,  theo  dõi  từ  6  tháng  tới  3  năm  14 
bệnh nhân, theo dõi 3 năm 9 bệnh nhân. Kết quả 
tốt:  10  bệnh  nhân,  kết  quả  trung  bình:  6  bệnh 
nhân. 

BÀN LUẬN 
Về chẩn đoán (8,1,2) 
Các bệnh nhân trên được xác định giới tính 

dựa  khám  lâm  sàng,  xét  nghiệm  cận  lâm  sàng, 
nhiễm  sắc  thể  giới  tính,  đánh  giá  đại  thể  tuyến 
sinh dục khi mổ và sinh thiết tuyến sinh dục. 
Yếu  tố  quyết  định  giới  tính  chính  là  tuyến 
sinh dục vừa có nang trứng và ống  sinh  tinh  ở 
Lưỡng giới thật, chỉ có tổ chức tinh hoàn ở Nam 
lưỡng giới giả và chỉ có tổ  chức  buồng  trứng  ở 
Nữ lưỡng giới giả. 
Ở lưỡng giới thật có các khả năng về tuyến 
sinh dục như tổ chức ống sinh tinh và các nang 
trứng hoặc ở cùng 1 tuyến sinh dục (tuyến sinh 
dục hỗn hợp ở 1 hay cả 2 bên) hoặc với 2 tuyến 
sinh dục riêng biệt (tinh hoàn ở 1 bên và buồng 
trứng  ở  bên  kia)  hoặc  là  một  tinh  hoàn  hoặc  1 
buồng  trứng  ở  1  bên  còn  tuyến  sinh  dục  hỗn 
hợp  ở  bên  kia.  Tuyến  sinh  dục  có  tổ  chức  tinh 
hoàn  kèm  theo  ống  dẫn  tinh  và  mào  tinh.  Vòi 
trứng và tử  cung 1 sừng có ở bên  buồng  trứng 
hoặc  tuyến  hỗn  hợp  buồng  trứng  tinh  hoàn 
nhưng có ít tổ chức tinh hoàn. Tổ chức tử cung 
có ở đa số các trường hợp, tuyến tiền liệt thô xơ 
hoặc không có.  
Chúng tôi có 13 bệnh nhân bị lưỡng giới thật 
qua kết quả xét nghiệm và mổ, sinh thiết như đã 
trình bày. 
Về nam lưỡng giới giả chúng tôi loại trừ dị 
tật lỗ đái lệch thấp thể bìu và đáy chậu có thể 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
phối  hợp  với  tinh  toàn  chưa  xuống  bìu  ở  1 
hoặc  cả  2  bên.  Còn  có  5  nguyên  nhân  tạo  hội 
chứng lưỡng giới giả nam như: Chế tiết không 
đủ testosterone do thiếu men hay do loạn sản 
tinh  hoàn  (dysenésies  testiculaires),  không 
nhạy  cảm  ngoại  vi  với  aldrogènes,  do  thiếu 
men  5  alpha‐Réductase,  do  thiếu  hormon 
kháng Muller do tự phát. 
Chúng  tôi  không  xác  định  chính  xác  được 
nguyên nhân của tất cả các bệnh nhân nêu trên, 
nhưng theo kết quả sinh thiết tuyến sinh dục là 
tinh hoàn và sự tồn tại của bộ phận sinh dục nữ 
như tử cung, âm đạo kèm theo với cơ quan sinh 
dục nam mà xếp loại vào Nam lưỡng giới giả. 
Còn nữ lưỡng giới giả ở một bệnh nhân thì 
được  xác  định  bị  tăng  sản  tuyến  thượng  thận 
bẩm sinh. 

Về chỉ định mổ (8) 
Chọn giới mổ: Là một vấn đề rất quan trọng. 
Chúng tôi chọn giới mổ chữa phụ thuộc vào các 
yếu tố như khả năng có con, khả năng sinh hoạt 
tình dục với sự hoà nhập với cộng đồng của giới 
định chuyển, ý muốn của bệnh nhân và của cha 
mẹ bệnh nhân.  
Cụ  thể:  Nếu  tạo  nữ  mà  có  con  được  thì  sẽ 
mổ tạo nữ, nếu tạo nam mà có khả năng có con 
thì mổ tạo nam, nếu không có con ở cả 2 giới thì 

chọn giới tính mà sẽ mổ tạo được bộ phận sinh 
dục  gần  giống  nhất  với  bộ  phận  sinh  dục  của 
giới  định  chuyển  để  bệnh  nhân  có  cuộc  sống 
tình  dục  bình  thường  được.  Tuy  vậy,  ý  kiến 
chọn  giới  của  chính  bệnh  nhân  ở  tuổi  trưởng 
thành  cũng  được  tôn  trọng.  Trên  từng  bệnh 
nhân  với  bệnh  cụ  thể,  chúng  tôi  giải  thích  và 
thấy  rõ  xu  hướng  muốn  tạo  con  trai  chiếm  ưu 
thế.  Ngay  cả  trường  hợp  nữ  bị  tăng  sản  tuyến 
thượng  thận  bẩm  sinh  thể  nam  hóa  ở  tuổi  26 
cũng chỉ có một nguyện vọng duy nhất là chữa 
thành con trai vì đã có tên con trai và sống với 
giới nam từ nhỏ. 
Về  tuổi  mổ:  Chúng  tôi  thấy  mổ  ở  lứa  tuổi 
nhỏ thì tránh được sang chấn tinh thần cho bệnh 
nhân  và  cho  cả  bố  mẹ  bệnh  nhân,  giúp  bệnh 
nhân  hoà  nhập  cuộc  sống  với  cộng  đồng,  học 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

hành  và  hướng  nghiệp  bình  thường.  Lứa  tuổi 
mổ  phù  hợp  từ  1  tới  3  tuổi.  Rất  tiếc  là  số  bệnh 
nhân của chúng tôi còn tới khám muộn, trên 2/3 
ở tuổi trên 5 tuổi. Khi để mổ muộn, có thể xảy ra 
những  nguy  cơ  cao  với  tuyến  sinh  dục  bất 
thường  về  cấu  trúc  và  vị  trí.  Chúng  tôi  có  một 
bệnh nhân lưỡng giới thật, tinh hoàn và buồng 
trứng trong ổ bụng thì tinh hoàn bị ung thư. Với 

tuyến sinh dục loạn sản thì nguy cơ ung thư hóa 
cao. Do vậy cần phải mổ chữa ở lứa tuổi nhỏ. 
Về  kỹ  thuật  mổ:  Khi  mổ  tạo  hình  bộ  phận 
sinh  dục  theo  giới  nam  thì  về  nguyên  tắc  phải 
cắt  hết  bộ  phận  sinh  dục  của  nữ  trước.  Tuy 
nhiên có 2 trường hợp, một bệnh nhân ở tuổi 49 
có âm đạo nhỏ, dài và một bệnh nhân 3 tuổi có 
xoang niệu dục và âm đạo nhỏ, chúng tôi lại mổ 
một  thì,  làm  thẳng  dương  vật  và  tạo  hình  niệu 
đạo ngay nhưng để lại âm đạo nhỏ và có nếp da 
bìu  che  khuất.  Khi  mổ  tạo  niệu  đạo  nếu  để  lại 
âm đạo thì phải tách riêng âm đạo ra vì nếu để 
lại  xoang  niệu  dục  thì  có  nguy  cơ  cao  tạo  sỏi 
trong âm đạo. Hai bệnh nhân này có thể mổ thì 
hai để cắt âm đạo nếu có nhu cầu. Về kỹ thuật 
mổ tạo hình dương vật và niệu đạo thì có thể mổ 
1 hay 2 thì tùy theo mức độ phức tạp của dị tật. 
Còn chất liệu tạo niệu đạo thì sử dụng da ‐ niêm 
mạc  bao  qui  đầu,  da  bìu  tại  chỗ  hay  da  dày  tự 
do. 

KẾT LUẬN 
Trong  15  năm,  34  bệnh  nhân  bị  mơ  hồ  giới 
tính được mổ tạo hình bộ phận sinh dục thành 
sinh  dục  của  nam,  trong  đó  có  13  lưỡng  giới 
thật, 1 nữ lưỡng giới giả, 20 nam lưỡng giới giả. 
Lưỡng giới là một loại dị tật phức tạp cần chẩn 
đoán sớm và chỉ định mổ sớm với sự chọn giới 
phù hợp. 


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

Deborah SL, Imbeaud S, Herman M (1994). Surgical and genetic 
Aspect  of  Persistent  Mỹllerian  Duct  Syndrome.  Journal  of 
Pediatric Surgery, 29:  pp 61 – 65. 
Donahoe PK (1987). The diagnosis and treatment of infant with 
intersex  abnormalities,  Pediatric  clinics  of  North  America,  34: 
pp 1333 ‐ 1347 
Donahoe  PK,  Schnizer  JJ  (1998).  Ambiguos  genitalia  in  the 
newborn, Pediatric surgery ‐ Mosby, pp 1797 ‐ 1812.  

139


Nghiên cứu Y học 
4.

5.

6.

7.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


Kaplan  I  (1967).  A  simple  technic  for  shortening  the  clitoris 
without  amputation,  Obstetrics  and  gynecology,  29:  pp  270  ‐ 
271. 
Mollard P, Juskiewenski S, Sarkissian J (1981). Clitoroplasty in 
intersex : a new technic, British Journal of Urology, 53: pp 371 ‐ 
373. 
Stefan H (1969). Surgical reconstrution of the external genitalia 
in  female  Pseudohermaphrodites,  British  Journal  of  Urology, 
39: pp 347 ‐ 352. 
Trần Ngọc Bích (1999). Tái tạo lại cơ quan sinh dục ngoài của 
nữ bị hội chứng sinh dục thượng thận, Tạp chí Y Học Việt nam, 
4: tr 31‐ 36. 

8.

Trần Ngọc Bích (2003). Mơ hồ giới tính (chẩn đoán và điều trị ở 
33 bệnh nhân), Tạp chí Y học thực hành, 3: tr 26 – 29. 

 
Ngày nhận bài  

 

 

01/07/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

22/07/2013. 


Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 

 

 

 

140

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



×