Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Loạn nhịp tim trong giai đoạn sớm sau phẫu thuật tứ chứng fallot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.99 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

LOẠN NHỊP TIM TRONG GIAI ĐOẠN SỚM SAU PHẪU THUẬT
TỨ CHỨNG FALLOT
Phan Thị Phương Thảo, Phạm Thế Việt, Nguyễn Hoàng Định, Trương Quang Bình*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và đặc điểm của loạn nhịp trong giai đoạn sớm sau phẫu thuật tứ chứng Fallot.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán tứ chứng Fallot từ 2 đến 18
tuổi được nhập viện và phẫu thuật tại khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện Đại học y dược từ tháng 10/2007
đến tháng 12/2008. Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Có 13 trường hợp loạn nhịp (19,4%), các loại loạn nhịp hay gặp là nhịp nhanh thoát bộ
nối(7,46%), bloc nhĩ thất (7,46%) và nhịp chậm xoang. Loạn nhịp hầu hết xuất hiện trong vòng 48 giờ đầu sau
phẫu thuật.
Kết luận: Nghiên cứu trên 67 bệnh nhân tứ chứng Fallot từ 2 đến 18 tuổi được phẫu thuật sửa chữa dị tật
tại khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện Đại học y dược từ tháng 10/2007 đến tháng 12/2008 chúng tôi rút ra
kết luận sau: Tỷ lệ loạn nhịp trong giai đoạn sớm là 19,4%. Thời điểm xuất hiện loạn nhịp đa số trong vòng 48
giờ đầu trong phòng hồi sức và loại loạn nhịp hay gặp theo thứ tự là nhịp nhanh thoát bộ nối(NNTBN), bloc nhĩ
thất (NT), và nhịp chậm xoang (NCX).
Từ khóa: Tứ chứng Fallot, Rối loạn nhịp.

ABSTRACT
EARLY POSTOPERATIVE ARRHYTHMIAS AFTER TETRALORY OF FALLOT SURGERY
Phan Thi Phuong Thao, Pham The Viet, Nguyen Hoang Dinh, Truong Quang Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 253 - 257
Objective: to determine the incidence and characteristics of early postoperative arrhythmias in Tetralogy of
Fallot.
Material and Method: A prospective study was conducted in every Tetralogy of Fallot patient who
consecutively underwent surgery at University Medical Center of HCM city from October 2007 to December


2008. The collected data were demographic data, diagnosis, pre-operative arrhythmia, cardiac surgical data and
continuous electrocardiographic monitoring data throughout the post operative intensive care period.
Results: A total of 67 Tetralogy of Fallot patients underwent cardiac surgery. 13 cases (19.4%) developed
early post operative cardiac arrhythmias i.e. junctional ectopic tachycardia 5 cases (7.46%), heart block 5 cases
(7.46%), sinus bradycardia 3 cases (2.98%). Cardiac arrhythmia occurred mostly within 48 hours after the
operation.
Conclusions: Post operative arrhythmias remained common and important complications of Tetralogy of
Fallot surgery.
Key words: Tetralogy of Fallot, Arrhythmia.

MỞ ĐẦU
Tứ chứng Fallot (T4F) là bệnh tim bẩm sinh
tím thường gặp nhất, chiếm 75% các tim bẩm

sinh tím ở trẻ trên 1 tuổi.
Tổn thương cơ thể học gồm: (1) Hẹp động
mạch phổi, thường gặp ở vùng phễu (dưới van)



Khoa Phẫu thuật tim mạch, BV Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Phan Thị Phương Thảo ĐT: 0913791154

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Email:

253



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

hoặc hẹp tại van, (2) Thông liên thất, (3) Động
mạch chủ cưỡi ngựa trên vách liên thất, (4) Phì
đại thất phải.
Sau phẫu thuật T4F, loại loạn nhịp hay gặp
là loạn nhịp thất nhưng cũng có thể gặp loạn
nhịp nhĩ. Hầu hết các nghiên cứu về loạn nhịp
sau phẫu thuật T4F đã được công bố đều đồng
thuận về sự hiện diện của loạn nhịp thất và
nguy cơ của đột tử (1).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 67 bệnh nhân được
phẫu thuật sửa chữa hoàn toàn.

Phân bố của các biến số
Tần suất
Tuổi
Cân nặng

67
67

Trung Độ lệch
bình chuẩn
9,23

18,44

4,04
10,29

Cực
tiểu

Cực
đại

2
9

18
46

Rối loạn nhịp sau phẫu thuật nếu không tiên
liệu sớm, phát hiện kịp thời và điều trị tích cực
sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng bởi vì
loạn nhịp có thể gây rối loạn huyết động và có
khi dẫn đến tử vong. Hậu quả của rối loạn nhịp
sau phẫu thuật chẳng những kéo dài thời gian
điều trị trong khoa hồi sức tích cực gây tăng chi
phí điều trị mà còn làm tăng nguy cơ bệnh tật và
tử vong cho bệnh nhân.

Phân bố giới tính

Mục tiêu nghiên cưu

Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ và đặc
điểm của loạn nhịp trong giai đoạn sớm sau
phẫu thuật tứ chứng Fallot.

Phân bố cân nặng
Cân nặng trung bình của nhóm bệnh nhân
tham gia nghiên cứu là 23,44 ±10,29 kg, thấp
nhất là 9 kg, cao nhất là 46 kg.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Loạn nhịp sau phẫu thuật

Dân số nghiên cứu

Tỷ lệ loạn nhịp trong mẫu nghiên cứu

Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán tứ chứng
Fallot từ 2 đến 18 tuổi được nhập viện và phẫu
thuật tại khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện
Đại học Y Dược từ tháng 10/2007 đến tháng
12/2008.

Tần suất

Tỷ lệ

Nữ
Nam


33
34

48,40
51,60

Tổng cộng

67

100,00

Phân bố tuổi
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân tham
gia nghiên cứu là 9,23 ± 4,04 tuổi, nhỏ nhất là 2
tuổi, lớn nhất là 18 tuổi.

Không loạn
nhịp
Số trường
hợp
Tỷ lệ

Có loạn nhịp Tổng cộng

54
80,6

13
19,4


67
100

Thời điểm xuất hiện loạn nhịp

Tiêu chuẩn loại trừ

Thời điểm xuất hiện
loạn nhịp

Số trường hợp

Tỷ lệ (%)

- Bệnh nhân 19 tuổi hoặc lớn hơn tại thời
điểm phẫu thuật.

Trong vòng 48 giờ đầu
Khác

12
1

92,3
7,7

- Bệnh nhân có loạn nhịp mạn tính trước
phẫu thuật.


Các loại loạn nhịp

- Bệnh nhân có rối loạn điện giải và thăng
bằng kiềm toan sau phẫu thuật.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.

254

Loại loạn nhịp
Bloc nhĩ thất độ 1
Bloc nhĩ thất độ 2 (bloc NT)
Bloc nhĩ thất độ 3
Nhịp chậm xoang (NCX)
Nhịp nhanh thoát bộ nối (NNTBN)
Nhịp nhanh xoang

Số trường hợp
1
2
2
1
5
1

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Xử trí loạn nhịp
Phương
Tạo nhịp Tạo nhịp
Thuốc
pháp điều trị
tạm thời vĩnh viễn
Tần suất

3

7

1

Theo dõi
2

Hậu quả của loạn nhịp
Trong nghiên cứu của chúng tôi,1 trường
hợp tử vong do NNTBN chiếm tỷ lệ 1,49 %. 1
trường hợp phải mang máy tạo nhịp vĩnh viễn
chiếm tỷ lệ 1,49%. Tất cả bệnh nhân bị loạn nhịp
đều có thời gian lưu lại trong phòng hồi sức lâu
hơn 48 giờ (thông thường các bệnh nhân không
bị biến chứng thì thường chỉ nằm trong phòng
hồi sức dưới 48 giờ).

BÀN LUẬN
Phân bố giới tính
Trong số 67 bệnh nhân, nữ chiếm tỷ lệ

51.6%; nam chiếm tỷ lệ 48.4%. Tỷ lệ giữa nam và
nữ khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả
này cũng tương tự như nghiên cứu của
Chaiyarak K (nam/nữ= 100/91)(2), Kamel YH
(nam/nữ =70/40)(9), Rekawek K (nam/nữ =
202/200)(11).

Phân bố tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu này là 9,23 ± 4,04 tuổi. Trong khi đó
tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu
của Chaiyarak K là 39,53 tháng(2), của Kamel YH
là 2,6± 1.5 tuổi(9), của Rekawek J là 29,5 tháng(11),
của Yildirim SV là 1,7 tuổi (13).
Trên thế giới, đặc biệt tại các trung tâm phẫu
thuật tim nhi ngày càng có xu hướng phẫu thuật
cho những trẻ nhỏ tuổi, có khi chỉ vài ngày tuổi.
Từ giữa thập niên 1990, ngành phẫu thuật tim ở
nước ta mới được hình thành và phát triển, tuy
nhiên cho đến nay chúng ta vẫn chưa có điều
kiện cơ sở vật chất và kinh nghiệm phẫu thuật
cho những trường hợp trẻ cân nặng dưới 10 kg.
Đây cũng chính là lý do mẫu nghiên của chúng
tôi có tuổi trung bình của bệnh nhân cao hơn các
nghiên cứu khác.

Phân bố cân nặng
Cân nặng trung bình của bệnh nhân trong

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Nghiên cứu Y học

nghiên cứu này là 23,44 ± 10 kg, trong nghiên
cứu của Chaiyarak K là 12,5 ± 2,5kg(2), của
Kamel YH là 10,7 ± 2,2kg(9), của Rekawek J là
11,8 ± 2,8 kg(11).
Lý do cân nặng trung bình của bệnh nhân
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn các
nghiên cứu khác cũng chính là lý do đã nêu trên.

Loạn nhịp sau phẫu thuật
Tỷ lệ loạn nhịp
Trong tổng số 67 trường hợp của mẫu
nghiên cứu của chúng tôi có 13 trường hợp loạn
nhịp chiếm tỷ lệ 19,4%. Kết quả này gần tương
đương so với các nghiên cứu của Delaney JW
(15%)(3) và Rekawek J (15%)(11). Trong khi đó tỷ lệ
loạn nhịp sau phẫu thuật là 24% trong nghiên
cứu của Chaiyarak K(2) 27,2% trong nghiên cứu
của Kamel YH(9), và 27% trong nghiên cứu của
Pfammatter JP(10).
Thời điểm xuất hiện loạn nhịp
Trong nghiên cứu của chúng tôi đa số các
trường hợp loạn nhịp đều xuất hiện trong
vòng 48 giờ đầu (tỷ lệ 92,3%). Nghiên cứu của
Kamel YH cũng tương tự, 90% các trường hợp
loạn nhịp xuất hiện trong 48 giờ đầu(9). Trong
khi đó trong nghiên cứu của Chaiyarak K loạn
nhịp hầu hết xuất hiện trong vòng 24 giờ đầu

sau phẫu thuật(2).
Trong giai đoạn sớm sau phẫu thuật, tất cả
các yếu tố như mô cơ tim còn phù nề, tình trạng
huyết động không ổn định, rối loạn chuyển hóa,
đang sử dụng liều cao các thuốc vận mạch, ảnh
hưởng của tuần hoàn ngoài cơ thể, những tổn
thương cơ tim và hệ thống dẫn truyền chưa hồi
phục góp phần gây xuất hiện loạn nhịp trong
thời gian vài ngày đầu(8).

Phân bố các loại loạn nhịp
Thứ tự các loại loạn nhịp hay gặp trong giai
đoạn sớm sau phẫu thuật tứ chứng Fallot trong
nghiên cứu của chúng tôi là: bloc NT (7,46%),
NNTBN (7,46%), NCX (2,98%). NCX, bloc NT,
NNTBN cũng là các loại loạn nhịp hay gặp trong
nghiên cứu của Valsangiacomo E(12). Trong khi
đó NNTBN, nhịp nhanh trên thất, bloc NT là

255


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

thứ tự các loại loạn nhịp thường gặp trong
nghiên cứu của Gatzoulis MA(5), Kamel YH(9),
Rekawek J(11), Yildirim SV(13), Yueh-Tze L(14) và
NNTBN, bloc NT, nhịp nhanh trên thất là thứ tự

các loại loạn nhịp hay gặp trong nghiên cứu của
Chaiyarak K(2). Ngoài ra NNTBN, bloc NT là các
loại loạn nhịp thường gặp theo thứ tự trong
nghiên cứu của Delaney JW(3).

Xử trí loạn nhịp
Xử trí loạn nhịp tùy từng trường hợp cụ
thể và theo khuyến cáo của hiệp hội tim mạch
Hoa kỳ. NNTBN được xử trí bằng cách tránh
tăng thân nhiệt, an thần, kiểm soát đau, hạn
chế sử dụng catecholamine ngoại sinh và dùng
thuốc chống loạn nhịp (Amiodarone). Liều
Amiodarone chích tĩnh mạch 5mg/kg sau đó
duy trì truyền tĩnh mạch 10-15mg/kg mỗi
ngày. Bloc NT và NCX được xử trí bằng tạo
nhịp tạm thời qua điện cực được đặt thường
quy ở màng ngoài tim trước khi đóng ngực
trong quá trình phẫu thuật tim. Bloc NT được
theo dõi trong vòng 7-14 ngày trước khi quyết
định cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn(4,6).
Kết quả của nghiên cứu này cũng tương tự
nghiên cứu của Pfammatter JP(10). Trong khi đó
nghiên cứu của Chaiyarak K trong 45 trường
hợp loạn nhịp, có đến 39 trường hợp phải được
điều trị bằng thuốc, 6 trường hợp tạo nhịp tạm
thời, 1 trường hợp sốc điện, 4 trường hợp phải
dùng thuốc chống loạn nhịp kéo dài(2). Trong
nghiên cứu của Kamel YH chỉ ghi nhận 5 trường
hợp hạ sốt, 8 trường hợp được điều trị bằng
thuốc trong tổng số 30 trường hợp loạn nhịp(11).

Trong nghiên cứu của chúng tôi trong tổng
số 13 rường hợp loạn nhịp chỉ 1 trường hợp cần
phải cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn. Trong nghiên
cứu của Rekawek J thì có đến 4 trường hợp phải
cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn trong tổng số 59
trường hợp loạn nhịp(10). Trong khi đó nghiên
cứu của Chaiyarak K không có trường hợp nào
phải cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn(2).
Trong các loại xử trí NNTBN trong nghiên
cứu của chúng tôi thì hạ sốt và dùng thuốc
amiodarone thường được sử dụng nhiều nhất,

256

kết quả này cũng tương tự như trong nghiên
cứu của Hass(7).

Hậu quả của loạn nhịp
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 1 trường
hợp tử vong trong bệnh viện do NNTBN sau
phẫu thuật T4F chiếm tỷ lệ 1,49 %, 1 trường
hợp phải mang máy tạo nhịp vĩnh viễn sau
phẫu thuật T4F chiếm tỷ lệ 1,49%. Tất cả bệnh
nhân bị loạn nhịp đều có thời gian lưu lại
trong phòng hồi sức lâu hơn 48 giờ, ngắn nhất
là 72 giờ và dài nhất là 120 giờ. Nghiên cứu
của Chaiyarak K có tỷ lệ tử vong liên quan
loạn nhịp là 1%(2). Trong nghiên cứu của
Rekawek J, tử vong chiếm tỷ lệ khá cao 3,4%,
và sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm

loạn nhịp và không loạn nhịp có ý nghĩa thống
kê (p=0,03)(11). Trong nghiên cứu của Rekawek
J thời gian nằm trong phòng hồi sức của nhóm
bệnh nhân loạn nhịp cũng dài hơn(11).

KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 67 bệnh nhân tứ chứng
Fallot từ 2 đến 18 tuổi được phẫu thuật sửa chữa
dị tật tại khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện
Đại học y dược từ tháng 10/2007 đến tháng
12/2008 chúng tôi rút ra kết luận sau: Tỷ lệ loạn
nhịp trong giai đoạn sớm là 19,4%. Thời điểm
xuất hiện loạn nhịp đa số trong vòng 48 giờ đầu
trong phòng hồi sức và loại loạn nhịp hay gặp
theo thứ tự là NNTBN, bloc NT, và NCX.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

Balaji S. (2001). " Postoperative tetralogy of Fallot". Cardiac

Arrhythmias After Surgery for Congenital Heart Disease.
Arnold. London, pp 204-209.
Chaiyarak K, Soongswang J & Durongpisitkul K. (2008).
"Arrhythmia in early post cardiac surgery in pediatrics: Siriraj
experience". J Med Assoc Thai, 91(4), pp.507-514.
Delaney JW, Moltedo JM, Dziura JD, Kopf GS & Snyder CS.
(2006). Early postoperative arrhythmias after pediatric cardiac
surgery. J Thorac Cardiovasc Surg, 131(6), pp.1296-1300.
Fishberger SB & et al (2008). Congenital cardiac surgery
without routine placement of wires for temporary pacing.
Cardiol Young, 18: 96-99.
Gatzoulis MA & et al. (2000). Risk factor for arrhythmias and
sudden cardiac death late after repair of tetralogy of Fallot.
Lancet, 356: 975-981.
Gregoratos G & et al. (2002). ACC/AHA/NASPE 2002
guidline update for implantation of cardiac pacemaker and
antiarrhythmic device. Circulation, 106: 2145-2161.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
7.

8.

9.

10.


Hass NA & Camphausen CK. (2008). Impact of early and
standardized treatment with amiodarone on therapeutic
success and outcome in pediatric patient with post- operative
arrhythmia. J.Thorac. Cardiovasc. Surg 136: 1215-1222.
Jacobs ML & et al. (2005). Current status of the European
association for cardio-thoracic surgery and the society of
thoracic surgeons congenital heart surgery database. Ann
Thorac Surg, 80: 2278-2284.
Kamel YH & et al. (2009). Arrhythmias as Early PostOperative Complication of Cardiac Surgery in Children at
Cairo University. J. Med. Sci: 1682-4474.
Pfammatter JP. (2001. Jul). Early postoperative arrhythmias
after open-heart procedures in children with congenital heart
disease. Pediatr Crit Care Med, 2(3): 217-222.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

11.

12.

13.

14.

Nghiên cứu Y học

Rekawek Joanna & et al. (2007). Risk factors for cardiac
arrhythmias in children with congenital heart disease after
surgical intervention in the early postoperative period. J
Thorac Cardiovasc Surg, 133: 900-904.

Valsangiacomo E, Schmid ER, Schpbach RW & et al (2002).
Early postoperative arrhythmias after cardiac operation in
children. Ann Thorac Surg, 74: 792-796.
Yildirim SV & et al. (2008). The incidence and risk factors of
arrhythmias in the early period after cardiac surgery in
pediatric patients. The Turkish Journal of Pediatrics, 50: 549553.
Yueh-Tze Lan. (2003). Postoperative arrhythmia. Current
Opinion in Cardiology, 18(2): 73-78.

257



×