Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.8 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LO ÂU, TRẦM CẢM
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI HÀ NỘI
Trần Thị Thanh Hương1,2, Nguyễn Thị Thúy Linh2, Trần Văn Thuấn2
1

Viện đào tạo Y học Dự phòng &Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
2
Viện Ung thư quốc gia, Bệnh viện K

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới tại Việt Nam. Người bệnh ung thư vú không những
chịu đựng nỗi đau về thể xác mà còn về tinh thần. Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu ở Việt Nam tìm hiểu về
tình trạng lo âu, trầm cảm trên nhóm đối tượng này. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với thang đo lo âu, trầm
cảm của bệnh viện HADS (Anxiety, Depression in Hospital Scale) được sử dụng để phỏng vấn 264 bệnh
nhân ung thư vú tại Hà Nội. Kết quả cho thấy bệnh nhân ung thư vú có lo âu thực sự, trầm cảm thực sự, vừa
có lo âu thực sự và vừa có trầm cảm thực sự chiếm 28,8%, 15,9% 13,3% một cách tương ứng. Những yếu
tố liên quan đến lo âu được xác định là số năm học, phương pháp điều trị, trong khi đó, những yếu tố liên
quan đến trầm cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế. Cần có can thiệp thích hợp trên nhóm
phụ nữ bị ung thư vú với tình trạng lo âu, trầm cảm để đảm bảo chất lượng cuộc sống của họ.
Từ khóa: lo âu, trầm cảm, ung thư vú, thang đo HADS

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

không mong muốn do các phương pháp điều

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở

trị gây ra thì bệnh nhân ung thư vú thường

phụ nữ cả ở các nước phát triển và các nước



phải đối mặt với những vấn đề về tâm lý như

đang phát triển. Tại Việt nam, theo số liệu ghi

lo âu, trầm cảm [3].

nhận ung thư năm 2010, ung thư vú đứng
hàng đầu ở nữ giới với tỷ lệ mắc chuẩn theo
tuổi trung bình trong cả nước là 29,9/100.000
dân. Ước tính năm 2020, con số này là
38,1/100.000 [1; 2]. Ung thư vú không những
trở thành mối đe dọa cho sức khỏe của phụ
nữ về thể chất và tinh thần mà còn mang tới
gánh nặng về kinh tế xã hội.
Người phụ nữ khi được chẩn đoán mắc
ung thư vú đã phải trải qua rất nhiều cung bậc

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra sự
hỗ trợ để giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội
đem lại lợi ích rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị
cho bệnh nhân ung thư vú cũng như nâng cao
chất lượng sống cho họ [4]. Tuy nhiên, tại Việt
Nam, những nghiên cứu về vấn đề này còn
rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài
với mục tiêu nhằm xác định một số yếu tố liên
quan tới lo âu, trầm cảm của bệnh nhân ung
thư vú tại Hà Nội năm 2015.

cảm xúc như sốc, lo lắng, sợ hãi, từ chối điều

trị. Trong quá trình điều trị, bên cạnh những
đau đớn về thể chất và các tác dụng
Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Thanh Hương, Viện Đào tạo
Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y
Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 30/5/2018
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018

TCNCYH 113 (4) - 2018

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Thời gian và địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện
K, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, Trung tâm Y
học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch
Mai Hà Nội từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2016.
2. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
139


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3. Đối tượng

5. Công cụ và kỹ thuật thu thập thông

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân nữ đã được chẩn đoán xác
định là ung thư vú nguyên phát trong vòng 2
năm tính đến thời điểm phỏng vấn và đang

điều trị tại bệnh viện.
- Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên.

tin
5.1. Công cụ thu thập thông tin: sử dụng
thang đo lo âu, trầm cảm tại bệnh viện HADS
(Hospital

Anxiety

and

Depression Scale),

gồm có 14 câu trong đó 7 câu đánh giá về lo
âu và 7 câu đánh giá về trầm cảm [5]. Bệnh
nhân cần cung cấp các thông tin liên quan tới

- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.

các dấu hiệu này theo 4 mức độ từ 0 tới 3

Tiêu chuẩn loại trừ

điểm. Kết quả được phân tích theo điểm trung

- Bệnh nhân đang trong tình trạng quá yếu,
không thể tham gia nghiên cứu.
- Không đủ thể lực và tinh thần để hoàn
thành phỏng vấn.

- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.

bình của tổng điểm mỗi loại câu hỏi A (lo âu)
hay D (trầm cảm) và theo các mức độ:
- Từ 0 đến 7 điểm: bình thường.
- Từ 8 đến 10 điểm: gợi ý có thể có triệu
chứng của lo âu hoặc trầm cảm.
- Từ 11 đến 21 điểm: lo âu hoặc trầm cảm

4. Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu

(lo âu hay trầm cảm thực sự).

4.1.Cỡ mẫu: được xác định dựa trên công

6. Kỹ thuật thu thập thông tin: Phỏng
vấn bệnh nhân theo bộ câu hỏi.

thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu ngang mô tả
với độ tin cậy 95%, sai số ước lượng là 0,17;
tỷ lệ ước tính tỷ lệ lo âu là 0,35 như sau:
(p.(1 - p)
n = Z2(1- α/2)

(ε2.p2

7. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi đã làm sạch thì được nhập
bằng phần mềm Epidata 3.1, sau đó được xử

lý và phân tích bằng các thuật toán thống kê y
học trên phần mềm STATA 12.0. Các test

Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết; α:

thống kê được sử dụng là Chi bình phương và

độ tin cậy. Tương ứng với độ tin cậy 95%, p:
tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú bị lo âu trong

Fisher’s exact test, sử dụng mô hình hồi quy

nghiên cứu năm 2011 ở Thổ Nhĩ Kỳ [4]; Ɛ: sai
số mong muốn. Đưa vào công thức ta tính

số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm.

được cỡ mẫu tối thiểu là 247 bệnh nhân.
4.2. Chọn mẫu
Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện.
Lựa chọn tất cả bệnh nhân ung thư vú

logistic đơn biến hoặc đa biến để xác định một

8. Đạo đức nghiên cứu
Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả các
đối tượng nghiên cứu được cung cấp thông
tin rõ ràng liên quan đến mục tiêu nội dung

nguyên phát đang điều trị tại các cơ sở

chuyên khoa ung bướu ở Hà Nội đồng ý tham

nghiên cứu và tự nguyện quyết định tham gia

gia nghiên cứu cho tới khi đủ số bệnh nhân.

thoả thuận đồng ý tham gia nghiên cứu.

140

vào nghiên cứu thông qua việc ký tên vào bản

TCNCYH 113 (4) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Số lượng = 264

%

27 - 39

39

14,8


40 - 49

72

27,3

50 - 59

92

34,8

≥ 60

61

23,1

Nhóm tuổi

Tuổi trung bình

51,1 ± 10,6 (min = 27; max = 77)

Tình trạng hôn nhân
Sống chung với chồng/bạn tình

229


86,7

Ly hôn/goá chồng/độc thân

35

13,3

0-5

23

8,7

6 – 12

209

79,2

> 12

32

12,1

Số năm học đã hoàn thành

Số năm học trung bình


8,9 ± 3,2 (min = 1; max = 18)

Loại Bảo hiểm y tế được chi trả
0% (không có bảo hiểm y tế)

11

40%

6

80%

147

95%

31

100%

69

Thời gian được chẩn đoán bệnh (tháng)
< 3 tháng

49

3 - 6 tháng


125

7 - 12 tháng

57

> 12 tháng

33

Thời gian trung bình được chẩn đoán (tháng)

6,7 ± 5,5 (min = 1; max = 24)

Phương pháp đã điều trị
Một phương pháp

104 (39,4%)

Từ 2 phương pháp trở lên

160 (60,4%)

TCNCYH 113 (4) - 2018

141


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 51 tuổi (51,1 ± 10,6). Nhóm tuổi từ 50 - 59

chiếm tỷ lệ cao nhất với 34,8%. Trong số đối tượng tham gia nghiên cứu, nhóm bệnh nhân đã kết
hôn hoặc chưa kết hôn nhưng đang chung sống cùng bạn tình chiếm tỷ lệ 86,7%. Về trình độ học
vấn: số năm học trung bình là 9 năm (8,9 ± 3,2). Hầu hết bệnh nhân đều có bảo hiểm y tế được
hưởng ở các mức độ khác nhau trong đó bệnh nhân được hưởng bảo hiểm y tế 80% chiếm tỷ lệ
cao nhất là 57,7%. Về đặc điểm liên quan tới bệnh, thời gian mắc bệnh trung bình của đối tượng
nghiên cứu tại thời điểm nghiên cứu là 6,7 tháng (SD = 5,5); nhóm có thời gian mắc từ 3 - 6
tháng chiếm tỷ lệ cao nhất với 47,3%. Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu, có tới 60,4%
bệnh nhân ung thư vú đã được điều trị từ hai phương pháp trở lên.

Biểu đồ 1. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 1 cho thấy có 28,8% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn lo âu thực sự và 23,1% bệnh
nhân ung thư vú có triệu chứng của lo âu; 23,9% bệnh nhân ung thư vú có triệu chứng của trầm
cảm và 15,9% bệnh nhân ung thư vú cho thấy tình trạng trầm cảm thực sự. Khi xem xét sự kết
hợp của nhóm lo âu và trầm cảm này thì có 19,7% bệnh nhân ung thư vú có cả triệu chứng lo âu
và trầm cảm và có đến 13,3% bệnh nhân ung thư vú vừa có rối loạn lo âu và vừa có rối loạn trầm
cảm thực sự.
Bảng 2. Phân bố tỷ lệ lo âu và trầm cảm theo một số đặc điểm
về nhân khẩu học và tình trạng bệnh
Đặc điểm

Lo âu

p

Trầm cảm

Không

Có n (%)


Không

Nhóm tuổi
27 - 39

24 (61,5)

15 (38,5)

35 (89,7)

4 (10,3)

40 - 55
50 - 59

53 (73,6)
67 (72,8)

19 (26,4)
25 (27,2)

62 (86,1)
73 (79,4)

10 (13,9)
19 (20,7)

≥ 60


44 (72,1)

17 (27,9)

52 (85,3)

9 (14,8)

142

0,547*

p



0,480
**

TCNCYH 113 (4) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đặc điểm

p

Lo âu
Không
n (%)



n (%)

Trầm cảm
Không
n (%)


n (%)

194(84,7)

35(15,3)

28(80,0)

7(20,0)

16(69,6)
175 (83,7)

7(30,4)
34(16,3)

31(96,9)

1(3,1)

p


Tình trạng hôn nhân
Sống chung với chồng/bạn tình

163(71,2)

66(28,8)

Ly hôn/góa/độc thân

25(71,4)

10(28,6)

Số năm học đã hoàn thành
0-5
6 - 12

15(65,2)
143(68,4)

8(34,8)
66(32,6)

>12

30(93,4)

2(6,3)


Tình trạng công việc
Bán thời gian

24(75,0)

8(25,0)

Không làm việc
Toàn thời gian

52(72,2)
112(70,0)

20(27,8)
48(30,0)

Bảo hiểm y tế
Không có bảo hiểm y tế

6(54,6)

5(45,5)

Có bảo hiểm y tế

182(71,9)

71(28,1)

Thời gian được chẩn đoán

bệnh (tháng)
≤ 6 tháng
> 6 tháng

61(67,8)
127(73,0)

29(32,2)
47(27,1)

8(44,4)

10(55,6)

180(73,2)

66(26,8)

7(16,7)

35(83,3)

181(81,5)

41(18,5)

Đang điều trị
≥ 2 phương pháp
1 phương pháp
Trầm cảm


Không

0,976

0,005

0,829**

0,212**

0,375*

0,009*

0,000*

30(93,6)

2(6,3)

60(83,3)
132(82,5)

12(16,7)
28(17,5)

0,477

0,019**


0,301**

6(54,6)

5(45,5)

216(85,4)

37(14,6)

74(82,2)
148(85,1)

16(17,8)
26(14,9)

0,550*

14(77,8)

4(22,2)

0,501**

208(84,6)

38(15,5)

0,006**


14(77,8)
208(84,6)

Lo âu


41(54,0)

35(46,0)

Không

181(96,3)

7(3,7)

0,000*

(*) test ᵪ2; (**): Fisher's exact test.
Đối với rối loạn lo âu, tỷ lệ bệnh nhân lo âu ở nhóm có số năm đi học 0-5 năm (34,8%) cao
hơn nhóm có số năm đi học trên 5 năm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ
bệnh nhân ung thư vú bị lo âu mà đang điều trị từ 2 phương pháp trở lên cao gấp đôi so với bệnh

TCNCYH 113 (4) - 2018

143


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

nhân bị lo âu chỉ điều trị 1 phương pháp và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,009)
(bảng 2).
Đối với rối loạn trầm cảm, sự khác biệt giữa tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú có rối loạn trầm cảm
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân không có bảo hiểm y tế và nhóm bệnh
nhân có bảo hiểm y tế (p < 0,05) và giữa nhóm bệnh nhân có số năm đi học từ 0 - 5 năm với
nhóm có số năm đi học > 6 năm với p < 0,05 (bảng 2).
Bảng 3. Phân tích đa biến một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu,
trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú
Đặc điểm

Lo âu

Trầm cảm

OR hiệu
chỉnh

95%CI

Số năm học đã hoàn thành
0-5

4,91

0,70 - 34,55

3,68

0,31 - 43,5


6 - 12
> 12

7,00
1

*

1,42 - 34,36

1,52
1

0,17 - 14,02
-

Tình trạng công việc
Bán thời gian

0,54

0,18 - 1,69

2,84

0,50 - 16,28

Không làm việc
Toàn thời gian


0,68
1

0,25 - 1,88
-

2,79
1

0,54 - 14,37
-

Bảo hiểm y tế
Không có bảo hiểm y tế

0,82

0,15 - 4,61

4,31

0,86 - 21,26

1

-

1

-


Thời gian được chẩn đoán
bệnh (tháng)
≤ 6 tháng
> 6 tháng

0,78
1

0,40 - 1,55
-

0,91
1

0,39 - 2,11
-

Đang điều trị
≥ 2 phương pháp

4,77

1,51 - 15,12**

0,91

0,39 - 2,11

1


-

1

-

23,30

9,11 - 59,56**

1

-

Lo âu


23,56

9,16 - 60,59**

Không

1

-

Có bảo hiểm y tế


1 phương pháp
Trầm cảm

Không

OR hiệu
chỉnh

-

95%CI

(*) p < 0,05; (**): p < 0,01
144

TCNCYH 113 (4) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3 cho thấy khi sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến thì: lo âu ở bệnh nhân ung thư
vú có tương quan với số năm học đã hoàn thành, hiện tại đang điều trị từ 2 phương pháp trở lên
và tình trạng trầm cảm của đối tượng nghiên cứu (p < 0,05). Tình trạng trầm cảm của bệnh nhân
ung thư vú có tương quan với tình trạng lo âu của nhóm đối tượng này.

IV. BÀN LUẬN

tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy


hầu như là thấp hơn. Nghiên cứu của Stafford

ở nhóm lo âu có 28,8% bệnh nhân ung thư vú

và cộng sự (2013) cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở

có rối loạn lo âu thực sự và 23,1% bệnh nhân

nhóm bệnh nhân ung thư vú và phụ khoa là

ung thư vú có triệu chứng của lo âu. Kết quả

32,5% [10]. Kết quả nghiên cứu lo âu, trầm

này thấp hơn so với nghiên cứu của Dansta

cảm của 205 bệnh nhân ung thư vú tại Malay-

và Buzlus sử dụng thang đo HADS trên

sia được chẩn đoán từ năm 2007 - 2010 sử

những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu

dụng thang đo HADS cho thấy tỷ lệ bệnh nhân

(giai đoạn 1 và giai đoạn 2) ở Thổ Nhĩ Kỳ năm

có rối loạn trầm cảm là 22% [6]. Tuy nhiên,


2011 là 35,1% [4]. Tỷ lệ lo âu trong nghiên

của Lueboonthavatchai năm 2007 với kết quả

cứu của Hassan và cộng sự trên 205 bệnh

được báo cáo chỉ có 9% bệnh nhân ung thư

nhân ung thư vú tại Malaysia là 31,7% và 38%

vú có rối loạn trầm cảm thực sự, 16,7% có

trong nghiên cứu của Mehnert A và Koch U [6;

triệu chứng của trầm cảm [8].

7]. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này lại

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lo âu và

cao hơn nghiên cứu năm 2007 của Lue-

trầm cảm có mối liên quan với trình độ học

boonthavatchai trên cùng thang đo, chỉ ra có

vấn của đối tượng nghiên cứu. Điều này có

16% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn lo âu


thể do nhóm đối tượng nghiên cứu này có

thực sự,19% có triệu chứng của lo âu và cao

nhận thức không cao về nguyên nhân cũng

hơn tỷ lệ báo cáo trong nghiên cứu của Tho-

như khả năng điều trị căn bệnh ung thư vú

mas tại Ấn Độ là 19% bệnh nhân ung thư có

của mình do đó dễ rơi vào trạng thái lo âu.

rối loạn lo âu thực sự [5; 8].

Nhóm bệnh nhân đang điều trị ung thư vú kết

Tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của

hợp từ hai phương pháp trở nên có nguy cơ

chúng tôi cũng tương đồng với kết quả này

bị lo âu gấp 4,77 lần so với nhóm bệnh nhân

phù hợp với nghiên cứu của Zainal năm 2013

đang điều trị bằng một phương pháp, mối liên


về tỷ lệ trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú

quan này là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

tổng hợp từ 32 nghiên cứu mô tả cắt ngang

Trong điều trị ung thư vú, việc lựa chọn

trên thế giới, với tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở

phương pháp điều trị phụ thuộc vào giai đoạn

bệnh nhân ung thư vú của các nước trung

bệnh, thể trạng người bệnh và một số yếu tố

bình là 22% (dao động từ 1% - 56%), trong đó

về lâm sàng, cận lâm sàng. Việc cùng một

tỷ lệ này các nước phương Tây chỉ ra trong

lúc phải chịu nhiều ảnh hưởng như mệt mỏi,

khoảng từ 1% - 56%; trong khi nghiên cứu

đau đớnŒ sẽ khiến cho bệnh nhân dễ lo âu,

của các nước châu Á chỉ ra tỷ lệ trầm cảm từ


trầm cảm hơn.

12,5% - 31% [9] . Khi so sánh tỷ lệ trầm cảm

Nhóm bệnh nhân ung thư vú không có bảo

với một số nghiên cứu trong khu vực cho thấy

hiểm y tế có tỷ lệ bị trầm cảm là cao gấp 3 lần

TCNCYH 113 (4) - 2018

145


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhóm có bảo hiểm y tế (14,6%) và sự khác

vatchai đã chỉ ra các yếu tố liên quan chặt

biệt này là có ý nghĩa thống kê. Nhiều bệnh

chẽ đến lo âu trầm cảm được chỉ ra trong
nghiên cứu này (p < 0,01) bao gồm: các yếu

nhân ung thư vú khi mới mắc ung thư thì một
trong những vấn đề mà họ lo lắng nhất là tài
chính, họ sợ không có tiền chữa bệnh, sợ vay

tố tâm lý xã hội đó là sự hỗ trợ xã hội, mối

quan hệ không tốt trong gia đình và cách giải

gia đình, sợ chữa tốn nhiều chi phí mà không

quyết xung đột giữa các vấn đề không tốt [8].
Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư

khỏi bệnhŒ

vú tại Malaysia sử dụng mô hình hồi quy lo-

nợ không trả được, sợ đem lại gánh nặng cho

Khi xem xét trong mô hình đa biến, nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy những người có
trầm cảm thì sẽ có xác suất mắc lo âu cao gấp
23,30 lần so với những người không có trầm

gistic nhị phân cho thấy: nhóm bệnh nhân trẻ
tuổi thu nhập thấp có nguy cơ bị lo âu cao
hơn và nhóm bệnh nhân có sự hỗ trợ tài
chính sống độc thân có nguy cơ trầm cảm

cảm, tương tự những bệnh nhân có lo âu có

cao hơn gấp 3 - 4 lần [6]. Một nghiên cứu
khác của Dansta và Buzlus ở Thổ Nhĩ Kỳ

nguy cơ bị trầm cao cao gấp 23,56 những


năm 2011 nhận thấy yếu tố liên quan rất

bệnh nhân không lo âu và mối liên quan này là

quan trọng đến lo âu đó là nhóm bệnh nhân
có thu nhập thấp. Trong khi đó, yếu tố có tiền

có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả này
cũng tương đồng với nghiên cứu của Bjelland
và cộng sự năm 2002 [5].
Với bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thì
các yếu tố như đau đớn về thể xác, các lo
lắng về bệnh tật, về tài chính cũng như các
vấn đề liên quan đến cuộc sống sẽ là những

sử gia đình mắc ung thư vú và yếu tố phẫu
thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú là những yếu tố
làm tăng tỷ lệ trầm cảm [4].

V. KẾT LUẬN
28,8% bệnh nhân ung thư vú có lo âu thực

nguyên nhân dẫn đến cả lo âu và trầm cảm ở
bệnh nhân. Điều này lý giải tại sao giữa lo âu

sự, 15,9% bệnh nhân ung thư vú có trầm cảm

và trầm cảm lại có mối tương quan chặt chẽ

âu và trầm cảm này thì 13,3% bệnh nhân ung


đến vậy. Như vậy những yếu tố liên quan đến
lo âu được xác định là số năm học, phương

thư vú vừa lo âu thực sự và vừa có trầm cảm

pháp điều trị và tình trạng trầm cảm. Trong khi
đó, những yếu tố liên quan đến trầm cảm là số

được xác định là số năm học, phương pháp

năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế và
tình trạng lo âu. Trên thế giới, nghiên cứu tổng

Trong khi đó, những yếu tố liên quan đến trầm

hợp của Zainal năm 2013 này cũng đã chỉ ra
sự liên quan giữa trầm cảm trên bệnh nhân
ung thư vú với một số biến nhân khẩu học, xã
hội, các yếu tố về tâm ý, lối sống sự hỗ trợ xã
hội và chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu

thực sự. Khi xem xét sự kết hợp của nhóm lo

thực sự. Những yếu tố liên quan đến lo âu
điều trị và tình trạng trầm cảm (p < 0,05).
cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo
hiểm y tế và tình trạng lo âu (p < 0,05).

LỜI CẢM ƠN

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo

cũng đã khẳng định việc phát hiện ra các yếu
tố liên quan đến trầm cảm trên bệnh nhân ung

Bệnh viện K, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện

thư vú là rất quan trọng trong thực hành lâm

để chúng tôi thu thập số liệu và hoàn thành

sàng [9]. Trong nghiên cứu của Lueboontha-

nghiên cứu này.

146

Ung bướu Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi

TCNCYH 113 (4) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
6. Hassan M.R., S. A. Shah S.A, Ghazib

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Agency for Research
on Cancer (2012). Breast Cancer Estimated Incidence, Mortality and Prevalence
Worldwide in 2012. Globocan 2012.
2. Bùi Diệu, Nguyễn Bá Đức, Trần Văn

Thuấn và cộng sự (2012). Gánh nặng
bệnh ung thư và chiến lược phòng chống
ung th ư quốc gia đến năm 2020. Tạp chí
Ung thư học - Hội thảo quốc gia phòng chống
ung thư lần thứ 6, 13 - 19.
3. Maria

Hewitt, Roger Herdman và

Jimmie Holland (2004). Pschosocial needs
of women with breast cancer. Meeting pschosocial needs of women with breast cancer,
The National Academies press, Woashing ton
D.C, 21 - 69.
4. Dastan N.B., Buzlu S (2011). Depression and anxiety levels in early stage Turkish
breast cancer patients and related factors.
Asian Pac J Cancer Prev, 12 (1), 137 - 141.
5. Bjelland I., Dahl A.A, Haug T.T et al
(2002). The validity of the Hospital Anxiety
and Depression Scale. An updated literature review. J Psychosom Res, 52(2), 69 - 77.

H.F et al (2015). Anxiety and Depression
among Breast Cancer Patients in an Urban Setting in Malaysia. Asian Pac J Cancer
Prev, 16 (9), 4031 - 4035.
7. Mehnert A., Koch U. (2008). Psychological comorbidity and healthrelated quality of
life and its association with awareness, utilization and need for psychosocial support in a
cancer register-based sample of long-term
breast cancer survivors. J Psychosom Res, 64
(4), 383 - 391.
8. Lueboonthavatchai P. (2007). Prevalence and psychosocial factors of anxiety
and depression in breast cancer patients. J

Med Assoc Thai, 90 (10), 2164 - 2174.
9. Zainal NZ., Nik-Jaafar NR, Baharudin
A et al (2013). Prevalence of depression in
breast cancer survivors: a systematic review of observational studies. Asian Pac J
Cancer Prev, 14(4), 2649 - 2656.
10. Stafford L., Judd F., Gibson P et al
(2013). Screening for depression and anxiety
in women with breast and gynaecologic cancer: course and prevalence of morbidity over 12
months. Psychooncology, 22(9), 2071 - 2078.

Summary
RELATED FACTORS WITH ANXIETY, DEPRESSION
IN WOMEN WITH BREAST CANCER IN HANOI
Breast cancer is the most common cancer in women in Vietnam. Patients suffered from physical and psychological pain. However, there are limited studies on anxiety and depression among
women with breast cancer in Vietnam. A cross-sectional study with the HADS scale was used to
identify related factors to anxiety and depression by interviewing 264 diagnosed women in Hanoi.
The results showed that patients with anxiety, depression, and combined anxiety and depression
are 28.8%, 15.9% and 13.3% repectively. Associated factors with anxiety are education level and
the methods of treatment. Associated factors with depression are the level of education and the
health insurance. Intervention on women with breast cancer with anxiety and depression is
needed to improve their quality of life.
Keywords: anxiety, depression, breast cancer, women, HADS scale

TCNCYH 113 (4) - 2018

147




×