Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả ban đầu của phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng ruột theo phương pháp padua ở Bệnh viện Bình Dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.37 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT TẠO HÌNH  
BÀNG QUANG BẰNG RUỘT THEO PHƯƠNG PHÁP PADUA 
 Ở BỆNH VIỆN BÌNH DÂN 
Nguyễn Văn Ân*, Nguyễn Ngọc Châu* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và khả thi của phương pháp Padua trong tạo hình bàng 
quang bằng ruột sau phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc. 
Tư liệu & Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca trên lâm sàng. Áp dụng phương pháp Padua cho 
bệnh nhân cắt bàng quang tận gốc do ung thư có đủ điều kiện để tạo hình bàng quang bằng ruột tại bệnh viện 
Bình Dân. Chúng tôi theo dõi và đánh giá biến chứng chu phẫu, chức năng của bang quang tân tạo, khả năng 
trào ngược bàng quang – niệu quản và chức năng thận. 
Kết quả: Từ tháng 3/2008 đến 3/2013, chúng tôi áp dụng phương pháp thay thế bàng quang bằng ruột kiểu 
Padua cho 21 bệnh nhân sau khi cắt bàng quang tận gốc. Thời gian phẫu thuật trung bình là 413 phút (từ 390 
đến 525 phút); lượng máu mất trung bình 280ml (200 đến 500ml); không ghi nhận biến chứng trong lúc mổ; 
thời gian nằm viện trung bình 15 ngày(từ 9 đến 28 ngày). Có 4 trường hợp có biến chứng sau mổ liên quan đến 
việc tạo hình bao gồm: 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp bụng thành bụng phải khâu lại bằng chỉ 
thép, 2 trường hợp bán tắc ruột điều trị nội khoa ổn. Thời gian theo dõi trung bình là 8 tháng (từ 6‐14 tháng). 
Chức năng của bàng quang tân tạo được đánh giá bằng hình ảnh học và niệu động học cho kết quả ban đầu khá 
tốt. 
Kết luận: Kết quả bước đầu cho thấy tạo hình bàng quang bằng ruột theo phương pháp Padua an toàn , 
hiệu quả tốt về mặt chức năng của bàng quang tân tạo cũng như khả năng chống trào ngược bàng quang 
niệu quản. Tuy nhiên cần có số lượng và thời gian nghiên cứu nhiều hơn để đánh giá chính xác hơn. 
Từ khóa: Tạo hình bàng quang bằng ruột; Phương pháp Padua  
ABSTRACT 
PREMILINARY RESULTS OF VESICA ILEAL PADUA NEOBLADDER AT BINH DAN HOSPITAL 
Nguyen Van An, Nguyen Ngoc Chau 


 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 241 ‐ 246 
Introduction and objective: We reviewed our initial results with orthotopic neobladder reconstruction by 
the Padua ileal bladder after radical cystectomy to assess the safety and the efficacy.  
Patients  &  Methods: This  is  a  case  series  study.  Between  March  2008  and  March  2012,  21  patients 
underwent  orthotopic  ileal  neobladder  by  the  Padua  procedure  after  radical  cystectomy.  We  evaluated 
perioperative complications, functional outcome of the neobladder, vesicoureteral reflux and renal function. 
Results: Average operation time for orthotopic continent urinary reconstruction was 413 minutes (ranging 
from  390  to  525  minutes).  Blood  loss  was  280ml  (ranging  from  200  to  500ml).  There  was  no  intraoperative 
complication and perioperative death. Mean hospital stay was 15 days (ranging from 9 – 28 days). Postoperative 
 Khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân 

 

Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Văn Ân 

 

*

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

ĐT: 0908163284  

 Email:   

241


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

complication rates were low: 2 paralytic ileus; 2 wound infections. The follow‐up period was 8 months (ranging 
from  6  to  14  months).  At  6  months  after  operation,  voiding  cystourethrography  demonstrated  a  nonrefluxing 
reservoir  with  adequate  capacity  in  patients.  IVP  demonstrates  excellent  upper  tract,  perhaps  due  to  efficient 
antireflux. 
Conclusions:  Our  preliminary  results  show  that  the  Padua  procedure  is  a  safe  and  satisfactory  surgical 
technique for patients after radical cystectomy, giving a nonrefluxing reservoir. Long follow up is needed. 
Key words: Enterocystoplasty; Padua’s procedure. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 

TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Cắt  bàng  quang  tận  gốc  là  phương  pháp 
điều  trị  ung  thư  bàng  quang  xâm  lấn  hiệu  quả 
nhất. Sau khi cắt bàng quang tận gốc thì việc tạo 
hình bàng quang trực vị là lựa chọn tối ưu giúp 
cho bệnh nhân có chất lượng cuộc sống tốt hơn 
dễ hòa nhập với cộng đồng hơn(10). 

Tư liệu nghiên cứu 

Có  rất  nhiều  phương  pháp  tạo  hình  bàng 
quang  bằng  ruột  sau  khi  cắt  bàng  quang  toàn 
phần,  trong  đó  thông  dụng  là:  Camey,  Studer, 
Hautmann, Mainz, T  pouch…  Khi  cắm  lại  niệu 
quản  vào  bàng  quang  tân  tạo,  cũng  có  nhiều 
phương  pháp  khác  nhau,  trong  đó  phổ  biến  là 
phương pháp Le Duc – Camey và phương pháp 

Studer.Nhưng chưa có phương pháp nào chứng 
tỏ vượt trội hoàn toàn(3,4,5,6,9). 
Điểm mấu chốt của các kỹ thuật cắm lại niệu 
quản là tránh hẹp và chống ngược dòng, nhằm 
tránh  biến  chứng  lâu  dài  lên  đường  tiểu  trên 
như chướng nước thận, viêm thận ngược dòng, 
thậm chí suy thận. 
Khi  nghiên  cứu  y  văn  chúng  tôi  thấy 
phương pháp Padua: vừa có cách xếp ruột non 
tạo hình bàng quang độc đáo, vừa có cách cắm 
lại niệu quản với đường hầm dưới thanh mạc để 
chống ngược dòng gần giống  với  cơ  chế  chống 
ngược  dòng  của  khúc  nối  niệu  quản  –  bàng 
quang nguyên thủy(7,8). 
Nghiên  cứu  này  nhằm  đánh  giá  hiệu  quả, 
tính an toàn, mức độ khả thi, cũng như nhận xét 
ưu nhược điểm của phương pháp Padua so với 
những phương pháp tạo hình bang quang bằng 
ruột thông dụng khác. 

242

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân ung thư bàng quang xâm lấn còn 
chỉ định cắt bàng quang tận gốc. 
Bệnh nhân có thể trạng trung bình hoặc tốt. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật, không 
theo dõi định kỳ. 

Bệnh nhân có các bệnh lý nội khoa không đủ 
điều kiện phẫu thuật. 

Phương pháp nghiên cứu 
Cách tiến hành nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca trên lâm sàng.  

Phương pháp phẫu thuật 
Sau khi cắt bàng quang tận gốc, chúng tôi 
chọn  một  đoạn  hồi  tràng  dài  40cm,  có  mạch 
máu  nuôi  tốt  và  cách  van  hồi  manh  tràng 
khoảng 20‐25cm.  
Cắt  hai  đầu  đoạn  ruột  đã  chọn.  Mạc  treo 
ruột  giải  phóng  đủ  dài  để  không  căng  khi  nối 
bàng  quang  mới  vào  niệu  đạo.  Khâu  phục  hồi 
ruột tận ‐ tận, khâu lại mạc treo ruột. 
Phần đoạn ruột đã cô lập được xẻ dọc theo 
bờ  tự  do,  sau  đó  được  khâu  gấp  lại  2  lần  theo 
hình 1A . 
Tiếp  theo  tạo  hình  phần  cổ  bàng  quang 
(hình 1B).  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

quang,  lượng  máu  mất  trung  bình,  các  tai  biến 

phẫu thuật), hậu phẫu (thời gian nằm viện, thời 
gian rút dẫn lưu, thời điểm rút thông niệu đạo, 
biến chứng hậu phẫu). 

A    

 
Hình 2. Tạo đường hầm thanh mạc để cắm 2 niệu 
quản(8).  

Hình 1. Xếp ruột và gấp ruột để tạo phần dưới 
bàng quang(8). 
Cắm niệu quản vào bàng quang: Lưu ý rằng 
phương  pháp  cắm  lại  2  niệu  quản  vào  bàng 
quang tân tạo của phương pháp Padua là phỏng 
theo nguyên tắc của phương pháp Abol Enein – 
Ghoneim, cho phép tạo đường hầm khá dài gần 
giống như cơ chế chống trào ngược bang quang 
– niệu quản tự nhiên. Mô tả như sau (hình 2): 
‐  Hai  bờ  tự  do  của  đường  hầm  bên  phải 
được  khâu  dính  thanh  mạc  với  nhau  bằng  3‐4 
mũi  vicryl  3.0  để  tạo  thành  nền  cho  cho  phần 
cắm niệu quản. 
‐ Sau đó phần niêm mạc của 2 bờ tự do ngay 
nền niệu quản được khâu với nhau để niêm mạc 
che phủ toàn bộ niệu quản.  
‐  Lưu  ý  rằng  niệu  quản  trái  đi  xuyên  mạc 
treo trước khi vào BQ tân tạo. 
Sau đó khâu nối cổ  bàng quang tân tạo với 
niệu đạo: Dùng chỉ Vicryl 4.0 khâu 6 hoặc 8 mũi 

rời. 
Chúng  tôi  theo  dõi  và  ghi  nhận  các  biến  số 
trong mổ (thời gian mổ, thời gian tạo hình bàng 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

Kế  hoạch  theo  dõi  sau  mổ:  bệnh  nhân  đến 
tái  khám  sau  mổ  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng  ,  1 
năm.  Chúng  tôi  ghi  nhận  các  biến  chứng  sau 
mổ,  đánh  giá  chức  năng  bàng  quang  tân  tạo 
bằng Xquang cản quang hệ niệu sau 6 tháng và 
bằng xét nghiệm niệu động học sau 1 năm. 

KẾT QUẢ  
Từ tháng 3/2008 đến tháng 3/2013 chúng tôi 
tiến  hành  cắt  bàng  quang  tận  gốc  và  tạo  hình 
bàng  quang  bằng  hồi  tràng  theo  phương  pháp 
Padua có chống ngược dòng cho 21 bệnh nhân.  
Thời gian phẫu thuật trung bình là 413 phút 
(từ 390 đến 525 phút). Thời gian mổ thay đổi tùy 
vào  phẫu  thuật  có  nạo  hạch  chậu  rộng  hay  chỉ 
nạo  hạch  chậu  bịt.Thời  gian  tạo  hình  bàng 
quang thường không chênh lệch nhiều. 
Lượng máu mất trung bình 280ml (200 đến 
500ml). 
Không ghi nhận biến chứng trong lúc mổ; 
thời  gian  nằm  viện  trung  bình  15  ngày  (từ  9 
đến  28  ngày).  Trường  hợp  bệnh  nhân  phải 
nằm  viện  lâu  là  do  bị  nhiễm  trùng  vết  mổ, 
bung  thành  bụng  phải  khâu  lại  bằng  chỉ  thép 

và lâu xuất viện.  
Có 4 trường hợp có biến chứng sau mổ liên 

243


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

quan  đến  việc  tạo  hình  bao  gồm:  1trường  hợp 
nhiễm  trùng  vết  mổ,  1  trường  hợp  bụng  thành 
bụng phải khâu lại bằng chỉ thép, 2 trường hợp 
bán tắc ruột điều trị nội khoa ổn. 
Thông niệu đạo được rút vào ngày hậu phẫu 
thứ 14. 

Chức  năng  của  bàng  quang  tân  tạo  được 
đánh giá bằng hình ảnh học (gồm có X quang hệ 
niệu  có  cản  quang  –  IVP  và  chụp  cản  quang 
bang quang lúc rặn tiểu ‐ VCUG) và xét nghiệm 
niệu động học. Những kết quả ban đầu được ghi 
nhận là khá tốt (hình 3 và hình 4). 

Thời gian theo dõi trung bình là 8 tháng (từ 
6‐14 tháng). 

  
Hình 3. IVP của bệnh nhân Lý Hồng Ch., sau mổ 6 
tháng 


BÀN LUẬN 
Bàn về bàng quang tân tạo bằng ruột  
So  với  các  kỹ  thuật  Hautmann,  Studer, 
phương pháp Padua có cách xếp ruột đơn giản 
và  hình  ảnh  bàng  quang  tân  tạo  đạt  được  sau 
tạo hình rất giống với bàng quang nguyên thủy 
đồng  thời  tuân  thủ  các  nguyên  tắc  vật  lý,  toán 
học  về  các  thông  số  thể  tích  và  áp  lực  bàng 

244

 
Hình 4. VCUG của bệnh nhân Nguyễn Trọng H., sau 
mổ 6 tháng. 
quang(3,5,9). Xem trên hình 3a và 3b, chúng ta thấy 
hình ảnh của bàng quang tân tạo trong phương 
pháp Padua có dung tích chứa dựng khá tốt, đặc 
biệt vùng tam giác và cổ bàng quang gần giống 
bàng  quang  nguyên  thủy.  Theo  dõi  áp  lực  đồ 
bàng quang sau 6 tháng cho thấy đạt yêu cầu về 
chức  năng  chứa  đựng  và  chức  năng  tống  xuất 
của bàng quang tân tạo theo nguyên tắc xẻ ống 
ruột (hình 5A và 5B).  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 


Nghiên cứu Y học





Hình 5. Áp lực đồ bàng quang tân tạo và niệu dòng đồ của bệnh nhân Nguyễn Văn Tr, , sau mổ 6 tháng 

Bàn  về  kỹ  thuật  cắm  lại  niệu  quản  vào 
bàng quang tân tạo có chống trào ngược  

quản  trong  phẫu  thuật  tạo  hình  bàng  quang 
bằng ruột là cần thiết(1,2). 

Tổn  thương  đường  niệu  trên  ở  bệnh  nhân 
tạo  hình  bàng  quang  bằng  ruột  thay  đổi  từ  10 
đến  60%.  Trong  nghiên  cứu  của  Schwarz  and 
Jeffs năm 1975, 49% các trường hợp đường niệu 
trên  có  sự  thay  đổi  sau  phẫu  thuật  chuyển  lưu 
nước tiểu(10). 

Kỹ thuật cắm niệu quản theo phương pháp 
Leduc‐Camey  không  chủ  động  tạo  đường  hầm 
niệu quản mà thụ động chờ niêm mạc mọc lên 
che  phủ  niệu  quản,  trong  phương  pháp  cắm 
niệu quản của chúng tôi áp dụng phương pháp 
của  Abol  Enein  và  Ghoneim  tạo  đường  hầm 
niệu  quản  dưới  thanh  mạc,  niệu  quản  sau  khi 
khâu sẽ được bao phủ hoàn toàn dưới niêm mạc 
vừa giúp chống trào ngược vừa giúp chống hẹp 

do  xơ  hóa(2,6).  Xem  hình  3b,  chúng  ta  thấy  khả 
năng chống trào ngược của phương pháp Padua 
là khá tốt. 

Nhiễm khuẩn niệu xảy ra trong hầu hết các 
trường hợp tạo hình bàng quang bằng ruột cho 
nên  việc  chống  ngược  dòng  bàng  quang  niệu 
quản rất cần thiết. Theo báo cáo năm 1975 của 2 
tác  giả  Richie  và  Skinner,  sau  mổ  ba  tháng, 
khoảng 7% các trường hợp bàng quang tân tạo 
có áp dụng phương pháp chống ngược dòng có 
sẹo  viêm  đài  bể  thận  và  chiếm  đến  83%  ở  các 
trường hợp không áp dụng phương pháp chống 
ngược  dòng.  Phân  nửa  số  bệnh  nhân  trong  cả 
hai nhóm có nhiễm khuẩn niệu(10). 
Khi  nghiên  cứu  áp  lục  đồ  bàng  quang  tân 
tạo, tác giả Steven và Pulson báo cáo rằng trong 
giai đoạn chứa đựng , áp lực trong bàng quang 
thấp, tuy nhiên trong giai đoạn tống xuất áp lực 
trung  bình  tăng  đến  77,3  cmH2O  và  44%  các 
trường hợp bàng quang có áp lực cao từ 80‐150 
cmH2O. Áp lực cao kết hợp nhiễm khuẩn niệu ở 
bàng quang tân tạo là nguyên nhân đưa đến tổn 
thương  đường  niệu  trên,  nghiên  cứu  này  cho 
thấy  rằng  chống  ngược  dòng  bàng  quang  niệu 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

KẾT LUẬN 
Kết  quả  bước  đầu  cho  thấy  tạo  hình  bàng 

quang bằng ruột theo kỹ thuật Padua có thể xem 
là  khả  thi,  an  toàn,  hiệu  quả  tốt  về  mặt  chức 
năng của bàng quang tân tạo.  
Kỹ  thuật  cắm  lại  niệu  quản  trong  phương 
pháp  Padua  (thực  ra  là  từ  phương  pháp 
Ghoneim) có khả năng chống trào ngược tốt và 
không bị hẹp. 
Tuy nhiên thời gian nghiên cứu còn ngắn và 
số lượng bệnh nhân còn ít nên nhóm nghiên cứu 
sẽ  tiếp  tục  đề  tài  này  để  sau  này  sẽ  có  báo  cáo 
với những kết luận đáng tin cậy hơn. 

245


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1.

2.

Abol  –  Enein  H,  Ghoneim  MA  (1995),  Further  clinical 
experience with the ileal W – neobladder and a serous – lined 
extramural  tunnel  for  orthotopic  substitution,  Br  J  Urol,  76, 
pp. 558 – 564. 
Abol  –  Enein  H,  Ghoneim  MA  (2001),  Functional  result  of 
orthotopic  ileal  neobladder  with  serous  –  lined  extramural 

ureteral  reimplantation  experience  with  450  patients,  J  Urol, 
165, 1427 – 1432. 

3.

Dhar  NB,  Studer  UE  (2008),  Ileal  orthotopic  bladder 
substitution,  Textbook  of  reconstructive  urologic  surgery, 
Informa Healthcare, pp. 319 – 324. 

4.

Hautmann RE, Petriconni R, Gottfried HW, Kleinschmidt K, 
Mattes R, Paiss T (1999), The ileal neobladder, complications 
and functional results in 363 patients in 11 years of follow up, 
J Urol, 161,pp. 422 – 428. 

5.

Hautmann  RE  (2004),  Ileal  neobladder,  Glenn’s  urologic 
surgery, 6th edition, 82, pp. 638 – 647. 

6.

Le Duc A, Camey M, Teillac P (1987), An original antireflux 
ureteroileal implantation technique: Long – term follow up, J 
Urol, 137, pp. 1156 – 1158. 

7.

Pagano  F,  Artibani  W,  Ligato  P  et  al  (1990),  Vescica  ileale 

Padovana:  a  technique  for  total  bladder  replacement,  Eur 
Urol, 17, pp. 149 – 154. 

8.

Pagano  F,  Bassi  P  (2004),  The  Padua  ileal  bladder,  Glenn’s 
Urologic Surgery, 6th edition, 83, pp. 648 – 651. 

9.

Studer UE, Burkhard CF, Schumacher M, Kessler MT, Thoeny 
H  (2006),  Twenty  years  experience  with  an  ileal  orthotopic 
low  pressure  bladder  subtitute‐  Lesson  to  be  learned,  The 
Journal of Urology, pp. 161 – 166. 

10.

Wood DP (2012), Urothelial Tumors of the Bladder, Campbell 
– Walsh Urology, 10th edition, Chapter 80, pp. 2309 – 2334. 

 
Ngày nhận bài báo   

 

 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 


 

 

 

16‐05‐2013 
04‐06‐2013 
 15–07‐2013 

 
 

246

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×