Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ứng dụng ghi âm và phân tích âm vào chẩn đoán và đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thanh một bên tư thế mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.76 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ỨNG DỤNG GHI ÂM VÀ PHÂN TÍCH ÂM VÀO CHẨN ĐOÁN  
VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY THANH  
MỘT BÊN TƯ THẾ MỞ 
 Nguyễn Huy Cường*, Trần Việt Hồng**, Nguyễn Thị Ngọc Dung*** 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Rối loạn giọng là một trong những vấn đề thường gặp ở các phòng khám Tai Mũi Họng. Có nhiều 
nguyên nhân gây rối loạn giọng, trong đó liệt dây thanh một bên tư thế mở là nguyên nhân thường được nhắc 
đến.Hiện chưa có nghiên cứu sử dụng phân tích âm để đánh giá trong chẩn đoán rối loạn giọng và đánh giá hiệu 
quả điều trị tiêm mỡ tự thân ở những bệnh nhân rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở. 
Mục tiêu: Chẩn đoán rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở và đánh giá hiệu quả tiêm mỡ tự 
thân điều trị rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở bằng phương pháp phân tích âm các chỉ số Jitter, 
Shimmer, HNR.  
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu mô tả có can thiệp 42 trường hợp rối loạn giọng do liệt 
dây thanh một bên tư thế mở có độ tuổi trên 15 đến khám và điều trị bằng tiêm mỡ tự than tại BV Nhân dân Gia 
Định. 
Kết quả: Chỉ số Jitter, Shimmer, HNR đều rối loạn ở mức vừa và nặng trước phẫu thuật. Sau phẫu thuật 
giá trị các trị số cải thiện về gần giá trị của nhóm bình thường.Trong đó HNR cải thiện nhiều nhất.Tỷ lệ thành 
công sau phẫu thuật tiêm mỡ tự thân là 92.8%. Có sự tương quan giữa đánh giá bằng cảm nhận chủ quan và 
đánh giá bằng phân tích âm với r = 0,760 ; P < 0,01. 
Kết luận: Dùng phân tích âm có thể đánh giá mức độ rối loạn giọng trong chẩn đoán và đánh giá hiệu quả 
điều trị rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở.Có mối tương quan mạnh giữa đánh giá bằng phương 
pháp cảm nhận chủ quan và bằng phương pháp khách quan phân tích âm.  
Từ khoá: liệt dây thanh một bên tư thế mở, tiêm mỡ tự thân, Jitter, Shimmer, HNR. 

ABSTRACT 
APPLICATION OF RECORDING AND VOICE ANALYSIS IN DIAGNOSIS AND EVALUATING THE 


TREATMENT EFFICACY OF UNILATERAL ADDUCTOR VOCAL CORD PARALYSIS 
 Nguyen Huy Cuong, Tran Viet Hong, Nguyen Thi Ngoc Dung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 222 ‐ 227 
Background: Voice disorder is one of the most common problems at the ENT clinics.There are many causes 
of voice disorder and unilateral adductor vocal cord paralysis is the one that is mentioned frequently.There is not 
any  research  about  using  voice  analysis  to  evaluate  the  diagnosis  of  voice  disorder  and  evaluate  the  treatment 
efficacy of autologous fat injection on voice disorder patients caused by unilateral adductor vocal cord paralysis 
until now.  
Objectives:  To  diagnosis  voice  disorder  and  evaluate  treatment  efficacy  of  unilateral  adductor  vocal  cord 
paralysis by voice analysis the Jitter, Shimmer, and HNR index.  
Method:  Aprospective, descriptive and interventional study included 42 patients who were older than 15 
* Cao học bộ môn TMH, ĐH Y Dược TP.HCM    
*** ĐH Y Dược TP.HCM  
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Huy Cường  ĐT: 0907854950

222

** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Email: 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

years old and had voice disorder caused by unilateral adductor vocal cord paralysis.These patients were examined 
and treated with autologous fat injection at Gia Dinh People Hospital. 
Results: The Jitter, Shimmer and HNR index fluctuated also at moderate and severe levels before surgery. 

Its values had improved to the normal values of the normal group after surgery and the HNR index had improved 
the most. The successful rate after autologous fat jnjection surgery was 92.8%. There was a correlation between 
evaluation by self‐perception and evaluation by voice analysis with value r = 0.760 and P < 0.01.  
Conclusion:  Using  voice  analysis  can  evaluate  the  voice  disorder  level  in  diagnosis  and  evaluate  the 
treament  efficacy  of  voice  disorder  caused  by  unilateral  adductor  vocal  cord  paralysis.  There  was  a  strong 
correlation between evaluation by self‐ perception method and evaluation by voice analysis method. 
Keywords: unilateral adductor vocal cord paralysis, autologous fat injection, Jitter, Shimmer, HNR 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rối  loạn  giọng  là  một  trong  những  vấn  đề 
thường gặp ở các phòng khám tai mũi họng. Các 
nguyên nhân  gây  rối  loạn  giọng  là  do  sử  dụng 
giọng nói không đúng, lạm dụng giọng nói quá 
mức  hoặc  có  các  tổn  thương  lành  tính  ở  dây 
thanh hay tình trạng dây thanh bị liệt. 
 Trên  thế  giới:  Wertzner  H.F.  (2005)dùng 
phân tích âm để nghiên cứu trên những trẻ em 
bị  rối  loạn  phát  âm.Yu  Zhang  (2006)  nghiên 
cứu về  các  phân  tích  âm  thanh  phát  ra  và  âm 
thanh  lúc  nói  ở  những  bệnh  nhân  có  bệnh  lý 
thanh quản. 
Tại  Việt  Nam  đã  có  Nguyễn  Tuyết  Xương 
(2004)  và  Tăng  Xuân  Hải  (2006)  dùng  chương 
trình  Praat  đánh  giá  giọng  nói  ở  những  bệnh 
nhân  bị  u  lành  tính  dây  thanh  bước  đầu  ghi 
nhận được sự thay đổi tương ứng của các chỉ số 
trong  phân  tích  âm  và  giọng  nói  ở  bệnh  nhân 
sau phẫu thuật. 
Hiện tại  ở  trong  nước  chưa  có  nghiên  cứu 
về phân tích âm trên những bệnh nhân bị liệt 

dây thanh một bên tư thế mở.Vì vậy, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu về đề tài “Ứng dụng ghi 
âm  và  phân  tích  âm  vào  chẩn  đoán  và  đánh 
giá  hiệu  quả  điều  trị  liệt  dây  thanh  một  bên 
tư thế mở”  
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với hai mục 
tiêu sau:  
1.  Chẩn  đoán  rối  loạn  giọng  do  liệt  dây 
thanh  một  bên  tư  thế  mở  bằng  phương  pháp 
phân tích âm. 

Tai Mũi Họng 

2.  Phân  tích  âm  đánh  giá  hiệu  quả  phương 
pháp  tiêm  mỡ  tự  thân  qua  phẫu  thuật  nội  soi 
điều trị phục hồi giọng nói do liệt dây thanh một 
bên tư thế mở. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu  
Nghiên cứu theo phương pháp tiến cứu mô 
tả có can thiệp 

Đối tượng nghiên cứu 
Gồm những bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên bị 
rối loạn giọng nói, mất tiếng, khàn tiếng, hụt hơi 
đến  khám  tại  phòng  khám  Tai  Mũi  Họng  BV 
Nhân  dân  Gia  Định  có  chẩn  đoán  xác  định  liệt 
dây  thanh  một  bên  tư  thế  mở  thỏa  tiêu  chuẩn 
chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ. 


Cỡ mẫu 
Chúng  tôi  áp  dụng  công  thức  ước  tính  cỡ 
mẫu:  
 

 ; với

  

(ES : hệ số ảnh hưởng) 
Chọn  độ  tin  cậy  95%  (a=0,05),  power  =  0,95 
(b=0,05),ta có C = 13 ; Giả định hệ số tương quan 
r giữa 2 lần đo là 0,8  
Dựa  theo  kết  quả  nghiên  cứu  của  tác  giả 
Trần  Việt  Hồng  có  giá  trị  trung  bình  HNR  ở 
24,936  dB,  độ  lệch  chuẩn  của 
nhóm  chứng 
4,471dB.  Chúng  tôi  ước 
nhóm  chứng  là 
lượng  giá  trị  trung  bình  của  nhóm  can  thiệp  là 
22,6dB.  
Thay 

các 

giá 

trị 
 


vào 

tính 

được: 

223


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Vậy  cỡ  mẫu  cần  chọn  là  n  ≥  39  bệnh 
nhân.Chúng tôi chọn cỡ mẫu n =40 

bình  thường  hoặc  còn  khàn  rất  nhẹ,  giọng  nói 
không hụt hơi, không bị mệt 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 

+ Mức độ hài lòng vừa: bệnh nhân cảm thấy 
giọng  nói  được  cải  thiện  nhiều  hơn  trước  phẫu 
thuật, giọng nói còn khàn nhẹ, nhưng không bị 
hụt  hơi,  không  bị  mệt  nhưng  chưa  được  như 
bình thường 

‐ Bệnh nhân liệt dây thanh 1 bên tư thế mở 
có rối loạn giọng với thời gian kéo dài > 6 tháng  

‐ Bệnh nhân liệt dây thanh 1 bên tư thế mở 
do tất cả các nguyên nhân  
‐  Bệnh  nhân  được  xác  định  chẩn  đoán  liệt 
dây thanh qua đánh giá lâm sàng, nội soi thanh 
quản, soi hoạt nghiệm thanh quản. 
‐ Bệnh nhân tự nguyện tham gia nghiên cứu 

Tiêu chuẩn loại trừ 
‐  Bệnh  nhân  bị  rối  loạn  giọng  nói  do  hở 
thanh môn nguyên nhân từ u thanh quản, teo 
dây  thanh,  khuyết  lõm  dây  thanh,  trật  khớp 
sụn phễu, liệt dây thanh tư thế khép, liệt 2 bên 
dây thanh.  
‐  Bệnh  nhân  bị  thiểu  năng  trí  tuệ,  rối  loạn 
tâm thần.  

Phương tiện nghiên cứu  
Phòng  cách  âm,  máy  vi  tính  có  cài  phần 
mềm  ghi  âm  Sound  Forge  8.0  và  phần  mềm 
phân  tích  âm  Praat,  kèm  theo  micro  ghi  âm 
chuyên dụng. 

Thời gian nghiên cứu 
Từ 1/ 8 /2012 đến 30/ 7 /2013. 

Phương pháp tiến hành 
Đánh  giá  mức  độ  rối  loạn  giọng  theo  tiêu 
chuẩn chủ quan 
Trước phẫu thuật: Cho BN tự đánh giá giọng 
nói của bản thân. 


+  Mức  không  hài  lòng:  giọng  nói  khàn  như 
trước phẫu thuật hay khàn nhiều hơn. 

Đánh  giá  mức  độ  rối  loạn  giọng  theo  tiêu 
chuẩn khách quan 
Quy trình ghi âm giọng nói :  
‐  Ghi  âm:  Bệnh  nhân  ở  tư  thế  ngồi  thoải 
mái trong phòng cách âm, quy trình cách thức 
ghi âm thống nhất giống nhau cho tất cả bệnh 
nhân,  2  thời  điểm  trước  phẫu  thuật  và  sau 
phẫu thuật 1 tháng. 
‐  Nội  dung  ghi  âm:  Bệnh  nhân  đọc  phần 
hành chính; phát âm các nguyên âm (a) kéo dài; 
đếm số từ 1 đến 10; hát 1 đoạn bài hát “Như có 
Bác Hồ trong ngày vui Đại thắng”. 
‐  Kỹ  thuật  ghi  âm:  Bệnh  nhân  ngồi  cầm 
micro đặt nghiêng 450 so với mặt phẳng ngang 
miệng,  đưa  micro  ra  trước  cách  miệng  7cm. 
Bệnh nhân cầm bảng hướng dẫn nội dung ghi 
âm  và  tiến  hành  đọc  phát  âm  theo  bảng. 
Người  ghi  âm  điều  khiển  phần  mềm  Sound 
Fort  8  trên  máy  vi  tính,  ghi  giọng  nói  bệnh 
nhân lưu vào tập tin ghi âm.  

Quy trình phân tích âm 

‐ Mức độ vừa: giọng nói khàn nhiều, hụt hơi 
thường xuyên 


‐ Mở phần mềm Praat. Mở các File ghi âm 
giọng nói đã lưu. Ghi nhận kết quả đo các chỉ 
số  Jitter,  Shimmer,  HNR  từ  phần  mềm  Praat. 
Sau  đó  tiến  hành  đánh  giá  giá  trị  các  chỉ  số 
bằng  cách  chia  thang  điểm  dựa  vào  giá  trị 
trung bình của nhóm đo được và giá trị trung 
bình của nhóm chứng. 

‐ Mức độ nặng: giọng nói  gió,  không  thành 
âm sắc, không nói to được và nhanh mệt. 

Đánh  giá  các  chỉ  số  Jitter,  Shimmer,  HNR 
trước và sau phẫu thuậttheo thang điểm 

Sau  phẫu  thuật:  Đánh  giá  mức  độ  hài  lòng 
của bệnh nhân về giọng nói 

‐ Sử dụng giá trị Jitter trung bình từ mẫu đo 
được và giá trị Jitter của nhóm chứng được thực 
hiện trong nghiên cứu của Trần Việt Hồng  

‐  Mức  độ  nhẹ:  giọng  nói  hơi  khàn,  bị  hụt 
hơi ít 

+ Mức độ hài lòng cao: bệnh nhân cảm thấy 

224

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
+  1  điểm:  Bình  thường:  Giá  trị  Jitter  đo 
được ≤ 0,484% (nhóm chứng)  
+  3  điểm:  Rối  loạn  mức  thấp:  0,484% 
(nhóm chứng) trung bình Jitter của Nhóm bệnh 
+ 5 điểm: Rối loạn mức cao: Giá trị Jitter đo 
được ≥ giá trị trung bình của Nhóm bệnh. 
Lập  bảng  đếm  số  trường  hợp  theo  thang 
điểm và tính tỷ lệ% tương ứng. 
Tương tự chia thang điểm đánh giá các chỉ 
số  Shimmer,  HNR  trước  phẫu  thuật.  Sau  đó 
cộng các điểm số lại đánh giá theo thang điểm 
tổng  hợp  chia  làm  4  mức  độ  :  Bình  thường  (3 
điểm) ; Rối loạn nhẹ (4‐ 7 điểm); Rối loạn vừa 
(9‐11 điểm); Rối loạn nặng (13‐ 15 điểm). 

KẾT QUẢ 
Chúng  tôi  đã  tiến  hành  thu  thập  số  liệu, 
đánh  giá  các  triệu  chứng  lâm  sàng  trên  42 
bệnh nhân phù hợp theo tiêu chuẩn chọn mẫu 
và được chẩn đoán xác định liệt dây thanh một 
bên  qua  nội  soi  thanh  quản,  các  xét  nghiệm 
tiền  phẫu  đều  cho  giá  trị  bình  thường,  các 
bệnh  nhân  đều  được  phẫu  thuật  với  phương 
pháp tiêm mỡ vào 1 bên dây thanh. Không có 
bệnh nhân bị tai biến trong và sau phẫu thuật. 
Bệnh  nhân  được  xuất  viện  trong  ngày  hoặc 
ngày hôm sau. 


Đặc điểm dịch tễ học  
Tuổi 
Mẫu bệnh nhân nghiên cứu có tuổi từ 16 – 
69 trong đó tuổi trung bình trong nhóm nghiên 
cứu của chúng tôi là 43,9. Nhóm tuổi chiếm tỷ 
lệ cao nhất là nhóm từ 30 – 49 (38%), kế đến là 
nhóm tuổi trên 50 (43%). 
Giới tính 
Giới  nữ  chiếm  tỷ  lệcao  hơn  hẳn  (71%)  so 
với  giới  nam.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa 
thống kê với P <0,05. 

Nghiên cứu Y học

Nguyên nhân
Số trường hợp
Sau phẫu thuậttuyến giáp
17
Sau phẫu thuật u não
3
Sau phẫu thuật u vùng cổ trung
6
thất
Sau Xạ trị K giáp, K vòm
2
Sau chấn thương sọ não
1
Sau đợt viêm họng
1

CRNN
12
Tổng số
42

Tỷ lệ%
40,5%
7,1%
14,4%
4,8%
2,4%
2,4%
28,6%
100 %

Nhận xét: trong mẫu khảo sát nguyên nhân 
gây liệt dây thanh một bên chiếm tỷ lệcao nhất 
làsau phẫu thuậttuyến giáp với  40,5%,  kế  đến 
là nhóm chưa rõ nguyên nhân (CRNN) có tỷ lệ 
là 28,6%.Nhóm nguyên nhân sau phẫu thuật u 
vùng cổ, trung thất chiếm tỷ lệ 14,4% còn lại là 
nguyên nhân sau xạ trị K giáp, K vòm (4,8%), 
nguyên  nhân  sau  chấn  thương  sọ  não  và  sau 
đợt  viêm  họng  chiếm  tỷ  lệbằng  nhau 
(2,4%).Tổng  tỷ  lệ  các  nguyên  nhân  sau  phẫu 
thuật là 62%.  

Mức độ khàn tiếng trước phẫu thuật 
Bảng 2: Mức độ khàn tiếng trước phẫu thuật 
Mức độ khàn tiếng Số trường hợp

Nặng
26
Vừa
16
Nhẹ
0
Tổng số
42

 

Tỷ lệ%
61,9%
38,1%
0%
100%

Nhận  xét:  Khàn  tiếng  mức  độ  nặng  chiếm 
tỷ  lệ  cao  (61,9%),còn  lại  là  khàn  tiếng  mức  độ 
vừa  tỷ  lệ  38,1%.  Trong  mẫu  bệnh  nhân  khảo 
sát  không  có  trường  hợp  khàn  tiếng  mức  độ 
nhẹ. 

Kết  quả  phân  tích  các  chỉ  số  trước  phẫu 
thuật  
Kết quả chỉ số Jitter trước phẫu thuật 
Nhận xét: tỷ lệ nhóm có  Jitter  rối  loạn  cao 
chiếm tỷ lệcao nhất (57,1%), còn lại là nhóm có 
rối loạn thấp (42,9%). 


Nguyên nhân 

Kết quả chỉ số Shimmer trước phẫu thuật 
Nhận xét: tỷ lệnhóm có Shimmer rối loạn cao 
chiếm tỷ lệ cao nhất (52,4%), còn lại là nhóm có 
Jitter rối loạn thấp (47,6%). 

Bảng 1: Các nguyên nhân của liệt dây thanh một bên 

Kết quả chỉ số HNR trước phẫu thuật 

Đặc điểm lâm sàng 

Tai Mũi Họng 

225


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Nhận  xét:  tỷ  lệ  nhóm  HNR  có  rối  loạn  cao 
chiếm tỷ lệcao nhất (59,5%), còn lại là nhóm  có 
HNR rối loạn thấp (40,5%). 

Kết quả đánh giá sau phẫu thuật 

Số trường hợp
23

16
3
42

Tỷ lệ%
54,7%
38,1%
7,2%
100 %

Về tuổi 

Nhận  xét:  sau  PT  mức  độ  hài  lòng  cao 
chiếm  tỷ  lệ  cao  (54,7%),  kế  đến  làhài  lòng  ở 
mức  độ  vừa  (38,1%)  còn  lại  làtỷ  lệ  không  hài 
lòng chiếm tỷ lệ ít 7,2%. Tổng tỷ lệ hài lòng cao 
và hài lòng mức độ vừa là 92,8%  đây cũng 
chính là tỷ lệ thành công sau PT qua đánh giá 
bằng cảm nhận chủ quan. 

Kết  quả  đánh  giá  chung  các  chỉ  số  Jitter, 
Shimmer, HNR trước và sau phẫu thuật 
Bảng 4: Đánh giá chung các chỉ số Jitter, Shimmer, 
HNR trước và sau PT 
Trước Sau phẫu Nhóm
P
phẫu thuật thuật
chứng
Jitter(%)
2,682

1,016
0,484 P < 0,05
Shimmer(%)
8,865
4,232
3,439 P < 0,05
HNR(dB)
15,501
23,935
24,936 P < 0,05
Chỉ số

Nhận xét: Jitter sau phẫu thuật (1,016%) giảm 
hơn  một  nửa  so  với  trước  phẫu  thuật 
(2,682%),giá  trị  Shimmer  sau  phẫu  thuật 
(4,232%)  giảm  hơn  một  nửa  so  với  trước  phẫu 
thuật  (8,865%).  Kết  quả  HNR  sau  phẫu  thuật 
(23,935dB)  tăng  nhiều  so  với  trước  phẫu  thuật 
(15,501dB).  

Kết quảvề thời gian phát âm nguyên âm (a) 
Bảng 5: Thời gian phát âm nguyên âm (a) 
Trước phẫu Sau phẫu
thuật (giây) thuật (giây)
Trung bình Thời gianphát
âm nguyên âm (a)

4,211

6,820


Nhận xét: Thời gian phát âm nguyên âm (a) 
trung  bình  sau  phẫu  thuật  có  kéo  dài  hơn  thời 
gian  phát  âm  nguyên  âm  (a)  trung  bình  trước 
phẫu  thuật  và  gấp  1,5  lần  thời  gian  phát  âm 

226

BÀN LUẬN 
Qua  kết  quả  nghiên  cứu  42  trường  hợp  rối 
loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở 
chúng tôi nhận thấy:  

Mức độ hài lòng sau phẫu thuật 
Bảng 3: Mức độ hài lòng sau phẫu thuật 
Mức độ hài lòng
Cao
Vừa
Không hài lòng
Tổng số

trung bình trước phẫu thuật. Sự khác biệt này có 
ý nghĩa thống kê (P=0,000 <0,05).  

Sự  phân  bố  theo  tuổi  không  có  ý  nghĩa 
thống kê. Điều này phù hợp với ghi nhận của 
một  số  tác  giả  trong  nước  và  tác  giả  nước 
ngoài  

Về giới 

Giới  nữ  chiếm  đa  số  (71%)  so  với  giới  nam 
(19%).  Kết  quả  này  có  thể  do  giới  nữ  là  đối 
tượng có nhu cầu sử dụng giọng nói nhiều hơn 
và có sự quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn nam 
giới.  

Về vị trí dây thanh liệt 
Kết quả khảo sát cho thấy đa số trường hợp 
là liệt dây thanh bên trái (88%). Đối chiếu với kết 
quả  của  tác  giả  Laccourreye  khi  nghiên  cứu  80 
trường  hợp  rối  loạn  giọng  được  tiêm  mỡ  dây 
thanh  cũng  có  kết  quả  liệt  dây  thanh  bên  trái 
chiếm tỷ lệ đa số (85%). Sở dĩ có tỷ lệ cao này là 
do  cấu  trúc  giải  phẫu,  đường  đi  của  dây  thần 
kinh  quặt  ngược  thanh  quản  bên  trái  phức  tạp 
hơn,  và  liên  quan  nhiều  cấu  trúc  (tâm  nhĩ  trái, 
cung động mạch chủ) so với bên phải. 

Về kết quả phân tích âm trước mổ 
Hầu hết các giá trị Jitter, Shimmer, HNR đều 
rối  loạn  ở  mức  độ  vừa  và  nặng,  các  giá  trị  đều 
tăng  cao  hơn  rất  nhiều  so  với  nhóm  chứng.  So 
với  kết  quả  đo  được  của  các  tác  giả  Nguyễn 
Tuyết  Xương,  Yu  Zhang  giá  trị  các  chỉ  số  của 
chúng  tôi  có  cao  hơn.  Nguyên  nhân  có  thể  do 
đặc  điểm  bệnh  lý  của  nhóm  bệnh  nhân  nghiên 
cứu của chúng tôi khác với các tác giả trên.  

Về kết quả phân tích âm sau mổ 
Các giá trị cải thiện nhiều so với trước mổ, 

thay  đổi  theo  hướng  về  gần  giá  trị  của  nhóm 
chứng,  trong  đó  giá  trị  của  HNR  thay  đổi 
nhiều  nhất.  Tỷ  lệ  thành  công  sau  phẫu  thuật 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
theo  cách  đánh  giá  bằng  cảm  nhận  chủ  quan 
và  theo  phương  pháp  phân  tích  âm  đều  cho 
kết quả là 92.8%. Khi so sánh với tỷ lệ cải thiện 
sau  phẫu  thuật  của  các  tác  giả  trong  nước  và 
ngoài  nước  đều  có  tỷ  lệ  chênh  lệch  tương  đối 
ít:  Nguyễn  Đức  Tùng  (90%),  Laccourreye 
(92,5%),  Hisung  (95%).  Vì  vậy  kết  quả  nghiên 
cứu của chúng tôi là phù hợp. 

(6,820 giây) kéo dài hơn so với trước phẫu thuật 
(4,211 giây). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.

2.

KẾT LUẬN 

3.

1.  Phân  tích  âm  trong  chẩn  đoán  rối  loạn 

giọng trên bệnh nhân liệt dây thanh một bên tư 
thế mở ghi nhận có sự rối loạn giá trị các chỉ số 
Jitter, Shimmer và  HNR  ở  mức  rối  loạn  vừa  và 
rối loạn nặng. 

4.

2.  Kết  quả  sau  điều  trị  bằng  tiêm  mỡ  tự 
thân,giá  trị  trung  bình  các  chỉ  số  Jitter, 
Shimmer và HNR có thay đổi rõ rệt so với các 
giá  trị  trung  bình  Jitter,  Shimmer  và  HNR 
tương  ứng  trước  phẫu  thuật  (P<0,05).  Giá  trị 
các chỉ số cải thiện về gần nhóm chứng, chỉ số 
HNR cải thiện nhiều nhất  
3. Phương pháp điều trị tiêm mỡ tự thân vào 
dây thanh có hiệu quả với tỷ lệ thành công sau 
phẫu  thuật  là  92,8%.Có  sự  tương  quan  giữa  2 
phương  pháp  đánh  giá  bằng  cảm  nhận  chủ 
quan và phân tích âm với r = 0,760, P <0,01. 
4.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  đánh 
giá  bước  đầu  về  yếu  tố  thời  gian  phát  âm 
nguyên  âm  (a).  Kết  quả  giá  trị  trung  bình  thời 
gian  phát  âm  nguyên  âm  (a)  sau  phẫu  thuật 

Nghiên cứu Y học

5.

6.


7.

8.

9.

10.

Boersma P, David W (2006). “Voice analysis: Jitter, Shimmer, 
noise”, Voice, Institute of Phonetics Sciences of the University 
of Amsterdam. 
Hsiung  MW  (2006).  “Autogenous  fat  injection  for  glottic 
insuffiency:  analysis  of  101  cases  and  correlation  with 
patient’s  self  assessment”,  Acta  Otolaryngol,  126  (2),  pp.191‐
196. 
Laccourreye  O,  Papo  JF  (2003),  “Intracordal  ịnection  of 
autologous fat in patients with unilateral nerve paralyse: long 
term results from the patients perspective”,Laryngoscope, 113, 
pp. 541 – 545. 
Ngô  Ngọc  Liễn  (2002),  Bệnh giọng thanh quản ở giáo viên tiểu 
học Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. 
Nguyễn Thị Ngọc Dung (2008), “Liệt thanh quản”. In: Nhan 
Trừng Sơn, Tai Mũi Họng, Tập 2, tr.349‐358. Nhà xuất bản Y 
học, TP. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Tuyết Xương (2004), Nghiên cứu tình hình u lành tính 
dây thanh và đánh giá kết quả vi phẫu qua phân tích ngữ âm, Luận 
văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội. 
Tăng Xuân Hải (2006), Nhận xét lâm sàng, mô bệnh học của polyp 
dây  thanh  và  ảnh  hưởng  đến  đặc  trưng  bệnh  lý  của  chất  thanh, 
Luận văn tốt nghiệp Chuyên khoa II, Đại học Y Hà Nội. 

Trần Việt Hồng (2010), Vi phẫu thuật thanh quản người lớn qua 
nội soi ống cứng, Luận án tiến sĩ y học, Đại học y dược TP. Hồ 
Chí Minh. 
Wertzner  HF  (2005),  “Analysis  of  fundamental  frequency, 
jitter,  shimmer  and  vocal  intensity  in  children  with 
phonological disorders”, Braz J Otorhinolaryngol, 71(5), pp.582‐
8. 
Zhang HY, et al  (2006),  “Acoustic  analyses  of  sustained  and 
running  voices  from  patients  with  laryngeal  pathologies”, 
Journal of voice, 22(1), pp.1‐9. 

 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

Tai Mũi Họng 

227



×