Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu về nghèo ảnh hưởng lên tình trạng sức khỏe, mô hình bệnh tật và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân tỉnh Tây Ninh, 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.98 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

 NGHIÊN CỨU VỀ NGHÈO ẢNH HƯỞNG LÊN TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE, 
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE 
CỦA NGƯỜI DÂN TỈNH TÂY NINH, 2012 
Lê Hoàng Ninh*, Phùng Đức Nhật*, Cao Nguyễn Hoài Thương*, Bùi Thị Hy Hân* 

TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề: Nghèo là một trong số các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến mô hình bệnh tật và mô hình tử 
vong của cộng đồng thông qua lối sống. Với những lý do đó, việc đo lường tác động của nghèo lên sức khỏe và 
việc sử dụng dịch vụ y tế ở của người dân tỉnh Tây Ninh là một việc hết sức cần thiết.  
Mục  tiêu: So sánh mô hình bệnh tật và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân tại huyện Bến 
Cầu và thị xã Tây Ninh thuộc tỉnh Tây Ninh. 
Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả với cỡ mẫu là 800 đối tượng tại khu vực huyện 
Bến Cầu và thị xã Tây Ninh và sử dụng bộ câu hỏi của nghiên cứu STEP (WHO). 
Kết quả: Sự cách ly về địa lý và hạn chế phương tiện giao thông được nhận thấy là hai chướng ngại quan 
trọng cho việc tiếp cận các cơ sở y tế. Người dân với thu nhập gia đình thấp dễ bị bệnh mạn tính hơn người có 
thu nhập cao. Tỷ lệ người nghèo ở huyện Bến Cầu sử dụng bảo hiểm y tế cao hơn đáng kể so với đối tượng ở thị 
xã Tây Ninh. 
Trong mười bệnh gây tử vong hàng đầu, nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, tăng huyết áp và đái tháo đường 
là ba bệnh hàng đầu gây tử vong ở tỉnh Tây Ninh năm 2011. Trong số mười bệnh có tỷ lệ hiện mắc cao nhất, gồm 
đái tháo đường, viêm họng và viêm amiđan và tăng huyết áp cấp là ba bệnh hàng đầu với tỷ lệ hiện mắc cao nhất.  
Kết  luận:  Chính quyền địa phương nên tập trung nỗ lực để giúp người nghèo giảm các hành vi nguy cơ 
như hút thuốc và uống rượu. Chính sách về bảo hiểm y tế toàn dân cần được thực hiện càng sớm càng tốt để bớt 
cho người nghèo về gánh nặng chi phí y tế khi mô hình chuyển đổi bệnh tật từ bệnh lây là chính sang hướng bệnh 
không lây.  
Từ khóa: Nghèo, mô hình bệnh tật, sử dụng dịch vụ y tế, Tây Ninh. 



SUMMARY 
STUDY ON POVERTY AND ITS EFFECT ON HEALTH STATUS, A MODEL OF MORBIDITY  
AND HEALTH CARE SERVICE UTILITY IN TAY NINH PROVINCE, 2012 
Le Hoang Ninh, Phung Duc Nhat, Cao Nguyen Hoai Thuong, Bui Thi Hy Han 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 7 – 14 
Background:  Poverty  is  one  of  the  social  factors  that  affect  morbidity  and  mortality  patterns  of  the 
community. Poverty might result in unhealthy lifestyles (drinking, smoking, eating habits, unhealthy physical 
activities). For these reasons, the measurement of the influence of poverty on health and health service utility in 
Tay Ninh province is very necessary. 
Objectives: To compare morbidity and health care service utility in Ben Cau district and Tay Ninh town, 
Tay Ninh province. 
Methods:  A  cross‐sectional  study  with  a  sample  size  of  800  subjects  in  Ben  Cau  district  and  Tay  Ninh 
town, STEP questionnaire made by World Health Organisation was used. 
*

 Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh 

Tác giả liên lạc: Ths. Bùi Thị Hy Hân 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

ĐT: 0932424098  

Email:  

7


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Result: The geographic isolation and limited transport were found to be two important obstacles to accessing 
health facilities. People in low‐income households were more vulnerable to chronic diseases than those with high 
income.(The poverty rate in Ben Cau district using health insurance was significantly higher when comparing 
with rate in Tay Ninh town). Upper respiratory tract infection, hypertension and diabetes are the top three fatal 
diseases in Tay Ninh province in 2011. The highest prevalence involved diabetes, pharyngitis and tonsillitis, and 
hypertension. 
Conclusion:  Local  governments  should  focus  their  efforts  on  helping  the  poor  reduce  high‐risk  behaviors 
such as smoking and drinking. The policy of universal health insurance should be implemented as soon as possible 
for the poor to reduce the cost burden of medical costs. 
Keywords: Poverty, mobidity model, health care service utility, Tay Ninh province. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng thu nhập 
lên  trạng  thái  sức  khỏe  được  nhấn  mạnh  trong 
nhiều  nghiên  cứu  ở  nhiều  nước  khác  nhau.  Tại 
Mỹ, ở mọi lứa tuổi, những người trong gia đình 
có  thu  nhập  từ  50.000  USD  trở  lên  có  kì  vọng 
sống  cao  hơn  25%  so  với  những  người  sống 
trong  gia  đình  có  thu  nhập  thấp  hơn  5.000 
USD(4).  Sự  chênh  lệch  về  thu  nhập  cũng  ảnh 
hưởng  đến  bệnh  tật.  Kết  quả  của  nghiên  cứu 
trên  9003  người  tình  nguyện  tại  Anh,  Wales  và 
Scotland  đã  chỉ  ra  rằng  những  chỉ  số  bệnh  tật 
tương quan tuyến tính với chỉ số thu nhập. Việc 
tăng thu nhập sẽ mang lại các chỉ số về bệnh tật 
tốt hơn và sức khỏe tốt hơn(6).  

Ngoài  ảnh  hưởng  của  thu  nhập  lên  tình 
trạng  sức  khỏe  và  bệnh  tật,  tình  trạng  kinh  tế 
cũng ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc 
sức  khỏe.  Theo Điều tra  y  tế  dân số  quốc  gia  ở 
Canada  (2000),  cho  biết  rằng  những  nhóm  có 
kinh  tế  cao  đến  khám  bệnh  chuyên  gia  nhiều 
hơn  nhóm  kinh  tế  thấp  hơn.  Nghiên  cứu  cũng 
chỉ  ra  rằng  mặc  dù  Chính  phủ  Canada  đã  áp 
dụng  chăm  sóc  sức  khỏe  toàn  dân,  người  dân 
Canada  với  thu  nhập  thấp  đến  khám  tại  các 
chuyên  gia  y  tế  với  tỷ  lệ  thấp  so  với  nhóm  thu 
nhập trung bình và cao(5). 
Theo  nhiều  nghiên  cứu  trên  thế  giới,  nghèo 
được xem là một trong những yếu tố quyết định 
xã hội hình thành nên những mô hình bệnh tật 
và  tử  vong  trong  cộng  đồng,  tác  động  tiêu  cực 
lên tình trạng sức khỏe và sử dụng dịch vụ sức 

8

khỏe  trong  chăm  sóc  sức  khỏe.  Nó  ảnh  hưởng 
qua lối sống (nghiện rượu, hút thuốc, thói quen 
ăn uống, vận động thể chất), cách điều trị, tuân 
thủ điều trị, các hành động phòng bệnh. Nghèo 
cũng có thể ảnh hưởng đến những bệnh nhân bị 
mắc  một  số  bệnh  (như  bệnh  nhân  HIV/AIDS, 
lao, ung thư)(8) hay ảnh hưởng đến những nhóm 
nguy  cơ  (như  phụ  nữ,  người  già,  người  nghèo, 
người  nhập  cư).  Với  những  lý  do  đó,  việc  đo 
lường sự tác động của nghèo lên bệnh tật và tử 

vong  ở  Tây  Ninh,  Việt  Nam,  sẽ  giúp  chúng  ta 
tìm  kiếm  mười  căn  bệnh  hàng  đầu  và  mười 
nguyên  nhân  gây  tử  vong  hàng  đầu  trong  khu 
vực  và  xem  xét  những  khác  biệt  giữa  khu  vực 
giàu  và  nghèo.  Các  số  liệu  có  thể  giúp  chính 
quyền  tỉnh  Tây  Ninh  có  những  chính  sách  tốt 
hơn và có lợi cho sức khỏe hơn để cải thiện sức 
khỏe  của  người  nghèo  và  để  đánh  giá  chương 
trình xóa đói giảm nghèo hay hệ thống bảo hiểm 
y tế hỗ trợ như thế nào đến người nghèo trong 
việc chăm sóc sức khỏe và sử dụng dịch vụ y tế. 
Từ  đó  sẽ  định  hướng  cho  nỗ  lực  của  họ  trong 
việc  can  thiệp  như  thế  nào  để  có  sức  khỏe  tốt 
hơn cho người dân, đặc biệt là người nghèo. Mặc 
dù  tỉ  lệ  hộ  gia  đình  nghèo  ở  Tây  Ninh  không 
phải  là  rất  cao  (6%  vào  năm  2008),  nhưng  với 
chuẩn  nghèo  mới  của  chính  sách  xóa  đói  giảm 
nghèo  của  chính  phủ  vẫn  là  một  trong  những 
mục tiêu chính của chính quyền địa phương.  

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối  tượng  nghiên  cứu:  Một  nghiên  cứu  cắt 
ngang mô tả được thực hiện trên 800 người đang 
sống tại huyện Bến Cầu và thị xã Tây Ninh, 800 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 
người trong cở mẫu được tính công thức so sánh 
tỷ lệ sử dụng các dịch vụ y tế ở hai huyện khác 
nhau, với alpha = 0,05 (5%), beta = 0,8, p1 được 
ước  lượng  bằng  0,17  (tương  đương  tỷ  lệ  người 
dân sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe để kiểm 
tra  sức  khỏe  định  kỳ  vào  năm  trước,  tại  quận 
Bình  Thuỷ,  thành  phố  Cần  Thơ,  một  khu  vực 
thành thị giàu có ở tỉnh Cần Thơ, WHO 2009), p2 
được  ước  lượng  bằng  0,09  (tương  đương  tỷ  lệ 
người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
để kiểm tra sức khỏe định kỳ vào năm trước, tại 
quận  Vị  Thuỷ,  tỉnh  Hậu  Giang,  một  khu  vực 
nông  thôn  nghèo  khó  thuộc  tỉnh  Hậu  Giang, 
WHO 2009), 
Sử  dụng  bộ  câu  hỏi  của  nghiên  cứu  STEP 
của WHO để nghiên cứu bệnh mạn tính và các 
mối  liên  quan.  Dùng  kiểm  định  Chi  bình 
phương để phân tích sự khác biệt và kiểm định t 
để  so  sánh  trung  bình  hai  nhóm.  Ước  lượng 
khoảng tin cậy của 95% và giá trị p được xem là 
có ý nghĩa thống kê ở mức 0,05 (p<0,05). 

KẾT QUẢ 
Mô  hình  bệnh  tật  của  người  dân  sống  tại 
tỉnh Tây Ninh 
Trong nghiên cứu này, số liệu hồi cứu được 
thu thập từ Sở Y tế ở tỉnh Tây Ninh để xác định 

mô  hình  bệnh  tật  của  người  dân  sinh  sống  vào 
năm 2011.  
Bảng 1:Mười bệnh gây tử vong hàng đầu và mười 
bệnh hiện mắc cao nhất ở tỉnh Tây Ninh năm 2011 
10 bệnh gây tử vong
Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên cấp
Cao huyết áp cấp
Tiểu đường
Sẩy thai
Viêm dạ dày và loét tiêu hoá
Viêm họng và viêm amiđan cấp tính
Viêm xoang mạn tính
Viêm khớp
Bệnh về cột sống
Cường giáp

Số trường hợp
280
219
196
56
56
53
51
50
49
49

10 bệnh hiện mắc
Tiểu đường

Viêm họng và viêm amiđan

Số trường hợp
37.669
37.499

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

10 bệnh hiện mắc
Cao huyết áp cấp
Viêm đường hô hấp trên cấp
Cao huyết áp
Viêm phế quản và tiểu phế quản cấp
Bệnh về mắt và phần phụ
Bệnh về tai và bệnh liên quan đến
xương chũm
Bệnh về mũi và xoang mũi
Bệnh hô hấp

Số trường hợp
31.151
30.063
28.449
27.676
27.659
25.936
22.501
19.185

Trong  mười  bệnh  gây  tử  vong  hàng  đầu, 

nhiễm  khuẩn  đường  hô  hấp  trên,  cao  huyết  áp 
cấp  và  tiểu  đường  là  ba  bệnh  hàng  đầu  gây  tử 
vong ở tỉnh Tây Ninh năm 2011. Trong số mười 
bệnh có tỷ lệ hiện mắc cao nhất, gồm tiểu đường, 
viêm họng và viêm amiđan và cao huyết áp cấp 
là ba bệnh hàng đầu với tỷ lệ hiện mắc cao nhất. 
Số  liệu  trên  chứng  tỏ  cao  huyết  áp  cấp  là  một 
trong những bệnh gây tử vong cao và tỷ lệ hiện 
mắc cao ở tỉnh Tây Ninh. 

Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Về giới, nữ trội hơn với 55,4%. Hơn một nửa 
người  tham  gia  có  tuổi  từ  40‐60  tuổi  trong  khi 
người cao tuổi chiếm một phần mười tổng số. Về 
tình  trạng  học  vấn,  đa  số  mọi  người  tham  gia 
trong  nghiên  cứu  này  đã  tốt  nghiệp  cấp  hai 
trong khi số người có trình độ từ cao đẳng, đại 
học trở lên cũng khá cao (14,0%). Tỷ lệ tự đánh 
giá  thu  nhập  trung  bình  trong  gia  đình  ở  mức 
trung bình là 62,8% trong khi qua việc ước lượng 
qua  đồ đạc và  đồ  dùng trong  gia đình thì  tỷ  lệ 
này  ở  mức  trung  bình  chỉ  22%.  Khi  phân  tầng 
thu  nhập  hộ  gia  đình  thành  hai  mức,  số  lượng 
hộ gia đình không nghèo cũng cao hơn số hộ gia 
đình nghèo. 

Sự tiếp cận các trạm y tế 
Tại thị xã Tây Ninh, qua khoảng cách từ nhà 
đến trạm y tế, các đối tượng nghèo hầu như dễ 
dàng tiếp xúc trạm y tế (đa số ngắn hơn 1km với 

43,7%), trong khi những đối tượng tại huyện Bến 
Cầu khó khăn trong việc đi đến trạm (84,2% đối 
tượng sống xa trên 5 km so với trạm y tế). Đa số 
đối tượng nghèo báo cáo rằng họ tiếp xúc với nhân 
viên y tế dễ dàng hơn đối tượng không nghèo. 

9


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Bảng 2: Sự tiếp cận các trạm y tế 

< 1 km
1 – 5 km
> 5 km
Dễ
Bình thường

Thị xã Tây Ninh (n=400)
Huyện Bến Cầu (n=400)
Nghèo
Không nghèo
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

n (%)
n (%)
Khoảng cách từ nhà đến trạm y tế
66 (43,7)
85 (56,3)
17 (56,7)
13 (43,3)
16 (9,4)
154 (90,6)
213 (60,7)
138 (39,3)
15 (19,0)
64 (81,0)
16 (84,2)
3 (15,8)
Tiếp xúc với nhân viên y tế
45 (32,1)
95 (67,9)
130 (66,7)
65 (33,3)
52 (20,0)
208 (80,0)
116 (56,6)
89 (43,4)

Tổng (n=800)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

83 (45,9)
229 (43,9)
31 (31,6)

98 (54,1)
292 (56,1)
67 (68,4)

175 (52,2)
168 (36,1)

160 (47,8)
297 (63,9)

Bảng 3: Sự tiếp cận thông tin y tế 


Không
Nhân viên y tế
TV/radio
Loa phát thanh
Báo chí
Áp phích

Thị xã Tây Ninh (n=400)
Huyện Bến Cầu (n=400)
Nghèo
Không nghèo
Nghèo
Không nghèo

n (%)
n (%)
n (%)
n (%)
Nhận được thông tin y tế
63 (19,9)
253 (80,1)
103 (45,0)
126 (55,0)
34 (40,5)
50 (59,5)
143 (83,6)
28 (16,4)
Nguồn thông tin
47 (21,4)
173 (78,6)
26 (66,7)
13 (33,3)
48 (19,2)
202 (80,8)
79 (39,9)
119 (60,1)
26 (15,2)
145 (84,8)
47 (38,5)
75 (61,5)
8 (7,7)
96 (92,3)
9 (45,0)
11 (55,0)

5 (13,5)
32 (86,5)
10 (21,7)
36 (78,3)

Tổng (n=800)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)
166 (30,5)
177 (69,4)

379 (69,5)
78 (30,6)

73 (28,2)
127 (28,3)
73 (24,9)
17 (13,7)
15 (18,1)

186 (71,8)
321 (71,7)
220 (75,1)
107 (86,3)
68 (81,9)

tế được báo cáo như là người hỗ trợ thông tin y 
Trong  khi  tỷ  lệ  đối  tượng  không  nghèo  và 

tế  cho  đa  số  người  không  nghèo  ở  thị  xã  Tây 
nghèo nhận được thông tin y tế là tương đương 
Ninh. Tuy nhiên, đối tượng nghèo ở huyện Bến 
tại  huyện  Bến  Cầu,  đối  tượng  không  nghèo  tại 
Cầu nhận được đa số thông tin y tế từ nhân viên 
thị xã Tây Ninh dường như tiếp xúc thông tin y 
y tế địa phương khi so với nhóm không nghèo.  
tế nhiều hơn người nghèo. Hơn nữa, nhân viên y 
Bảng 4:Sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tình trạng sức khỏe ở tỉnh Tây Ninh 
Thị xã Tây Ninh (n=400)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

Không

Không
Trạm y tế
Phòng mạch tư
Bệnh viện huyện
Bệnh viện tỉnh

Không

Huyện Bến Cầu (n=400)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

Bệnh mạn tính
34 (29,8)
80 (70,2)
38 (60,3)
25 (29,7)
63 (22,0)
223 (78,0)
208 (61,7)
129 (38,3)
Sử dụng dịch vụ khám sức khỏe và điều trị bệnh (n=359)
34 (26,2)
96 (73,8)
68 (57,1)
51 (42,9)
13 (26,5)
36 (73,5)
31 (50,8)
30 (49,2)
Dạng cơ sở đã từng đến kiểm tra và điều trị
12 (70,6)
5 (29,4)
22 (84,6)
4 (15,4)
3 (11,5)
23 (88,5)
31 (53,5)
27 (46,5)
6 (30,0)
14 (70,0)
7 (41,2)

10 (58,8)
13 (19,4)
54 (80,6)
8 (44,4)
10 (55,6)
Bảo hiểm y tế
44 (17,7)
205 (82,3)
120 (71,3)
41 (28,7)
53 (35,1)
98 (64,9)
144 (56,0)
113 (44,0)

Tại  tỉnh  Tây  Ninh,  tỷ  lệ  đối  tượng  bị  bệnh 
mạn  tính  trong  nhóm  không  nghèo  cao  hơn 

10

Tổng (n=800)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)
72 (40,7)
271 (43,5)

105 (59,3)
352 (56,5)


102 (41,0)
44 (40,0)

147 (59,0)
66 (60,0)

34 (79,1)
34 (40,5)
13 (35,1)
21 (24,7)

9 (20,9)
50 (59,5)
24 (64,9)
64 (75,3)

146 (37,2)
197 (48,3)

246 (62,8)
211 (51,7)

nhóm nghèo, và đặc biệt cao tại thị xã Tây Ninh. 
Tỷ  lệ  đối  tượng  không  nghèo  sử  dụng  dịch  vụ 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 
kiểm  tra  và  chữa  trị  cao  hơn  đối  tượng  nghèo. 
Trạm  y  tế  dường  như  được  nhiều  đối  tượng 
nghèo  đến  thăm  khám  trong  khi  người  không 
nghèo thường hay  đến  khám bệnh  viện tư,  bệnh 
Bảng 5:Hành vi nguy cơ cho sức khỏe 

viện  tuyến  tỉnh  và  huyện.  Số  đối  tượng  không 
nghèo có bảo hiểm y tế cao hơn nhóm đối tượng 
nghèo ở tỉnh Tây Ninh, đặc biệt ở thị xã Tây Ninh. 

Thị xã Tây Ninh (n=400)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

Không

23 (22,5)
74 (24,8)


Không

13 (31,7)
2 (16,7)



Không

18 (16,5)
79 (27,2)


Không

13 (15,1)
5 (21,7)


Không

11 (22,9)
86 (24,4)


Không

29 (14,7)
68 (33,5)

Huyện Bến Cầu (n=400)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)

Đã từng hút thuốc
79 (77,5)
90 (59,6)
61 (40,4)
224 (75,2)
156 (62,6)
93 (37,4)
Hút thuốc mỗi ngày
28 (68,3)
81 (61,4)
51 (38,6)
10 (83,3)
1 (25,0)
3 (75,0)
Đã từng uống rượu
91 (83,5)
102 (60,0)
68 (40,0)
212 (72,8)
144 (62,6)
86 (37,4)
Vẫn còn uống rượu
73 (84,9)
95 (60,1)
63 (39,9)
18 (78,3)
7 (58,3)
5 (41,7)
Nhiều muối trong bữa ăn
37 (77,1)

107 (60,1)
71 (39,9)
266 (75,6)
139 (62,6)
83 (37,4)
Vận động thể chất
168 (85,3)
33 (45,8)
39 (54,2)
135 (66,5)
213 (64,9)
115 (35,1)

Tổng (n=800)
Nghèo
Không nghèo
n (%)
n (%)
113 (44,7)
230 (42,1)

140 (55,3)
317 (57,9)

94 (54,3)
3 (18,7)

79 (45,7)
13 (81,3)


120 (43,0)
223 (42,8)

159 (57,0)
298 (57,2)

108 (44,3)
12 (34,3)

136 (55,7)
23 (65,7)

118 (52,2)
225 (39,2)

108 (47,8)
349 (60,8)

62 (23,1)
281 (52,9)

207 (76,9)
250 (47,1)

người không nghèo. Tuy nhiên, đối tượng nghèo 
Ở tỉnh Tây Ninh, đối tượng nghèo có nhiều 
có tỷ lệ thấp về việc hút thuốc và uống rượu hơn 
hành  vi  nguy  cơ  cho  sức  khỏe  ảnh  hưởng  tiêu 
nhóm không nghèo. 
cực  đến  sức  khỏe  của  họ  như  hút  thuốc  mỗi 

ngày,  ăn  mặn  và  vận  động  thể  chất  hơn  nhóm 
Bảng 6:So sánh việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa hai nhóm đối tượng nghèo ở thị xã Tây Ninh 
(n1=400) và nhóm đối tượng nghèo ở huyện Bến Cầu (n2=400) 

1 – 5 km
> 5 km
Thời gian đến trạm y tế
1 – 15 phút
16 – 30 phút
Dễ
Bình thường
1 – 5 km
> 5 km
Dễ
Bình thường
Khó khăn

Thị xã Tây Ninh
Huyện Bến Cầu
Khoảng cách từ nhà đến trạm y tế
16 (9,4)
213 (60,7)
15 (19,0)
16 (84,2)
56 (17,9)
184 (57,0)
41 (47,1)
48 (78,7)
Tiếp cận với nhân viên y tế
45 (32,1)

130 (66,7)
52 (20,0)
116 (56,6)
Khoảng cách từ nhà đến các cơ sở y tế khác
33 (19,5)
80 (74,1)
13 (9,8)
166 (56,9)
Tiếp cận với nhân viên y tế
11 (10,6)
84 (75,7)
85 (29,2)
159 (55,6)
1 (20,0)
3 (100)

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

p
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
0,003


11


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 


Không
Bệnh mạn tính

Không

Không
Bảo hiểm y tế

Không

Thị xã Tây Ninh
Huyện Bến Cầu
Tiếp cận các thông tin y tế
63 (19,9)
103 (45,0)
34 (40,5)
143 (83,6)
34 (29,8)
63 (22,0)

Sử dụng dịch vụ khám và điều trị
34 (26,2)
13 (26,5)
44 (17,7)
53 (35,1)

Bảng  6  chỉ  ra  rằng  các  đối  tượng  nghèo  ở 
huyện  Bến  Cầu  thật  sự  có  nhiều  khó  khăn  hơn 
về việc đến các trạm y tế so với thị xã Tây Ninh 
bởi  vì  những  trở  ngại  bởi  khoảng  cách  và  thời 
gian  (p<0,001).  Tuy  nhiên, khi được  hỏi  về  cảm 
giác khi tiếp cận với nhân viên y tế ở trạm y tế, 
tỷ lệ đối tượng nghèo ở huyện Bến Cầu cảm thấy 
dễ dàng khi tiếp xúc với nhân viên y tế cao hơn 
đáng  kể  so  với  đối  tượng  nghèo  ở  thị  xã  Tây 
Ninh. Với việc tiếp cận với các cơ sở y tế khác có 
sự tương đồng. Hơn nữa, tỉ lệ đối tượng nghèo ở 
huyện Bến Cầu nhận được thông tin y tế cao hơn 
đáng kể so với nhóm này ở thị xã Tây Ninh. Tỉ lệ 
bệnh mạn tính trong số đối tượng nghèo ở thị xã 
Tây  Ninh  thấp  hơn  đáng  kể  so  với  huyện  Bến 
Cầu  (p<0,001).  Hơn  nữa,  đối  tượng  nghèo  ở 
huyện  Bến Cầu sử  dụng nhiều hơn  đáng kể  về 
việc sử dụng dịch vụ y tế trong 12 tháng vừa qua 
so với nhóm đối tượng nghèo ở thị xã Tây Ninh. 
Về bảo hiểm y tế, tỷ lệ đối tượng nghèo ở thị xã 
Tây Ninh có bảo hiểm y tế thấp hơn đáng kể so 
với đối tượng nghèo ở huyện Bến Cầu. 

BÀN LUẬN 

Sự cách ly về địa lý và hạn chế phương tiện 
giao  thông  được  nhận  thấy  là  hai  chướng  ngại 
quan  trọng  để  tiếp  cận  các  cơ  sở  y  tế.  Kết  quả 
này phù hợp với nhiều nghiên cứu khác trên thế 
giới.  Một  trường  đại  học  ở  Texas  nghiên  cứu 
khoảng  cách  và  phương  tiện  giao  thông  ảnh 
hưởng  như  thế  nào  đến  việc  tiếp  cận  chữa  trị 
bệnh ung thư. Nghiên cứu phát hiện rằng nhiều 
bệnh nhân không đi chữa trị bệnh ung thư bởi vì 

12

p
< 0,001
< 0,001

38 (60,3)
208 (61,7)

< 0,001
< 0,001

68 (57,1)
31 (50,8)

< 0,001
0,008

120 (71,3)
144 (56,0)


< 0,001
< 0,001

vấn  đề  giao  thông.  Những  bệnh  nhân  này  cho 
rằng những cản trở như khoảng cách, tiếp cận xe 
ô  tô  và  có  sẵn  ai  đó  để  chở  họ  đi  chữa  bệnh  là 
những vấn đề chính. Những trở ngại như đi xa 
và  không  có  sẵn  phương  tiện  có  liên  quan  đến 
việc giảm sử dụng các dịch vụ y tế và sức khỏe 
kém  hơn(8).  Kết  quả  này  cũng  được  tìm  thấy 
trong  nghiên  cứu  bởi  Carrillo  và  cộng  sự,  đặc 
biệt  là  người  ở  khu  vực  nông  thôn  cũng  tương 
đương  với  thị  xã  Tây  Ninh  và  huyện  Bến  Cầu. 
Người  dân  có  cách  biệt  về  địa  lý  có  thể  không 
được  tiếp  cận  ngay  lập  tức  với  các  dịch  vụ  cấp 
cứu. Họ có thể phải đi xa để được chăm sóc y tế 
cơ bản, và còn xa hơn nữa nếu họ cần phải khám 
ở một chuyên gia(3). Báo cáo y tế của trường đại 
học Y khoa Stanford về sự chênh lệch và rào cản 
trong việc chăm sóc y tế bao gồm giao thông và 
khoảng  cách.  Một  vài  kết  quả  chính  bao  gồm 
người dân cần đi một khoảng cách xa để tiếp cận 
những cơ sở y tế chuyên khoa. Những cơ sở y tế 
trong khu vực này thì nhỏ và thường cung cấp 
những  dịch  vụ  giới  hạn.  Thông  thường,  do 
khoảng  cách  địa  lý,  điều  kiện  thời  tiết  khắc 
nghiệt, cản trở về môi trường và thời tiết, thiếu 
các phương tiện công cộng và những con đường 
khó đi, dân cư vùng nông thôn có thể bị giới hạn 

trong  việc  tiếp  cận  các  dịch  vụ  chăm  sóc  y  tế(10). 
Trong nghiên cứu này, số người dân sống tại Bến 
Cầu,  một  huyện  nghèo,  cao  hơn  đáng  kể  so  với 
người sống tại thị xã Tây Ninh, một thị xã giàu. 
Bệnh  mạn  tính  và  tình  trạng  nghèo  khó 
dường như là một vòng luẩn quẩn. Theo báo cáo 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
của WHO về tình trạng bệnh mạn tính và nâng 
cao  sức  khỏe,  người  nghèo  có  nhiều  nguy  cơ 
nhất về phát triển bệnh mạn tính và chết trẻ em 
bởi vì họ phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ nhiều 
hơn  và  bị  hạn  chế  việc  tiếp  cận  dịch  vụ  y  tế(12). 
Hơn  nữa,  báo  cáo  hàng  năm  của  chính  phủ  về 
sức khỏe  ở Mỹ năm 2011  đã  khám phá  ra  rằng 
người dân với thu nhập cao sẽ có tỷ lệ thấp mắc 
các  bệnh  mạn  tính  so  với  những  người  có  thu 
nhập ở mức thấp(3). Phân tích của Beaglehole và 
cộng  sự  về  gánh  nặng  của  bệnh  mạn  tính  báo 
cáo rằng các nước thu nhập thấp và trung bình 
chịu  gánh  nặng  về  các  bệnh  mạn  tính  như  đau 
tim,  ung  thư,  đái  tháo  đường  và  rối  loạn  tâm 
thần  cao  hơn  so  với  các  nước  thu  nhập  cao(2). 

Cuối cùng, nghèo tạo nên bệnh mạn tính. Người 
nghèo dễ bị những căn bệnh mạn tính và ngược 
lại  bệnh  mạn  tính  dường  như  làm  hao  mòn  đi 
tình trạng tài sản hiện có của họ. Trong khi đó sự 
giàu  có  có  thể  giúp  người  dân  tránh  hầu  hết 
những nguy cơ phát triển của các bệnh mạn tính 
và dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế. 
Tỷ lệ người nghèo ở huyện Bến Cầu sử dụng 
bảo hiểm y tế cao hơn nhiều so với đối tượng ở 
thị  xã  Tây Ninh.  Kết  quả  này  tương  đương  với 
báo  cáo  của  Sở  y  tế  tỉnh  Tây  Ninh  về  số  lượng 
bảo hiểm y tế của người nghèo ở thị xã Tây Ninh 
và  huyện  Bến  Cầu  năm  2011  (12.420  so  với 
631)(9). Chính phủ Việt Nam với triển vọng bảo 
hiểm y tế toàn dân hỗ trợ bảo hiểm y tế miễn phí 
cho  người  nghèo.  Hơn  nữa,  huyện  Bến  Cầu 
dường  như  là  một  trong  những  huyện  nghèo 
nhất ở tỉnh Tây Ninh trong khi thị xã Tây Ninh 
là một trong những huyện giàu. Cho nên, trong 
nghiên  cứu  này  số  lượng  người  nghèo  có  bảo 
hiểm  y tế  ở huyện  Bến Cầu  cao  hơn  thị  xã  Tây 
Ninh. Và bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Việt 
Nam khá khác biệt so với Mỹ. Qua báo cáo về độ 
bao phủ bảo hiểm y tế ở Mỹ, người dân có thu 
thập  thấp  sử  dụng  hơn  10%  thu  nhập  hộ  gia 
đình của họ trong việc chăm sóc sức khỏe, so với 
8% người có thu nhập cao. Hộ gia đình với thu 
nhập  trung  bình  sử  dụng  trung  bình  khoảng 
22% thu nhập trong việc chăm sóc y tế(11).  


Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

KẾT LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy bệnh mạn tính đang có 
xu hướng chiếm tỷ lệ cao trong 10 bệnh gây tử 
vong  hàng  đầu  tại  tỉnh  Tây  Ninh.  Đối  tượng 
thuộc hộ nghèo có xu hướng tiếp xúc thông tin y 
tế  ít  thuận  lợi  hơn  so  với  nhóm  không  nghèo. 
Song song đó, đối tượng nghèo có nhiều hành vi 
nguy  cơ  cho  sức  khỏe  ảnh  hưởng  tiêu  cực  đến 
sức  khỏe  của  họ  như  hút  thuốc  mỗi  ngày,  ăn 
mặn  và  vận  động  thể  chất  hơn  nhóm  người 
không nghèo. Tuy nhiên, nhóm nghèo lại ít mắc 
bệnh  mạn  tính  hơn  so  với  nhóm  không  nghèo. 
Tỷ  lệ  người  nghèo  ở  huyện  Bến  Cầu  sử  dụng 
bảo hiểm y tế cao hơn đáng kể so với đối tượng 
ở thị xã Tây Ninh.  

KIẾN NGHỊ 
Những  hành  vi  nguy  cơ  dẫn  đến  sức  khỏe 
kém trong nhóm nghèo là việc uống rượu và hút 
thuốc,  kết  hợp  với  việc  ăn  mặn  và  thiếu  vận 
động  thể  chất.  Cho  nên,  các  chính  quyền  địa 
phương nên tập trung nỗ lực giúp người nghèo 
giảm  các  hành  vi  nguy  cơ  như  hút  thuốc  và 
uống  rượu.  Những  thông  điệp  trong  mối  liên 
quan giữa những hành vi này và sức khỏe kém 
nên  được  tuyên  truyền  rộng  rãi  để  tăng  nhận 
thức  của  người  dân  sống  tại  những  khu  vực 
nghèo  để  họ  ngừng  uống  rượu  và  bỏ  thuốc. 

Người nghèo không dễ tiếp cận đến các dịch vụ 
chăm sóc y tế như người giàu do họ có hai vấn 
đề  chính:  phương  tiện  vận  chuyển  và  chi  phí 
dịch  vụ  y  tế.  Chúng  tôi  để  nghị  chính  sách  về 
bảo hiểm y tế toàn dân cần được thực hiện càng 
sớm càng tốt để giảm bớt cho người nghèo gánh 
nặng chi phí y tế/ chi phí bệnh viện khi mô hình 
chuyển  đổi  bệnh  tật  từ  bệnh  lây  là  chính  sang 
hướng bệnh không lây. Giáo dục sức khỏe về cả 
hành  vi khỏe mạnh  (bỏ hút  thuốc,  ngừng  uống 
rượu)  và  các  bệnh  không  lây sẽ  cùng  nhau  bảo 
vệ  người  nghèo  và  cả  cộng  đồng  từ  dịch  bệnh 
mạn tính. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Beaglehole R, Epping‐Jordan J, Patel V, Chopra M, Ebrahim S, 
Kidd  M,  Haines  A,  (2008).  Improving  the  prevention  and 

13


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
management  of  chronic  disease  in  low‐income  and  middle‐
income countries: a priority for primary health care.The Lancet, 

372 (9642): 940‐949. 

8.

Shook  M  (2005).  Transportation  Barriers  and  Health  Access 
for Patient Attending a Community Health Center. Portland 
State University.pp. 56‐67. 

2.

Carrillo JE, Carrillo V, Perez H, Salas‐Lopez D, Natale‐Pereira 
A,  Byron  AT  (2011).  Defining  and  Targeting  Health  Care 
Access Barriers.Journal of health care for the poor and underserved, 
22(2): 562‐575. 

9.

Sở Y tế Tây Ninh (2011). Báo cáo năm 2011 về tình hình sức 
khỏe  và  sử  dụng  dịch  vụ  chăm  sóc  sức  khỏe  tại  tỉnh  Tây 
Ninh. Tr 4‐6. 

10.

3.

Center for Disease Control and Prevention. (2010). Vital Signs: 
Health  Insurance  Coverage  and  Health  Care  Utilization  ‐ 
United 
States. 
Retrieved 

30/5/2012 
from 
/>a1.htm 

Stanford  University  (2010).  Healthcare  Disparities  and 
Barriers  to  Healthcare.Retrieved  20/6/2012.  from 
/>pros/factsheets/disparities‐barriers.html.  

11.

The  U.S.  Department  of  Health  and  Human  Services  (2012). 
Hidden  Cost  of  Health  Care.  Retrieved  22/6/2012.  from 
/>
12.

World  Health  Organisation  (2012).  Chronic  diseases  and 
health 
promotion. 
Retrieved 
20/6/2012 
from 
/>/index.html 

4.

5.

6.

7.


Deaton  A  (2003).  Health,  Income,  and  Inequality.  Retrieved 
28/5/2012, 
from 
/>Dunlop S, Coyte PC, McIsaac W (2000). Socio‐economic status 
and  the  utilisation  of  physiciansʹ  services:  results  from  the 
Canadian National Population Health Survey. Social Science 
& Amp. Medicine, 51(1): 123‐133. 
Ecob  R,  Smith  GD  (1999).  Income  and  health:  what  is  the 
nature  of  the  relationship?.  Social  Science  &  Medicine,  48(5): 
693‐705. 
Lynch  JW,  Kaplan  GA,  Pamuk  ER,  Cohen  RD,  Heck  KE, 
Balfour  JL,et  al  (1998).  Income  inequality  and  mortality  in 
metropolitan  areas  of  the  United  States.American  Journal  of 
Public Health.88(7) 1074‐1080. 

 
Ngày nhận bài báo: 

 

 

 15/5/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

17/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  


14/11/2014 

 

 

 

 

14

 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



×