Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Nghiên cứu Y học
THỰC HÀNH SỬ DỤNG NƯỚC SINH HOẠT, NƯỚC ĂN UỐNG
VÀ NHÀ TIÊU HỢP VỆ SINH TẠI HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN
KHU VỰC PHÍA NAM, NĂM 2012‐2013
Đặng Ngọc Chánh*, Nguyễn Đỗ Quốc Thống*,Nguyễn Trần Bảo Thanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Các hệ thống và hành vi vệ sinh, nước không an toàn nằm trong nhóm các nguy cơ hàng đầu
của gánh nặng bệnh tật toàn cầu được đo lường theo DALYs, và là nhóm nguy cơ cao thứ hai với tỷ lệ 6,3% ở
những nước đang phát triển. Tại Việt Nam, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh (40%)và tỷ
lệ hộ nghèo (15,9%) có một khoảng chênh lệch khá lớn. Lý do gì làm cho những hộ không phải hộ nghèo không sở
hữu một nhà tiêu hợp vệ sinh?
Mục tiêu: Mô tả thực hành về sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn uống; kiến thức và thực hành sử dụng nhà
tiêu hợp vệ sinh của hộ gia đình nông thôn
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả. Với dân số mục tiêu là các hộ gia đình nông thôn
tại các xã có triển khai chương trình Mục tiêu Quốc gia Nước Sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn (MTQG
NS & VSMT NT), trong hai năm 2012 và 2013. Dân số chọn mẫu là các hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh
trạm y tế xã.
Kết quả: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh hoạt là cao (chiếm 54,6% năm 2012 và 83,8% năm
2013); tuy nhiên chất lượng nước máy có nhiều vấn đề trong quá trình sử dụng, đặc biệt là với những hộ gia
đình được khảo sát trong năm 2013 (84,7%). Phần lớn các hộ gia đình sử dụng nước uống đóng chai hoặc nước
uống đóng bình 20 lít (32,1% năm 2012 và 55,2% năm 2013), kế đến là nước máy (27,9% năm 2012 và 32,7%
năm 2013). Tỷ lệ đại diện hộ gia đình cho biết có biết địa phương đang triển khai chương trình MTQGNS &
VSMT NT là thấp (dưới 22%). Rất ít đối tượng nêu được lợi ích lớn nhất của một nhà tiêu hợp vệ sinh là ‘diệt
được mầm bệnh có trong phân người’ (10% năm 2012 và 17,8% năm 2013). Tỷ lệ hộ gia đình có sở hữu nhà tiêu
hợp vệ sinh là thấp (44,3% năm 2013), khoảng 63% trong số này có dự định xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh; tuy
nhiên, đến 51,9% hộ gia đình cho biết chỉ xây dựng khi có sự hỗ trợ tài chính từ chương trình, và 55,4% hộ gia
đình cho biết không có kế hoạch cụ thể để thực hiện. Chi phí mà những hộ gia đình này dự kiến có thể chi ra để
xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là từ dưới năm trăm ngàn đồng cho đến dưới một triệu đồng (chiếm khoảng 89%)
Kết luận: Nghiên cứu có nhiều hạn chế về mặt thiết kế, và tính đại diện của mẫu, vì vậy tính giá trị từ dữ kiện
thu thập được là không cao. Dù vậy, dữ kiện thu được vẫn cho thấy một số điểm đáng lưu ý về thực hành sử dụng
nước sinh hoạt, ăn uống, nhà tiêu hợp vệ sinh tại hộ gia đình nông thôn. Mức độ tiếp cận các thông tin về các hoạt
động của chương trình MTQGNS & VSMTNT là thấp. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh hoạt, ăn
uống là cao; chất lượng nước máy nông thôn lại có nhiều vấn đề cần phải cải thiện. Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có
sở hữu nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp, và mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh được chấp nhận là mô hình giá rẻ.
Từ khoá: nước sinh hoạt, nước ăn uống, nhà tiêu hợp vệ sinh, hộ gia đình nông thôn
*
Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ks. Nguyễn Đỗ Quốc Thống
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
ĐT: 0987085201
Email:
111
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
ABSTRACT
PRACTICE ON USING DOMESTIC WATER, DRINKING WATER, AND SANITARY LATRINES AT
HOUSEHOLDS IN RURAL AREAS IN SOUTHERN VIETNAM, 2012‐2013
Dang Ngoc Chanh, Nguyen Do Quoc Thong, Nguyen Tran Bao Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 111 – 117
Background: Sanitation and hygiene behavior, unsafe water is ranked as one of the leading risks for global
burden of disease measured in disability‐adjusted life years (DALYs), and is the second leading risk accounted for
6.3 % of all burden of disease in developing countries. In Vietnam, the proportion of poor households is only 16%
but the proportion of rural households without sanitary latrines is 40%. Why can unpoor households not own
sanitary latrines?
Objectives:To assess practice on using domestic water, drinking water and knowledge and practice on using
sanitary latrines among residents in rural areas.
Methods: This is a descriptive cross‐sectional study. The target population was rural households in villages
where National Target Program on Clean Water and Rural Sanitation was implemented in 2012 – 2013. The
study population was households located within one kilometer of Commune Health Centers in these villages.
Results:The proportion of households using tap water for daily activities was high (54.6% in 2012 and
83,8% in 2013) but the quality of tap water was questionable. Most households used bottled water (31,2% in
2012 and 55.2% in 2013) and tap water (27.9% in 2012 and 32.7% in 2013) for drinking and cooking. However,
the proportion of households aware of the National Program on Clean Water and Rural Sanitation was very low
(under 22%). The proportion of households understanding the benefit of eliminating pathogens in human faeces
of sanitary latrines was also very low (10% in 2012 and 17.8% in 2013). Only 44.3% of the households had their
own sanitary latrines in 2013.
Conclusion: The proportion of households accessing to information on activities of the National Program was
low. The proportion of households using tap water for daily activities was high but its quality need to be improved.
The proportion of households with sanitary latrines was still low. Low‐cost sanitary latrines were affordable.
Key words: domestic water, drinking water, sanitary latrines, rural households
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các hệ thống và hành vi vệ sinh, nước không
an toàn nằm trong nhóm các nguy cơ hàng đầu
của gánh nặng bệnh tật toàn cầu được đo lường
theo DALYs (chiếm 4,2%), và là nhóm nguy cơ
cao thứ hai với tỷ lệ 6,3% ở những nước đang
phát triển(5). Phân người, và động vật không
được xử lý hợp vệ sinh sẽ gây ra nhiều bệnh lây
lan qua đường nước và các bệnh đường ruột
như tiêu chảy, ký sinh trùng, v.v. Theo Tổ chức
Y tế Thế giới, 88% số ca tử vong do tiêu chảy
trên thế giới là do các hệ thống và hành vi vệ
sinh, nước không an toàn. Và hơn 99% những ca
tử vong này là ở các nước đang phát triển, với
khoảng 84% xảy ra ở trẻ em(5). Trên toàn cầu,
112
mỗi năm bệnh tiêu chảy gây ra gần 1,7 tỷ ca, và
gây chết khoảng 760.000 trẻ em dưới 5 tuổi(6).
Tại Việt Nam, theo một báo cáo của Cục
quản lý môi trường y tế, vào thời điểm cuối năm
2010, 45% số hộ gia đình nông thôn được khảo
sát không có nhà tiêu(2). Đến năm 2011, báo cáo
tổng kết của giai đoạn 2 Chương trình Mục tiêu
quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông
thôn (MTQGNS & VSMT NT), cho thấy tỷ lệ hộ
gia đình nông thôn chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh
là 40%, tỷ lệ hộ gia đình được cấp nước đạt
QCVN 02: 2009/BYT là 42%, số hộ chăn nuôi có
chuồng trại hợp vệ sinh (có giải pháp xử lý chất
thải) là 45%, số xã/thị trấn có tổ thu gom rác thải
rất thấp 32%(1). Điều này đặt ra nhiều vấn đề sức
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Nghiên cứu Y học
khỏe liên quan đến những tác nhân gây bệnh
qua con đường phân‐miệng. Đối với khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ hộ gia đình
nông thôn có hợp vệ sinh là 54%(1). Trung bình
bốn hộ thì có 1 hộ sử dụng chung nhà tiêu, chủ
yếu là nhà tiêu không hợp vệ sinh (19,7%)(3).
Thật tế cho thấy, tuy không có số liệu thống
kê chính thức, qua nhiều kênh thông tin khác
nhau, vẫn còn tồn tại khó khăn là dù đã có thay
đổi về nhận thức, nhưng không có sự hỗ trợ tài
chính từ chính phủ, các tổ chức nước ngoài, tỷ lệ
các hộ gia đình được vận động tự bỏ tiền để xây
dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là không cao. Trong
khi đó, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 12,6%, khu vực
nông thôn là 15,9%, riêng khu vực đồng bằng
sông Cửu Long là 11,6%(4). Rõ ràng, với dữ kiện
sẵn có (chỉ tính riêng cho khu vực nông thôn) về
tỷ lệ hộ gia đình chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh
(40%) và tỷ lệ hộ nghèo (15,9%) có một khoảng
chênh lệch khá lớn, mặc dù sự so sánh chỉ mang
tính tương đối vì các số liệu thống kê được lấy từ
hai nguồn khác nhau.
Câu hỏi đặt ra là khoảng chênh lệch không
xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là vì những
nguyên nhân gì, do nhận thức chưa thay đổi
(chưa thật sự nhận thấy nhu cầu gia đình cần có
một nhà tiêu hợp vệ sinh), hay vì những lý do
khác, thí dụ, người dân vẫn trông chờ tài trợ. Từ
thực trạng này, trong hoạt động giám sát
Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn tại các tỉnh phía
Nam, chúng tôi đã thực hiện một khảo sát trên
các hộ gia đình tại một số xã có triển khai
chương trình thuộc một số tỉnh khu vực phía
Nam,trong hai năm 2012 và 2013. Mục tiêu là để
thu thập dữ kiện về thực hành sử dụng nước
sinh hoạt, nước ăn uống, kiến thức và thực hành
sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh của hộ gia đình
nông thôn.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định thực hành về sử dụng nước sinh
hoạt, nước ăn uống của các hộ gia đình nông thôn.
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
Xác định kiến thức, thực hành sử dụng nhà
tiêu hợp vệ sinh của các hộ gia đình nông thôn.
Mô tả lý do không xây dựng nhà tiêu hợp vệ
sinh của các hộ gia đình nông thôn.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu là hộ gia đình nông thôn tại
các xã có triển khai chương trình mục tiêu quốc
gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
trong hai năm 2012 và 2013. Dân số chọn mẫu là
các hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh trạm y
tế xã.
Đơn vị chọn mẫu là hộ, và chủ hộ của hộ
được chọn cũng là đơn vị nguyên tố. Trong
trường hợp chủ hộ không thể trả lời phỏng vấn
vì già yếu, hoặc đang có bệnh cản trở khả năng
giao tiếp, thì chọn một thành viên khác là một
người lớn có thẩm quyền trong gia đình.
Tiêu chí đưa vào
Hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh trạm
y tế xã.
Chủ hộ hoặc đại diện chủ hộ (>18 tuổi).
Đồng ý tham gia phỏng vấn.
Tiêu chí loại ra
Vắng nhà vào thời điểm điều tra.
Phương pháp nghiên cứu
Dữ kiện được thu thập tại hai thời điểm khác
nhau theo hoạt động giám sát Chương trình mục
tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn. Thực hành của người dân được
phỏng vấn tại hộ gia đình được chọn bằng bộ
câu hỏi soạn sẵn, đối tượng phỏng vấn là chủ hộ
hoặc đại diện chủ hộ (>18 tuổi).
Cỡ mẫu
Năm 2012: 240 hộ gia đình (tại 8 tỉnh là An
Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền
Giang, Bến Tre, Bình Phước, Tây Ninh; tại mỗi
tỉnh khảo sát 30 hộ gia đình tại một xã của một
huyện có triển khai chương trình).
113
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Năm 2013: 600 hộ gia đình (tại 6 tỉnh là Kiên
Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Long An, Cà Mau,
Bạc Liêu; tại mỗi tỉnh khảo sát 60 hộ gia đình tại
hai xã của một huyện có triển khai chương trình).
Dữ kiện được nhập bằng phần mềm Epidata
3.1, và phân tích bằng phần mềm Stata 10.Số
thống kê mô tả gồm tần số và phần trăm.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Những đặc tính của mẫu khảo sát tại hộ gia đình
Đặc tính
18-20
20+-30
30+-40
40+-50
50+-60
60+
Nam
Nữ
Kinh
Khác
Phật giáo
Thiên Chúa giáo
Thờ tổ tiên
Khác
Mù chữ
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Trung cấp, cao
đẳng
Đại học
Sinh viên
Viên chức
Buôn bán nhỏ lẻ
Doanh nghiệp kinh
doanh lớn
Lao động phổ thông
Nội trợ
Hưu trí
Thất nghiệp
114
Tần số (%)
Năm 2012
Năm 2013
(n = 240)
(n = 600)
Tuổi
4 (1,7)
0 (0)
46 (19,1)
46 (7,7)
45 (18,8)
257 (42,8)
83 (34,6)
197 (32,8)
37 (15,4)
75 (12,5)
25 (10,4)
25 (4,2)
Giới
105 (43,8)
351 (58,5)
135 (56,2)
249 (41,5)
Dân tộc
240 (100)
597 (99,5)
0 (0)
3 (0,5)
Tôn giáo
150 (62,5)
74 (12,3)
2 (0,8)
3 (0,5)
58 (24,2)
490 (81,7)
30 (12,5)
33 (5,5)
Trình độ học vấn
7 (2,9)
13 (2,2)
84 (35)
193 (32,1)
89 (37,1)
334 (55,7)
49 (20,4)
56 (9,3)
4 (1,7)
0 (0)
7 (2,9)
Nghề nghiệp
0 (0)
3 (1,3)
97 (40,4)
4 (0,7)
1 (0,2)
7 (1,2)
105 (17,5)
0 (0)
2 (0,3)
78 (32,5)
28 (11,6)
17 (7,1)
17 (7,1)
402 (67,0)
78 (13,0)
4 (0,6)
1 (0,2)
Đa số đối tượng được khảo sát nằm trong độ
tuổi từ trên 30 đến 50 tuổi, phần lớn là dân tộc
Kinh (năm 2012 chiếm 100%, và năm 2013 là
99,5% số đối tượng khảo sát). Về tôn giáo, năm
2012 số đối tượng có tôn giáo là Phật giáo chiếm
đa số (62,5%), sau đó là thờ tổ tiên (24,2%); trong
khi năm 2013 thì ngược lại, thờ tổ tiên chiếm
81,7%, và Phật giáo chiếm 12,3%. Trình độ học
vấn, chiếm tỷ lệ cao nhất là cấp hai (chiếm 37,1%
năm 2012, và 55,7% năm 2013), kế đến là cấp một
(chiếm 35% năm 2012 và 32,1% năm 2013), tỷ lệ
đối tượng mù chữ là thấp (2,9% năm 2012 và
2,2% năm 2013), tương tự như vậy đối với tỷ lệ
đối tượng có trình độ học là trung cấp, cao đẳng,
hay đại học. Về nghề nghiệp, chủ yếu là lao
động phổ thông (chiếm 32,5% năm 2012 và 67%
năm 2013) hoặc buôn bán nhỏ lẻ (40,4% năm
2012 và 17,5% năm 2013, sự phân bố đặc tính đối
tượng này một phần do địa điểm chọn hộ gia
đình để khảo sát là gần trạm y tế xã, nơi có mật
độ dân cư tương đối đông, hoạt động kinh
doanh mua bán là phổ biến (Bảng 1).
Bảng 2:Thực hành sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn
uốngtại các hộ gia đình
Tần số (%)
Năm 2012
Năm 2013
n = 240
n = 600
Nguồn nước dùng cho sinh hoạt
Nước máy
131 (54,6)
503 (83,8)
Nước giếng khoan
65 (27,1)
92 (15,3)
Nước giếng đào
41 (17,1)
6 (1,0)
Nước sông
3 (1,2)
5 (0,8)
Nước mưa
0 (0)
5 (0,8)
Chất lượng nước máy có
53 (40,5)
166 (84,7)
vấn đề
Đục
47 (88,7)
139 (83,7)
Màu vàng (do sắt)
8 (16,9)
66 (39,8)
Có mùi lạ
0 (0)
4 (2,4)
Nguồn nước dùng để ăn uống
Nước máy
67 (27,9)
196 (32,7)
Nước giếng khoan
46 (19,2)
36 (6,0)
Nước giếng đào
41 (17,1)
10 (1,7)
Nước mưa
7 (2,9)
235 (39,2)
Nước sông
2 (0,8)
5 (0,8)
Tiêu chí
Nước uống đóng chai
Có xử lý nước trước khi sử
dụng cho ăn uống
77 (32,1)
331 (55,2)
114 (47,5)
155 (25,9)
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Nghiên cứu Y học
Tần số (%)
Năm 2012
Năm 2013
n = 240
n = 600
Thỉnh thoảng
101 (88,6)
50 (8,3)
Luôn luôn
13 (11,4)
105 (17,5)
Giải pháp xử lý nước
Đun sôi
91 (79,8)
142 (91,6)
Lắng phèn
7 (6,01)
9 (5,8)
Lọc
24 (21,1)
12 (7,7)
Dùng chất khử trùng nước
2 (1,8)
7 (4,5)
Tiêu chí
Đối với thực hành sử dụng nước tại hộ gia
đình, kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ hộ gia đình
sử dụng nước máy cho sinh hoạt là cao (chiếm
54,6% năm 2012 và 83,8% năm 2013), kế đến là
sử dụng nước giếng khoan (chiếm 27,1% năm
2012 và 15,3% năm 2013), tỷ lệ hộ gia đình dùng
nước sông hay nước mưa cho sinh hoạt là thấp
(dưới 2%). Tuy vậy, một điểm đáng lưu ý là đối
với những hộ gia đình có sử dụng nước máy, tỷ
lệ cho biết chất lượng nước máy có vấn đề trong
quá trình sử dụng là cao, đặc biệt là với những
hộ gia đình được khảo sát trong năm 2013
(84,7%), tỷ lệ này trong năm 2012 là 40,5%.
Những vấn đề thường gặp là nước bị đục, có
màu vàng (do sắt), có mùi lạ, trong đó tỷ lệ nước
bị đục khá cao trên 80% (88,7% năm 2012 và
83,7% năm 2013).
Đối với nguồn nước ăn uống, đa số hộ gia
đình sử dụng nước uống đóng chai hoặc nước
uống đóng bình 20 lít cho ăn uống (32,1% năm
2012 và 55,2% năm 2013), kế đến là nước máy
(27,9% năm 2012 và 32,7% năm 2013), nước
giếng khoan hay nước mưa. Tuy nhiên, tỷ lệ có
xử lý nước trước khi dùng để ăn uống là thấp
(47,5% năm 2012 và 25,9% năm 2013). Đáng chú
ý là tỷ lệ đối tượng cho biết luôn luôn xử lý nước
trước khi sử dụng là thấp (dưới 18%). Mặt khác,
biện pháp xử lý nước được dùng phổ biến là
đun sôi (chiếm 79,8% năm 2012 và 91,6% năm
2013), những biện pháp xử lý khác như lắng
phèn, lọc hay dùng chất khử trùng nước là ít.
Trong khi đó, như kết quả khảo sát về chất
lượng nguồn nước trong bảng 1, nước máy có
rất nhiều vấn đề về độ đục, cặn bẩn, và chỉ xử lý
đơn thuần bằng đun sôi là không có tác dụng.
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
Bảng 3:Kiến thức, thực hành sử dụng nhà tiêu hợp
vệ sinh tại các hộ gia đình
Tiêu chí
Tần số (%)
Năm 2012
Năm 2013
n = 240
n = 600
Biết địa phương đang tham
52 (21,7)
124 (20,7)
gia thực hiện Chương trình
MTQG NS&VSMT NT
Từ nhân viên y tế
16 (30,8)
71 (57,3)
Từ nhân viên Ủy ban nhân
2 (3,8)
35 (28,2)
dân xã
Từ loa phát thanh
33 (63,5)
0 (0)
Khác
1 (1,9)
18 (14,5)
Những lợi ích của nhà tiêu hợp vệ sinh
Cô lập phân người
75 (31,3)
90 (15,0)
Ngăn động vật, côn trùng tiếp
45 (18,8)
157 (26,2)
xúc với phân
Diệt được mầm bệnh trong
24 (10,0)
107 (17,8)
phân
Không gây mùi khó chịu
53 (22,1)
271 (45,2)
Không làm ô nhiễm môi
165 (68,8)
419 (69,8)
trường
Văn minh, lịch sự
91 (37,9)
355 (59,2)
Nơi đi tiêu hiện nay của gia đình
Trên sông/kênh/rạch
0 (0)
21 (3,5)
Cầu tiêu ao cá
22 (9,2)
310 (51,7)
Đào lỗ đi tiêu
0 (0)
1 (0,2)
Đi nhờ nhà tiêu hợp vệ sinh
5 (2,0)
2 (0,3)
của hàng xóm
Nhà tiêu hợp vệ sinh của gia
213 (88,8)
266 (44,3)
đình
Lý do không xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh
Không cần thiết
4 (14,8)
129 (38,6)
Không biết kỹ thuật xây dựng 22 (81,5)
8 (2,4)
Không có tiền
1 (3,7)
197 (59,0)
Có dự định xây nhà tiêu hợp
17 (62,9)
209 (62,6)
vệ sinh
Thời điểm dự kiến xây dựng hay cải tạo nhà tiêu
Khi dành dụm đủ tiền
8 (29,6)
113 (33,8)
Chỉ khi nhận được sự hỗ trợ
14 (51,9)
36 (10,8)
tài chính
Không có kế hoạch cụ thể
5 (18,5)
185 (55,4)
Số tiền dự kiến có thể chi cho việc xây nhà tiêu
< 500.000
19 (70,4)
44 (13,3)
500.000 – 1.000.000
5 (18,5)
255 (76,3)
1.000.000+ – 2.000.000
3 (11,1)
12 (3,6)
2.000.000+
0 (0)
23 (6,9)
Một trong những mục tiêu của Chương trình
MTQG NS & VSMT NT là nâng cao tỷ lệ sử
dụng nhà tiêu hợp vệ sinh tại các hộ gia đình
nông thôn, thông qua các hoạt động truyền
115
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
thông giáo dục sức khỏe, và sự trợ cấp tài chính.
Tuy nhiên, một điểm đáng ghi nhận từ cuộc
khảo sát trong hai năm 2012, và 2013 là tỷ lệ đại
diện hộ gia đình cho biết có biết rằng địa
phương đang tham gia chương trình MTQG NS
& VSMT NT là thấp (dưới 22%). Khi được hỏi về
những lợi ích của một nhà tiêu hợp vệ sinh,
phần lớn đối tượng chỉ trả lời chung chung là
không làm ô nhiễm môi trường (chiếm đến
khoảng 69% trong cả hai năm), tỷ lệ đối tượng
biết rằng lợi ích lớn nhất của một nhà tiêu hợp
vệ sinh là diệt được mầm bệnh có trong phân
người là thấp (10% năm 2012 và 17,8% năm
2013).
Về thực hành sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh,
tỷ lệ có sở hữu nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp
(44,3% năm 2013), chưa đạt mục tiêu chương
trình đặt ra là 65% hộ gia đình nông thôn có nhà
tiêu hợp vệ sinh. Kết quả khảo sát trong năm
2012 cho thấy có đến 88,8% hộ gia đình có sở
hữu nhà tiêu hợp vệ sinh, tỷ lệ này là cao, tuy
nhiên, đặc tính của mẫu trong năm 2012 là tỷ lệ
hộ gia đình buôn bán nhỏ lẻ (gần chợ của xã, thị
trấn) chiếm tỷ lệ tương đối cao (40,4%), và đây
cũng có thể là một yếu tố tác động đến việc sở
hữu nhà tiêu hợp vệ sinh của các hộ gia đình.
Về lý do không xây dựng nhà tiêu hợp vệ
sinh, kết quả khảo sát năm 2012 cho thấy lý do
lớn nhất là không biết kỹ thuật xây dựng
(81,5%), thấy không cần thiết (14,8%); trong năm
2013 là do không có tiền (59,0%), cảm thấy
không cần thiết (38,6%). Một điểm đáng ghi
nhận là đối với những hộ gia đình chưa có nhà
tiêu hợp vệ sinh, có đến khoảng 63% có dự định
xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh; tuy nhiên, đến
51,9% hộ gia đình cho biết chỉ xây dựng khi có
sự hỗ trợ tài chính từ chương trình, và 55,4% hộ
gia đình cho biết không có kế hoạch cụ thể để
thực hiện, và số tiền mà những hộ gia đình này
dự kiến có thể chi ra để xây dựng nhà tiêu hợp
vệ sinh là từ dưới năm trăm ngàn đồng cho đến
dưới một triệu đồng (chiếm khoảng 89%).
116
BÀN LUẬN
Phần lớn đối tượng đại diện hộ gia đình
được khảo sát là người Kinh, đây là một điểm
thuận lợi cho các hoạt động truyền thông giáo
dục sức khỏe của chương trình; số đối tượng
trong độ tuổi từ trên 30 đến dưới 50 là cao, đây
vừa là điểm thuận lợi do những đối tượng này
có thể đóng góp nhiều về tài chính trong gia
đình, mặt khác lại là một trở ngại khi có khả
năng khoảng thời gian có mặt tại hộ gia đình là
không nhiều, các hoạt động truyền thông giáo
dục sức khỏe khó tiếp cận được.
Đối với thực hành sử dụng nước tại hộ gia
đình, điểm nổi bật là chất lượng nước máy có
vấn đề trong quá trình sử dụng là cao, đặc biệt là
với những hộ gia đình được khảo sát trong năm
2013 (84,7%), tỷ lệ này trong năm 2012 là 40,5%.
Kết quả này phần nàophản ánh chất lượng nước
cấp nông thôn là chưa tốt, cần phải cải thiện để
khuyến khích người dân sử dụng nước cấp, và
sau đó là phòng ngừa bệnh, nâng cao sức khỏe
cộng đồng.
Đối với nguồn nước ăn uống, các hộ gia đình
được khảo sát chủ yếu sử dụng nước uống đóng
chai hoặc nước uống đóng bình 20 lít, kế đến là
nước máy. Tuy nhiên, tỷ lệ có xử lý nước trước
khi dùng để ăn uống là thấp (47,5% năm 2012 và
25,9% năm 2013), và biện pháp xử lý nước được
dùng phổ biến là đun sôi (chiếm 79,8% năm 2012
và 91,6% năm 2013), những biện pháp xử lý khác
như lắng phèn, lọc hay dùng chất khử trùng
nước là ít. Trong khi đó, cũng theo những đối
tượng này, chất lượng nước máy có vấn đề về độ
đục, cặn, màu vàng do sắt như đã nêu ở trên là
một quan ngại đối với sức khỏe.
Tính hiệu quả của các hoạt động truyền thông
giáo dục sức khỏe từ chương trình MTQG NS &
VSMT NT, mức độ các thông tin từ những hoạt
động này đến được với các hộ gia đình nông thôn
là những điểm cần lưu ý (tỷ lệ đối tượng cho biết
có biết rằng địa phương đang triển khai chương
trình MTQG NS & VSMT NT là thấp với chỉ
22%). Và có thể hiệu quả truyền thông thấp đã
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Nghiên cứu Y học
góp phần vào những kết quả không tốt về kiến
thức, thực hành đối với nhà tiêu hợp vệ sinh. Nổi
bật là hầu hết đối tượng không nêu được lợi ích
lớn nhất của một nhà tiêu hợp vệ sinh là diệt
được mầm bệnh có trong phân người là thấp
(10% năm 2012 và 17,8% năm 2013). Tỷ lệ có sở
hữu nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp, chưa đạt mục
tiêu chương trình đặt ra là 65% hộ gia đình nông
thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh. Lý do không sở hữu
một nhà tiêu hợp vệ sinh chủ yếu là không có
tiền, và thấy không cần thiết. Điểm tích cực là đối
với những hộ gia đình chưa có nhà tiêu hợp vệ
sinh, có đến khoảng 63% có dự định xây dựng
nhà tiêu hợp vệ sinh, tức là đã phần nào có sự
thay đổi về nhận thức; tuy nhiên, đến 51,9% hộ
gia đình cho biết chỉ xây dựng khi có sự hỗ trợ tài
chính từ chương trình, chi phí dự kiến có thể chi
ra để xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là từ dưới
năm trăm ngàn đồng cho đến dưới một triệu
đồng (chiếm khoảng 89%). 55,4% hộ gia đình cho
biết không có kế hoạch cụ thể để thực hiện, cho
thấy khả năng thực sự những hộ gia đình này sẽ
xây một nhà tiêu hợp vệ sinh trong tương lai gần
là không cao.
đình nông thôn. Thứ nhất,tính hiệu quả của các
hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe từ
chương trình MTQG NS & VSMT NT, mức độ
các thông tin từ những hoạt động này đến được
với các hộ gia đình nông thôn là thấp. Thứ hai,
tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh
hoạt, ăn uống là cao, tuy nhiên chất lượng nước
máy lại có nhiều vấn đề cần phải cải thiện; và
những giải pháp xử lý nước tại hộ gia đình chủ
yếu là đun sôi, trong những hoạt động truyền
thông giáo dục sức khỏe cần khuyến cáo người
dân dùng những phương pháp xử lý mang tính
‘hỗ trợ’ khác trước khi đun sôi như lắng, lọc, v.v.
Thứ ba, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có sở hữu
nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp, chưa đạt mục tiêu
chương trình đặt ra là 65% hộ gia đình nông
thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; và đa phần đối
tượng cho biết chỉ xây dựng khi có sự hỗ trợ tài
chính từ chương trình, không có kế hoạch cụ thể
để thực hiện. Thứ tư, mô hình nhà tiêu hợp vệ
sinh phù hợp với các hộ gia đình nông thôn là
mô hình giá rẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cuối cùng, tính giá trị của dữ kiện thu thập
được từ cuộc khảo sát là hạn chế. Có nhiều lý do,
thứ nhất là cỡ mẫu tuy lớn, nhưng mẫu là không
đại diện cho tất cả những hộ gia đình nông thôn,
vì những khu vực được khảo sát là tập trung
quanh trạm y tế xã, gần chợ của xã/thị trấn,
nhiều khả năng mẫu được chọn không đại diện
cho những hộ gia đình ‘đặc trưng’ nông thôn. Vì
vậy, những dữ kiện được thể hiện trong bài báo
này chỉ mang tính tham khảo.
KẾT LUẬN
Cuộc khảo sát có nhiều hạn chế về mặt thiết
kế, và tính đại diện của mẫu, vì vậy tính giá trị
từ dữ kiện thu thập được là không cao. Dù vậy,
dữ kiện thu được vẫn cho thấy một số điểm
đáng lưu ý về thực hành sử dụng nước sinh
hoạt, ăn uống, nhà tiêu hợp vệ sinh tại hộ gia
1.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011). Báo cáo tổng
kết giai đoạn 2 chương trình MTQG NSVSMTNT. Hà Nội. Tr.
5.
2.
Cục quản lý môi trường y tế (2012). Báo cáo đánh giá lĩnh vực
cấp nước và vệ sinh môi trường Việt Nam. Hà Nội. Tr. 16.
3.
Tổng cục thống kê (2011). Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ
em và phụ nữ. Hà Nội. Tr. 117.
4.
Tổng cục thống kê (2011). Niên giám thống kê 2011. Hà Nội.
Tr. 676.
5.
World Health Organization (2009). Global health risks.
Mortality and burden of disease attributable to selected major
risks. Geneva. Pp. 12‐23.
6.
World Health Organization (2010). Diarrhoeal disease. http:
//www.who.int/mediacentre/factsheets/fs330/en/. Accesed on
19/3/2014.
Ngày nhận bài báo:
14/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
18/6/2014
Ngày bài báo được đăng:
14/11/2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng
117