Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tỷ lệ tăng huyết áp và những hành vi nguy cơ ở người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.89 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

TỶ LỆ TĂNG HUYẾT ÁP VÀ NHỮNG HÀNH VI NGUY CƠ  
Ở NGƯỜI 25‐64 TUỔI TẠI HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN NĂM 2012 
Trần Văn Hương* , Nguyễn Đỗ Nguyên** 

TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề:  Ở những bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện huyện Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận 
trong các năm qua,tăng huyết áp có chiều hướng gia tăng, nhưng điều này chưa hẳn đã phản ánh được tỷ lệ hiện 
mắc của tăng huyết áp ở cộng đồng. Ngoài ra chưa có một khảo sát nào về các hành vi nguy cơ của tăng huyết áp 
ở người dân Ninh Hải. 
Mục  tiêuXác  định  tỷ lệtăng huyết  áp  và  tỷ  lệ  những hành vi nguy  cơ liên quan  ở  người 25‐64  tuổi  tại 
huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, năm 2012. 
Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành ở 872 người dân 25‐64 tuổi.Tăng huyết áp 
được định nghĩa làhuyết áp tâm thu lớn hơn hay bằng 140 mmHg hoặc/vàhuyết áp tâm trương lớn hơn hay bằng 
90 mmHg. Bộ câu hỏi phỏng vấn được dựa theo bộ câu hỏi khảo sát STEPs về những bệnh không lây của Tổ 
Chức Y Tế Thế Giới. Những biến số hành vi gồm hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, ăn rau quả, sử dụng chất béo 
động vật trong nấu ăn, ăn mặn, và vận động thể lực. Dữ kiện được phân tích bằng phần mềm STATA 11.0, với 
phương pháp svy cho khảo sát mẫu cụm. 
Kết quả: Dựa vào trị số huyết áp đo ở thời điểm nghiên cứu, có 15% dân số là tăng huyết áp, nhưng nếu 
tính luôn những người đã được chẩn đoán tang huyết áp trước đó mà ở thời điểm nghiên cứu có huyết áp bình 
thường thì tỷ lệ tăng huyết áp là 20%. Tỷ lệ béo phì chung trong dân số là 10%. Tỷ lệ đang có hút thuốc lá trong 
dân số chung là 37%. Tỷ lệ có sử dụng rượu bia trong dân số chung là 44%. Hầu hết người dân ít ăn rau quả, 
nhưng sử dụng dầu thực vật trong chế biến thức ăn. Khoảng ¾ dân số cho rằng có ăn mặn. Chỉ có 40% hoạt 
động thể lực ở mức độ cao.Tỷ lệ béo phì ở những người có tăng huyết áp là 19%. Những hành vi nguy cơ còn rất 
phổ biến ở những người tăng huyết áp, đặc biệt là hành vi hút thuốc lá, lạm dụng rượu, ít vận động thể lực, và ít 
ăn rau quả. 


Kết luận: Tỷ lệtăng huyết áp người dân 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận là cao, và những 
yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp vẫn còn phổ biến ở nhóm có tăng huyết áp là những thách thức trong việc kiểm 
soát bệnh tăng huyết áp ở cộng đồng. Giáo dục sức khỏe cần được tăng cường nhiều hơn nữa. 
Từ khoá Tăng huyết áp, tỷ lệ hiện mắc, hành vi nguy cơ 

ABSTRACT 
PREVALANCE OF HYPERTENSION AND ITS RISK BEHAVIORS AT THE POPULATION AMONG 
25‐64 YEARS OLD IN NINH HAI DISTRICT, NINH THUAN PROVINCE, 2012 
Tran Van Huong, Nguyen Do Nguyen  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 709 ‐ 716 
Background: The proportion of hypertension among out ‐ and inpatients at Ninh Hai district health center 
has been increasing, however it does not reflect a true high prevalence of hypertension in community. In addition, 
there has been no study on risk behaviors associated to hypertension among Ninh Hai people. 
Objectives:  To determine the prevalence of hypertension and related behavioral risk factors among people 
* Trung tâm Y tế huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận 
 
** Bộ môn Dịch tễ, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Văn Hương 
ĐT: 0909567823 

708

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

aged 25‐64 years at Ninh Hai in 2012. 
Methods:  A  cross‐sectional  community  survey  was  conducted  among  872  people  aged  25‐64  years. 
Hypertension  was  defined  as  a  systolic  blood  pressure  of  ≥140mmHg  and/or  a  diastolic  blood  pressure  of 
90mmHg. The STEPs survey questionnaire by the WHO was used to interview the study subjects about tobacco 
use, alcohol consumption, diet, and physical activity. The survey commands of STATA version 11.0 software was 
used for data analyses. 
Results: The prevalence of hypertension based on actual blood pressure measures was 15%, and was 20% if 
currently  using  antihypertensive  subjects  included.  The  proportion  of  obesity,  currently  smoking,  and  alcohol 
consumption was 10%, 37%, and 44%, respectively. Most of the people did not eat vegetable, but used vegetable 
oil in food processing. About ¾ used salty foods and only 40% had physical activity at high intensity. Among the 
hypertensive group, the proportion of obesity was 19%, and other behavioral risk factors were still common such 
as smoking, binge drinking, physical inactivity, and low vegetable intake. 
Conclusion: The proportion of hypertension among people aged 25‐64 years at Ninh Hai district was high, 
and the prevalence of related behavioral risk factors among the hypertensive group is a challenge for the control of 
community hypertension problem. Health education needs to be strengthened. 
Key words Hypertension, prevalence, behavioral risk factors 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh phổ biến 
trên thế giới cũng như ở Việt Nam, là mối đe dọa 
rất  lớn  đối  với  sức  khoẻ  của  con  người,  là 
nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở 
người cao tuổi. Tỷ lệ hiện mắc có xu hướng tăng 
nhanh không chỉ ở các nước phát triển mà ở cả 
các  nước  đang  phát  triển.  Dự  báo  trong  những 
năm tới số người mắc THA sẽ còn tăng, do các 
yếu  tố  liên  quan  như  hút  thuốc  lá,  lạm  dụng 
rượu bia, dinh dưỡng bất hợp lý, và ít vận động 
vẫn còn phổ biến. Những nghiên cứu gần đây ở 
Việt  Nam  cho  thấy  tỷ  lệ  THA  ở  nhiều  địa 

phương là trên 20%(7,5,3). Ở những bệnh nhân đến 
khám và điều trị tại bệnh viện huyện Ninh Hải 
tỉnh  Ninh  Thuận  trong  các  năm  qua,  THA  có 
chiều  hướng  gia  tăng,  với  số  lượt  bệnh  nhân 
tương  ứng  trong  các  năm  2010  và  2011  là  6.720 
và 8.137 lượt; riêng quý 1 năm 2012 đã có 2.396 
lượt. Tỷ lệ bệnh nhân THA đến điều trị nội trú 
cũng  tăng,  7,62%  và  8,31%,  tương  ứng  trong 
năm  2010  và  2011;  riêng  quý  1  năm  2012  là 
10,34%.  Mặc  dù  tỷ  lệ  khám  và  điều  trị  THA  có 
chiều hướng gia tăng nhưng điều này chưa hẳn 
đã  phản  ánh  được  tỷ  lệ  hiện  mắc  của  THA  ở 
cộng  đồng.  Ngoài  ra  chưa  có  một  khảo  sát  nào 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

về  các  hành  vi  nguy  cơ  của  THA  ở  người  dân 
Ninh  Hải.  Mục  tiêu  của  nghiên  cứu  này  là  xác 
định tỷ lệ THA và tỷ lệ những hành vi nguy cơ 
liên quan ở người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, 
tỉnh Ninh Thuận, năm 2012. 

ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP 
Một khảo sát cắt ngang cộng đồng được tiến 
hành  ở  dân số những người  dân 25‐  64 tuổi  cư 
trú tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận trong 
năm  2012.  Để  có  95%  tin  tưởng  tỷ  lệ  THA  của 
dân số mục tiêu là 25%(6), với độ chính xác tuyệt 
đối là 4% và hiệu quả thiết kế của mẫu cụm là 2, 
cỡ mẫu được ước lượng là 900 người. Kỹ thuật 

chọn mẫu cụm 2 bậc với xác suất chọn tỷ lệ với 
kích  cỡ  dân  số  được  sử  dụng  để  chọn  30  thôn 
hoặc khu phố từ 49 thôn và khu phố của huyện 
Ninh  Hải.  Tại  mỗi  thôn  hoặc  khu  phố  có  30 
người được chọn, chia đều theo 4 nhóm tuổi và 
giới  tính,  tức  là  khoảng  4  nam  và  4  nữ  trong 
từng  nhóm  tuổi  25‐34,  35‐44,  45‐54,  55‐64.  Hộ 
đầu tiên của một cụm được chọn ngẫu nhiên, và 
những người trong hộ thoả đủ tiêu chí chọn mẫu 
sẽ được chọn hết vào nghiên cứu. Nếu không đủ 
đối tượng cho một nhóm tuổi và giới tính, mẫu 
sẽ được chọn ở hộ tiếp theo liền vách bên phải. 
Nếu số người trong một hộ là nhiều hơn số đối 

709


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
tượng cần chọn của một nhóm tuổi và giới tính 
thì  sẽ  chọn  ngẫu  nhiên  đơn.  Đối  tượng  nghiên 
cứu phải đang sống tại huyện Ninh Hải ít nhất 
là 12 tháng kể cả người tạm trú, và đồng ý tham 
gia. Tiêu chí loại là: những người bị cụt 2 tay do 
bẩm sinh hay tai nạn; không có khả năng nghe, 
hiểu và trả lời những câu hỏi; có bệnh tâm thần 
dạng  kích  động;  phụ  nữ  có  thai;  những  người 

đang điều trị bệnh làm thay đổi huyết áp (HA) 
mà không phải điều trị THA; hoặc những người 
đang mắc bệnh tiêu chảy hoặc sốt. Những người 
tình  nguyện  vì  muốn  được  đo  HA  sẽ  không 
được  phỏng  vấn  và  cũng  không  được  đưa  vào 
phân tích. 
Những biến số nền gồm nhóm tuổi; giới; dân 
tộc (Kinh, Chăm, Raglai, và dân tộc khác); trình 
độ học vấn (không đi học chính thức, cấp 1, cấp 
2, cấp 3 và trên cấp 3); nghề nghiệp, là việc làm 
chính trong 12 tháng trở lại, gồm lao động trí óc 
(cán  bộ  quản  lý,  hành  chính,  văn  phòng,  công 
chức,  viên  chức,  chủ  cơ  sở),  lao  động  chân  tay 
(gồm những nghề phải sử dụng cơ bắp như thợ 
hồ, thợ xây, khuân vác, xe thồ, ba gác, chế biến 
thực phẩm, tiểu thủ công nghiệp), và nhóm khác 
gồm hưu trí, nội trợ, hoặc già yếu không còn khả 
năng lao động. 
Hiện  đang  hút  thuốc  lá  là  khi  có  hút  thuốc 
(như xì gà, thuốc lá, thuốc lào, thuốc tẩu) trong 
vòng 6 tháng qua. Mức độ hút thuốc lá có 4 giá 
trị là không hút, <10 điếu/ngày, 10‐20 điếu/ngày, 
và >20 điếu/ngày. Thời gian hút thuốc gồm 2 giá 
trị là ≤5 năm và >5 năm. Sử dụng rượu bia được 
đo  lường  qua  các  biến  số  có  uống  bất  kỳ  thức 
uống  có  rượu  trong  vòng  12  tháng  qua,  tần  số 
uống rượu trong 12 tháng qua (5 ngày/tuần, 1‐4 
ngày/tuần,  1‐3  ngày/tháng,  <1  ngày/tháng),  lạm 
dụng  rượu  (uống  rượu,  bia  với  số  lượng  ≥5  ly 
chuẩn  vào  bất  kỳ  ngày  nào  trong  tuần  qua  đối 

với  nam,  hoặc  ≥4  ly  chuẩn  đối  với  nữ).  Định 
nghĩa một ly rượu chuẩn tương đương 1 lon bia 
330ml, hay nửa xị (125ml) rượu nhẹ (như vang, 
sâm  banh),  hay  nửa  ly  xây  chừng  (30ml)  rượu 
mạnh (như whisky, cognac, đế). 

710

Những  biến  số  về  thói  quen  ăn  uống  bao 
gồm  ăn  rau,  củ,  quả  ≥5  suất/  ngày  (một  suất  là 
khoảng 150‐200g rau hoặc trái cây), sử dụng chất 
béo  động  vật  trong  nấu  ăn,  ăn  mặn  (có  ăn  một 
trong  những  thức  ăn  mặn  ≥3  bữa  ăn/tuần;  với 
các  loại  thức  ăn  như  nước  mắm  nguyên  chất, 
mắm cá, tép, ba khía, cá khô, tôm khô mặn, dưa 
muối, nước tương nguyên chất, tương chao, thịt 
muối, trứng muối).  
Mức  độ  vận  động  thể  lực  là  biến  số  thứ  tự 
với ba giá trị cao (dựa trên 2 tiêu chí: hoạt động 
nặng ít nhất 3 ngày và tích lũy ít nhất 1500 MET 
phút/ tuần (MET: Metabolic Equivalent); hầu hết 
7 ngày có bất kỳ hoạt động nào như đi bộ, hoạt 
động  nặng  hoặc  vừa  và  tích  lũy  ít  nhất  3000 
MET phút/tuần); trung bình (dựa trên 1 trong 3 
tiêu  chí:  3  ngày  hoặc  hơn  trong  tuần  có  hoạt 
động  cường  độ  mạnh  ít  nhất  20  phút/ngày;  5 
ngày  hoặc  hơn  trong  tuần  có  hoạt  động  cường 
độ  trung  bình  hoặc/và  đi  bộ  ít  nhất  30 
phút/ngày; 5 ngày hoặc hơn trong tuần có bất kì 
kết  hợp  vận  động  nào  như  đi  bộ,  hoạt  động  ở 

cường  độ  mạnh  tích  lũy  ít  nhất  600  MET 
phút/tuần),và  thấp  (không  có  bất  kỳ  các  hoạt 
động kể trên). 
THA  được  định  nghĩa  là  HA  tâm  thu  lớn 
hơn  hay  bằng  140  mmHg  hoặc/và  HA  tâm 
trương lớn hơn hay bằng 90 mmHg. Đối tượng 
có  tiền  sử  THA  khi  số  đo  HA  tại  thời  điểm 
nghiên cứu là bình thường nhưng có THA trong 
vòng  12  tháng  qua  (do  nhân  viên  y  tế  cho  biết, 
hoặc có sổ khám bệnh, hoặc đang sử dụng thuốc 
điều trị THA). Chỉ số khối cơ thể (BMI) gồm các 
nhóm, theo phân loại béo phì cho cộng đồng các 
nước  Châu  Á  là  nhẹ  cân  (<18,5  kg/m2),  bình 
thường  (18,5‐22,99  kg/m2),  thừa  cân  (23‐24,99 
kg/m2), và béo phì (≥25 kg/m2). 
Bộ câu hỏi phỏng vấn được dựa theo bộ câu 
hỏi  khảo  sát  STEPs  về  những  bệnh  không  lây 
của Tổ Chức Y Tế Thế Giới(9). Cân nặng được đo 
với  cân  Nhơn  Hoà  theo  tiêu  chuẩn  chất  lượng 
Việt  Nam,  và  chiều  cao được  đo  với  thước  dây 
có vạch centimet. HA được đo với máy đo đồng 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

hồ  (Aneroid  Sphygmomanometer  của  Nhật), 
được hiệu chỉnh không chênh lệch quá 3mmHg 
theo  HA  kế  thủy  ngân  ALPK2.  HA  được  đo  ít 
nhất 2 lần cách nhau 15 phút. Nếu HA tâm thu 
lần 1 và lần 2 khác biệt quá 25mmHg hoặc HA 
tâm trương hai lần khác biệt quá 15 mmHg thì sẽ 
tiến  hành  đo  HA  lần  3.  Trị  số  HA  được  tính  là 
giá  trị  trung  bình  của  những  lần  đo.  Dụng  cụ 
cân, đo được trang bị mới và hiệu chỉnh thường 
xuyên.  Trong  quá  trình  thu  thập  dữ  kiện  giám 
sát viên kiểm tra và loại bỏ dữ kiện không chính 
xác,  thẩm  tra  ngẫu  nhiên  các  phiếu  phỏng  vấn 
ngay sau khi phỏng vấn. 
Tất  cả  các  phân  tích  trong  nghiên  cứu  này 
được thực hiện với phương pháp svy trong gói 
phần mềm thống kê STATA phiên bản 11.0. Các 
phân tích được điều chỉnh cho các tầng lấy mẫu, 
đơn  vị  lấy  mẫu  chính,  và  trọng  lượng  dân  số 
nhằm  làm  cho  mẫu  điều  chỉnh  là  đại  diện  cho 
phân  bố  dân  số  tham  chiếu  của  những  người 
trưởng thành tuổi từ 25‐64 ở cả hai giới nam và 
nữ sống tại Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận từ nguồn 
dữ kiện điều tra dân số tại huyện Ninh Hải năm 
2009.  Thống  kê  mô  tả  được  trình  bày  với  tỷ  lệ 
hoặc/và  sai  số  chuẩn.  Phép  kiểm  chi  bình 
phương  được  sử  dụng  để  so  sánh  tỷ  lệ.  Đề 
cương nghiên cứu được thông qua bởi Khoa Y tế 
Công  cộng  Đại  học  Y  Dược  thành  phố  Hồ  Chí 
Minh, và thu thập dữ kiện được sự chấp thuận 
của Sở Y tế tỉnh Ninh Thuận. 


KẾT QUẢ 
Bảng 1: Các đặc điểm về dân số học, tỷ lệ phần trăm 
Biến số
Giới
Dân tộc
Kinh
Khác
(Chăm, Raglay, v.v)
25-34
Nhóm tuổi
(năm)
35-44
45-54
55-64
Không đi học
Trình độ
học vấn
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Trên cấp 3
Lao động tri óc
Nghề
nghiệp
Lao động chân tay
Khác(hưu trí, nội trợ)

Chung
100

93
7

Nam
51
93
7

Nữ
49
92
8

36
34
19
11
11
38
30
11
10
12
55
32

34
33
20
12

9
35
30
13
14
15
69
16

37
35
19
9
13
42
29
9
7
10
41
49

Bảng 2:Tình trạng dinh dưỡng và THA, tỷ lệ phần 
trăm và (sai số chuẩn) 
Biến số
Tình trạng dinh dưỡng
Thiếu cân
Bình thường
Thừa cân
Béo phì

THA 1 *
THA 2**

Chung

Nam

Nữ

13 (1,2)
61 (2,5)
15 (1,8)
10 (2,0)
15 (1,0)
20 (1,7)

14 (1,6)
65 (2,5)
13 (1,5)
8 (1,8)
18 (1,3)
21 (1,8)

13 (1,9)
58 (4,3)
17 (3,4)
12 (3,0)
12 (1,7)
19 (1,7)


* THA 1: dựa vào số đo HA ở thời điểm nghiên cứu 
** THA 2: dựa vào số đo HA ở thời điểm nghiên cứu, và 
người có THA nhưng số đo HA bình thường ở thời điểm 
nghiên cứu 

Bảng 3: Hành vi hút thuốc lá và uống rượu, tỷ lệ phần trăm (sai số chuẩn) 
Biến số
Đang hút thuốc
Số điếu hút/ngày ở người
đang hút

<10
10-20
>20
Thời gian hút thuốc
≤5 năm
>5 năm
Sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua
Không sử dụng
Tần số sử dụng rượu trong
12 tháng qua
Uống 5-6 ngày/tuần
Uống 1-4 ngày/tuần
Uống 1-3 ngày/tháng
Uống<1 ngày/tháng
Lạm dụng rượu

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Chung

37 (1,2)
26 (4)
69 (4)
5 (1)
1 (0,3)
34 (2,1)
44 (2,4)
56 (2,2)
9 (1,8)
12 (2,5)
15 (2,4)
9 (1,4)
17 (1,9)

Nam
71 (2,4)
22 (4)
73 (4)
5 (1)
2 (0,6)
65 (4,2)
80 (3,6)
20 (3,4)
19 (3,5)
22 (4,8)
29 (4,6)
11 (2,4)
32 (3,7)

Nữ

1 (0,2)
75 (25)
25 (25)
0 (0)
0 (0)
1 (0,2)
7 (1,1)
93 (1,9)
0 (0,2)
1 (0,7)
0 (0,2)
6 (1,8)
1 (0,5)

711


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Bảng 4: Thói quen ăn uống và hoạt động thể lực, tỷ lệ phần trăm (sai số chuẩn) 
Biến số
Ăn rau quả ≥5 suất/ngày
Có ăn mặn
Dầu thực vật
Chất béo sử dụng trong
nấu ăn
Mỡ động vật


Nhiều thứ
Mức độ hoạt động thể lực
Cao
Vừa
Thấp
Có hoạt động khi nghỉ ngơi

Chung
2 (1,2)
73 (9,1)
97 (1,7)
0,1 (0,1)
0,1 (0,1)
3 (1,7)
40 (4,4)
22 (4,0)
38 (4,6)
94 (2,0)

Nam
3 (1,3)
75 (8,7)
96 (1,8)
0 (0,1)
0 (0)
4 (1,9)
51 (3,7)
12 (1,6)
37 (3,6)

92 (2,9)

Nữ
2 (1,3)
70 (9,9)
97 (1,7)
0 (0)
0,17 (0,17)
2 (1,7)
28 (6,2)
33 (7,3)
40 (7,7)
96 (1,3)

Bảng 5: Phân bố các yếu tố nguy cơ ở hai nhóm có và không THA (dựa vào HA thực đo), tỷ lệ phần trăm 
Biến số

BMI ≥25
Đang hút thuốc
Lạm dụng rượu
Ăn rau quả <5 suất/ngày
Ăn mặn
Dùng mỡ động vật
Ít vận động thể lực
Không hoạt động khi nghỉ ngơi

Chung
THA

Không

19
9
50
34
27
15
96
98
28
27
3
3
68
41
2
7

Mẫu nghiên cứu có 872 người với 439 namvà 
433  nữ.  Dân  số  25‐64  tuổi  của  huyện  Ninh  Hải 
đa số là người Kinh, ở nhóm tuổi 25‐34 và 35‐44, 
học hết  cấp 1  hoặc  cấp 2.  Hơn 50%  là  lao  động 
chân  tay,  và  1/3  là  người  hưu  trí  hoặc  nội  trợ 
(bảng  1).  Tỷ  lệ  béo  phì  chung  trong  dân  số  là 
10%,  và  phổ  biến  ở  nữ  hơn  nam  (bảng  2).  Dựa 
vào trị số HA đo ở thời điểm nghiên cứu, có 15% 
dân  số  là  THA,  nhưng  nếu  tính  luôn  những 
người  đã  được  chẩn  đoán  THA  trước  đó  mà  ở 
thời điểm nghiên cứu có HA bình thường thì tỷ 
lệ THA là 20% (bảng 2). Tỷ lệ THA ở nhóm nam 
hơi cao hơn so với nhóm nữ. 

Tỷ  lệ  đang  có  hút  thuốc  lá  trong  dân  số 
chung  là  37%.  Gần  ¾  dân  số  nam  là  đang  hút 
thuốc lá, hút từ 10‐20 điếu mỗi ngày, và có thời 
gian hút trên 5 năm. Tỷ lệ hút thuốc lá ở nhóm 
nữ là rất thấp, và đa số hút <10 điếu/ngày. Tuy 
nhiên, 25% những người nữ có hút thuốc hút từ 
10‐20 điếu/ngày (bảng 3). Tỷ lệ có sử dụng rượu 
bia  trong  dân  số  chung  là  44%,  với  tỷ  lệ  uống 
thường xuyên (5‐6 ngày mỗi tuần) là 9%, và 17% 

712

p
<0,01
<0,01
0,01
0,09
0,9
0,8
0,1
0,07


12
79
43
95
22
2
63

2

Nam
THA
Không
7
70
30
98
25
4
46
9

p
0,2
0,02
0,1
0,3
0,7
0,4
0,04
0,03


32
3
3
96
37

4
77
3

Nữ
THA
Không
10
0,4
1
98
29
2
72
4

p
<0,01
0,02
0,1
0,03
0,2
0,3
0,5
0,7

lạm dụng rượu. Tỷ lệ sử dụng rượu bia ở nam là 
rất cao so với nữ, với tỷ lệ uống thường xuyên là 
19%,  và  32%  lạm  dụng  rượu  (bảng  3).  Hầu  hết 
người  dân  ít  ăn  rau  quả,  nhưng  sử  dụng  dầu 

thực vật trong chế biến thức ăn. Khoảng ¾ dân 
số cho rằng có ăn mặn (Bảng 4). Chỉ có 40% hoạt 
động  thể  lực  ở  mức  độ  cao,  và  tỷ  lệ  này  ở  nữ, 
28%,  là  thấp  hơn  so  với  nam,  51%.  Tuy  nhiên, 
hầu  hết  đều  có  vận  động  trong  lúc  nghỉ  ngơi 
(bảng 4). 
Tỷ lệ béo phì ở những người có THA là 19%, 
và cao hơn gần gấp 3 lần ở nhóm nữ so với nam 
(bảng  5).  Những  hành  vi  nguy  cơ  còn  rất  phổ 
biến ở những người THA, đặc biệt là hành vi hút 
thuốc  lá  (79%  ở  nam  so  với  3%  ở  nữ),  và  lạm 
dụng rượu (43% ở nam và 3% ở nữ). Trong dân 
số chung, tỷ lệ lạm dụng rượu ở người THA là 
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ tương 
ứng  ở  người  không  THA,  nhưng  không  có  ý 
nghĩa thống kê khi phân tích riêng theo giới. Tỷ 
lệ ít vận động thể lực ở người THA, trong dân số 
chung là 68%, khác biệt không có ý nghĩa thống 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
kê so với tỷ lệ tương ứng ở người không THA. 
So sánh nhóm có THA với nhóm không THA ở 
nam giới, tỷ lệ ít vận động thể lực là cao hơn, và 

không vận động khi nghỉ ngơi là thấp hơn; và sự 
khác biệt là có ý nghĩa thống kê. Ít ăn rau quả là 
rất phổ biến ở cả hai nhóm có và không có THA. 

không nhằm chứng minh lại mối liên quan giữa 
những yếu tố  nguy  cơ  đó  với  THA.  Mô  tả  tính 
phổ biến của những yếu tố nguy cơ ở những đối 
tượng  đang  bị  THA  sẽ  tạo  cơ  sở  cho  việc  xây 
dựng  những  chương  trình  giáo  dục  sức  khỏe 
phù hợp. 

BÀN LUẬN 

Thừa cân béo phì 

Tỷ lệ THA 

Tỷ lệ thừa cân, béo phì của đối tượng nghiên 
cứu theo chỉ số BMI lần lượt là 15% và 10%, tỷ lệ 
thừa  cân  béo  phì  ở  nữ  cao  hơn  nam  có  thể  do 
phụ  nữ khi lớn  tuổi  có  sự  thay  đổi nội  tiết  làm 
tích mỡ nhiều hơn. Những công việc ít sử dụng 
cơ  bắp  và  sử  dụng  nhiều  thức  ăn  nhanh  giàu 
năng lượng khiến cho thừa cân và béo phì có xu 
hướng phổ biến và tăng nhanh trong dân số các 
nước đang phát triển. Tỷ lệ thừa cân và béo phì 
của  dân  số  những  người  25‐64  tuổi  tại  huyện 
Ninh  Hải  là  cao  so  với  tỷ  lệ  thừa  cân  béo  phì 
12,5% của Việt Nam(1). Tỷ lệ này ở những người 
THA là 19% cho thấy việc kiểm soát cân nặng là 

chưa  tốt.  Cùng  với  việc  ít  vận  động  thể  lực  thì 
việc kiểm soát HA ở những đối tượng này sẽ là 
khó khăn. 

Tỷ lệ THA dựa vào số đo khi nghiên cứu là 
15%,  và nếu  tính  luôn những  đối tượng  có tiền 
sử THA trong 12 tháng qua nhưng hiện HA đã 
ổn định thì tỷ lệ THA là 20%. Tỷ lệ THA ở nam 
là  18%  và  ở  nữ  là  12%.  Ba  nghiên  cứu  có  cùng 
phương pháp với nghiên cứu này đã được thực 
hiện  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  Cần  Thơ,  và 
Lâm  Đồng.  Tỷ  lệ  THA  tại  thành  phố  Hồ  Chí 
Minh  (2005)  ở  nam  là  22,6%  ở  nam  và  ở  nữ  là 
13,6%(7), tại thành phố Cần Thơ là (2005) 27,3% ở 
nam và 16,2% ở nữ(5). Tỷ lệ THA tại Lâm Đồng 
(2010) là 23% ở nam và 13% ở nữ(3).  
So  với  các  nghiên  cứu  trước  cho  thấy  tỷ  lệ 
THA  thay  đổi  theo  vùng  miền  và  có  xu  hướng 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như dân tộc, nơi cư 
trú, nghề nghiệp, thói quen sinh hoạt. Tỷ lệ THA 
tại  các  tỉnh  phía  bắc  (2001‐2002)  là  16,3%(4),  ở 
Đălăk  (2005)  là  17,5%(2),  và  ở  quận  4  thành  phố 
Hồ Chí Minh (2004) là 22,8%(8). Sự khác biệt của 
tỷ  lệ  THA  giữa  các  nghiên  cứu  còn  phụ  thuộc 
vào  nhiều  yếu  tố  như  cỡ  mẫu  điều  tra,  dân  số 
chọn  mẫu,  kỹ  thuật  chọn  mẫu,  phương  pháp 
phân tích dữ kiện, và sự phân bố tuổi trên từng 
nghiên cứu là khác nhau. Khi một nước có nền 
kinh tế phát triển, dịch vụ y tế cải thiện, sức khỏe 
người dân được chăm sóc tốt hơn, thì chất lượng 

cuộc  sống  gia  tăng  và  tuổi  thọ  tăng  theo.  Bên 
cạnh  đó,  THA  là  một  bệnh  mạn  tính,  và  nếu 
những phác đồ điều trị THA là hiệu quả thì tỷ lệ 
hiện  mắc  THA  sẽ  có  khuynh  hướng  tăng  dần 
theo thời gian. 

Những yếu tố nguy cơ của THA 
Những yếu tố nguy cơ của THA đã được xác 
định trong nhiều nghiên cứu, và nghiên cứu này 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Những hành vi nguy cơ 
Tỷ lệ hút thuốc lá là 37% trong dân số chung; 
riêng  ở  nam  giới  tỷ  lệ  hút  thuốc,  mức  độ  hút 
nhiều  và  thời  gian  hút  trên  5  năm  là  rất  cao. 
Những  con  số  này  còn  cao  hơn  nữa  ở  những 
người đang bị THA. Tỷ lệ hút thuốc lá cao có thể 
do trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp lao động 
chân tay, và có thể còn do thói quen của người 
dân  nông  thôn.  Kết  quả  này  cao  hơn  so  với 
nghiên cứu tại các huyện ngoại thành thành phố 
Hồ  Chí  Minh  năm  2005  có  tỷ  lệ  hút  thuốc  lá 
chung là 30%, chủ yếu ở nam giới là 62% so với 
2% nữ giới có hút thuốc lá(6). Tỷ lệ hút thuốc lá ở 
nữ  là  thấp  nhưng  rất  đáng  quan  tâm  khi  25% 
những người nữ đang hút thuốc có mức độ hút 
từ 10‐20 điếu/ngày. Hút thuốc lá là một hành vi 
khó bỏ, nhưng nếu không bỏ hút thì những vấn 
đề  sức  khỏe  do  thuốc  lá  gây  ra  có  thể  làm  tình 

trạng THA nặng hơn.  

713


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Tỷ lệ có sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua 
trong dân số chung là 44%, và rất cao ở nam giới, 
80%. So với kết quả nghiên cứu tại thành phố Hồ 
Chí  Minh  với  cùng  dân  số  25‐64  tuổi  vào  năm 
2005,  tỷ  lệ  có  uống  rượu  trong  12  tháng  qua  là 
thấp hơn nhưng tỷ lệ lạm dụng rượu là cao hơn 
(17%  >13%)(6).  Tỷ  lệ  uống  rượu  ở  nông  thôn  và 
thành  thị  khác  nhau  có  thể  do  những  khác  biệt 
về tình trạng kinh tế cũng như địa vị của cá nhân 
trong xã hội. Người 25‐64 tuổi ở Ninh Hải không 
uống  rượu  thường  xuyên  nhưng  nếu  đã  uống 
thì  uống  nhiều  hơn  so  với  dân  số  cùng  tuổi  ở 
thành  phố  Hồ  Chí  Minh.  Ở  những  người  THA 
tỷ lệ lạm dụng rượu là 27%, và riêng ở nam giới 
là 43%; cho thấy việc kiểm soát HA ở những đối 
tượng này là thực sự khó khăn. 
Tỷ lệ ăn rau quả ≥5 suất/ ngày còn quá thấp, 
có thể do Ninh Hải không có kinh tế vườn. Gần 
1/3 dân số chung, và ở cả hai nhóm nam nữ, có 
hành  vi  ăn  mặn.  Địa  điểm  nghiên  cứu  là  một 

vùng nông thôn gần biển, lao động chủ yếu sử 
dụng  cơ  bắp  cho  công  việc  hàng  ngày  nên  có 
thói  quen  ăn  mặn  từ  các  loại  mắm  chế  biến  ở 
vùng nông thôn (như mắm nêm, mắm chưng, cá 
khô,  cá  kho  mặn)  để  bù  lại  lượng  muối  mất 
trong  lao  động.  Tỷ  lệ  có  ăn  mặn  là  cao  hơn  rất 
nhiều  so  với  tỷ  lệ  tương  ứng  ở  dân  số  cùng 
nhóm  tuổi  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm 
2005(6). Sai lệch thông tin có khả năng đã xảy ra 
với  những  câu  hỏi  phỏng  vấn  về  thói  quen  ăn 
rau  quả  và  ăn  mặn.  Đối  tượng  nghiên  cứu  khó 
có thể trả lời chính xác những câu hỏi như “… ăn 
bao nhiêu suất trái cây trong một ngày”, hoặc “… ăn 
bao nhiêu suất rau củ trong một ngày”, hoặc “Trong 
một tuần bình thường, có bao nhiêu ngày Ông/Bà ăn 
món mặn (đồ kho, ram, xào mặn)?”,  hoặc  “Ông/Bà 
có bị mọi người cho là ăn mặn hơn những người khác 
trong gia đình Ông/Bà không?” 
Sử  dụng  chất  béo  động  vật  trong  chế  biến 
thức ăn là hiếm trong dân số nghiên cứu, có thể 
do  sở  thích  ẩm  thực  của  người  dân  vùng  nông 
thôn chỉ thích ăn uống do tự mình chế biến cho 
cả  gia đình vừa  phù  hợp  với  điều kiện  kinh  tế, 
vừa phù hợp với những vùng nông thôn ít hàng 

714

quán  nên  chủ  yếu  dùng  chất  béo  từ  dầu  thực 
vật.  Ngoài  ra  giá  thành  của  dầu  thực  vật  công 
nghiệp là thấp cũng khiến cho đa số người dân 

lựa  chọn  dầu  thực  vật.  Đây  là  một  hành  vi  tốt 
duy nhất được ghi nhận ở dân số nghiên cứu. 
Tỷ lệ ít vận động thể lực là rất cao trong dân 
số nghiên cứu, đặc biệt hơn 1/3 ở nữ giới, có thể 
vì tỷ lệ lao động chân tay ở nữ, 41%, là thấp hơn 
nhiều  so  với  tỷ  lệ  tương  ứng  ở  nam,  69%.  Tuy 
nhiên, tỷ lệ 68% dân số ít vận động thể lực có vẻ 
không phù hợp khi hơn phân nửa dân số nghiên 
cứu  là  lao  động  chân  tay.  Sai  lệch  thông  tin  có 
thể xảy ra với những câu hỏi về vận động thể lực 
khá  phức  tạp  đòi  hỏi  người  được  phỏng  vấn 
phải suy nghĩ để có trả lời chính xác(9).  

Những điểm mạnh và hạn chế của nghiên 
cứu 
Mẫu  nghiên  cứu  là  đủ  lớn  để  mô  tả  tỷ  lệ 
THA  và  những  hành  vi  nguy  cơ  trong  dân  số. 
Những đặc điểm  dân số  học  của mẫu  cho thấy 
tính đại diện cao của mẫu nghiên cứu so với dân 
số mục tiêu. Phương pháp phân tích dữ kiện cho 
khảo  sát  mẫu  cụm  cho  kết  quả  chính  xác.  Sai 
lệch  thông  tin  là  một  hạn  chế  của  nghiên  cứu, 
chủ  yếu  với  những  câu  hỏi  về  các  hành  vi  ăn 
mặn, ăn rau quả, và vận động thể lực. 

KẾT LUẬN 
Tỷ lệ THA ở người dân 25‐64 tuổi tại huyện 
Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận là cao, và những yếu 
tố nguy cơ của THA vẫn còn phổ biến ở nhóm 
có  THA  là  những  thách  thức  trong  việc  kiểm 

soát bệnh THA ở cộng đồng. Giáo dục sức khỏe 
cần được tăng cường nhiều hơn nữa.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Bộ  Y  tế  (2010).  Thừa  cân,  béo  phì  yếu  tố  nguy  cơ  của  tăng 
huyết áp. Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống tăng 
huyết áp. Hà Nội. Tr. 12‐17. 

2.

Cao  Thị  Yến  Thanh,  Nguyễn  Công  Khẩn,  Đặng  Tuấn  Đạt 
(2006). Thực trạng và các yếu tố liên quan đến tăng huyết áp 
của người từ 25 tuổi trở lên tại tỉnh Dăklăk năm 2005. Tạp chí 
DD&TP. 2(3+4). 56‐78. 

3.

Lê Quang Đạo, Nguyễn Đỗ Nguyên (2011).Tăng huyết áp và 
các  chỉ  số  nhân  trắc  ở  người  25‐64  tuổi  tại  Lâm  Đồng  năm 
2010. Y học TP. Hồ Chí Minh. 15(3)158–164. 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
4.

Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn, và cộng sự 
(2003). Tần suất tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ ở các tỉnh 
phía bắc Việt Nam 2001‐2002. Tạp chí Tim Mạch Học. 33: 9‐34. 

5.

Pham  LH,  Thuy  B  Au  TB,  Leigh  Blizzard  L,  et  al  (2009). 
Prevalence  of  risk  factors  for  non‐communicable  diseases  in 
the  Mekong  Delta,  Vietnam:  results  from  a  STEPS  survey. 
BMC Public Health. 9:291. doi:10.1186/1471‐2458‐9‐291. 

6.

Trần  Thiện  Thuần,  Nguyễn  Đỗ  Nguyên  (2007).  Một  số  đặc 
điểm dịch tễ bệnh tăng huyết áp ở người lớn tại cộng đồng 
dân cư ở TP. HCM năm 2012. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 11(1): 
136 ‐143. 

7.

 Trinh  OTH,    Nguyen  ND,    Dibley  MJ,  Phongsavan  P, 
Bauman  AE(2008).  The  prevalence and  correlates of physical 
inactivity  among  adults  in  Ho  Chi  Minh  City.  BMC  Public 
Health, 8:204‐214. 

8.


Vũ  Bảo  Ngọc,  Lê  Hoàng  Ninh,  Cao  Minh  Nga,  Phan  Trần 
Tuấn  (2005).  Tỷ  lệ  hiện  mắc  tăng  huyết  áp  ở  người  trưởng 
thành  tại  quận  4  TP.  HCM  2004.  Y  học  TP.  Hồ  Chí 
Minh,9(1):93‐102.  

9.

World  Health  Organization  (2008).  The  WHO  stepwise 
approach  to  surveillance  of  non‐communicable  diseases 
(STEPS):  Steps  instrument  for  NCD  risk  factors  (core  and 
expanded 
version 
1.4). 
/>Accessed on 12 June, 2008. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

11/5/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

23/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  


14/11/2014 

 

 
 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

715



×