Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị bàng quang tăng hoạt do bệnh lý thần kinh bằng tiêm botulinum toxin nhóm A trên bệnh nhân chấn thương tủy sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.12 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BÀNG QUANG TĂNG HOẠT
DO BỆNH LÝ THẦN KINH BẰNG TIÊM BOTULINUM TOXIN NHÓM A
TRÊN BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG TỦY SỐNG
Đỗ Đào Vũ*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Phân tích hiệu quả và tính an toàn của tiêm Botulinum toxin nhóm A (BoNT/A) vào thành bàng
quang điều trị bàng quang tăng hoạt động do nguyên nhân chấn thương tủy sống tại Bệnh viện Bạch Mai.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tiến cứu can thiệp so sánh kết quả trước sau điều trị trên 34 BN có
BQTHĐ do CTTS. BN được theo dõi sau 4 tuần, 12 tuần và 24 tuần.
Kết quả: Có sự cải thiện số lần rỉ tiểu trung bình/ 24 giờ (0,47 lần và 1,12 lần, p<0,05). Sau điều trị có sự cải
thiện thể tích chứa tối đa của bàng quang, riêng với mức trên 300ml chiếm 64,71% cao hơn so với trước điều trị
(P < 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có áp lực cơ bàng quang tối đa giảm dưới 40 cmH2O là (76,47%) cao hơn trước điều
trị (với P<0,05). Độ giãn nở bàng quang cải thiện về mức 20 đến 50ml/cmH2O (chiếm 76,47%) tại thời điểm 24
tuần sau điều trị (P<0,05). Chất lượng sống, mức độ hài lòng của bệnh nhân có sự cải thiện tại các thời điểm tái
khám so với trước điều trị (UDI-6 cải thiện 3-4 điểm, IqoL cải thiện 40-45 điểm; VAS cải thiện 5 điểm) (P<0,05).
Tác dụng không mong muốn phổ biến nhất là đau vị trí tiêm 47,06%, sau đó là rối loạn phản xạ tự động tủy
29,41% và chảy máu bàng quang 20,59%. Yếu nhẹ hai chân 2,88% và không có biến chứng nguy hiểm nào xảy
ra như suy hô hấp.
Kết luận: có sự cải thiện về triệu chứng lâm sàng và niệu động học: số lần rỉ tiêu trong ngày giảm; thể thích
chứa tối đa của bàng quang, áp lực cơ bàng quang tối đa, độ giãn nở bàng quang và chất lượng sống được cải
thiện. Tác dụng không mong muốn không nhiều và ít nghiêm trọng thường tự hết như đau vị trí tiêm, rối loạn
phản xạ tự động tủy, chảy máu bàng quang và yếu nhẹ hai chân.
Từ khóa: tổn thương tủy sống, bàng quang thần kinh
ABSTRACT
AN INITIAL EVALUATION OF THE EFFICACY OF BONT/A INJECTION IN THE TREATMENT OF
NEUROGENIC BLADDER CAUSED BY SPINAL CORD INJURIES


Do Dao Vu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 131 - 137
Objectives: To evaluate the efficacy and safety of BoNT/A injection in the treatment of overactive bladder
caused by spinal cord injuries at Bach Mai hospital.
Subject and Methodology: a prospective treatment study comparing the results before and after treatment
of 34 spinal cord injured patients with overactive bladder. Patients were examined at 4 weeks, 12 weeks and 24
weeks after treatment.
Result: there were fewer incontinence episodes/24 hours (0.47 and 1.12, p < 0.05). After treatment, there was
an improvement in maximal capacity, the level of above 300 ml accounted for 64.71% higher than pre-treatment
(p < 0.05). The rate of patients with maximal detrusor pressure under 40 cmH2O was 76.47%, higher than pretreatment (p < 0.05). 76.47% had compliance of 20-50 ml/cmH2O at 24 weeks after treatment (p < 0.05). Quality
of life and satisfaction improved at re-examination sessions (UDI-6 saw a 3-4 point increase, IqoL improved by

* Trung tâm Phục hồi chức năng, bệnh viện Bạch Mai
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Đào Vũ
ĐT: 0982041278

Chuyên Đề Thận – Niệu

Email:

131


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

40-45 points, VAS increased by 5 points) (p < 0.05). The most common adverse effects included pain at injection
sites (47.06%), autonomic dysreflexia (29.41%), bladder bleeding (20.59%), mild lower limb weakness (2.88%)
and no severe complications such as respiratory failure.
Conclusion: there were improvements in clinical symptoms and urodynamic parameters: fewer incontinence

episodes/24 hours; improvement in maximal capacity, maximal detrusor pressure, compliance and quality of life
and satisfaction. The adverse effects were inconsiderable and non-sever, e.g. pain at injection sites, autonomic
dysreflexia, bladder bleeding, mild lower limb weakness.
Key words: Spine cord injury; neurogenic bladder

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bàng quang tăng hoạt động (BQTHĐ) do
nguyên nhân thần kinh là tình trạng cơ bàng
quang tăng phản xạ trong quá trình đổ đầy mà
không thể chủ động ngăn chặn do mất tính liên
tục của đường dẫn truyền thần kinh từ vỏ não,
cầu não tới các trung tâm vận động cơ bàng
quang ở vùng tủy lưng - thắt lưng, tủy cùng(3).
Chấn thương tủy sống (CTTS) là nguyên
nhân thường gặp trong nhóm các bệnh lý chấn
thương thần kinh thường để lại di chứng nặng
nề. Một trong những vấn đề người thầy thuốc
phải đối mặt và giải quyết đó là các biểu hiện rối
loạn chức năng bàng quang ở nhóm bệnh nhân
này, trong đó có thể bàng quang tăng hoạt. Hậu
quả của bàng quang tăng hoạt là tăng áp lực
bàng quang dẫn đến biến chứng trào ngược
bàng quang - niệu quản, nhiễm khuẩn tiết niệu
tái diễn, ứ nước thận; tiến triển đến suy thận và
tử vong(8). Hiện nay, phương pháp điều trị phổ
biến bàng quang tăng hoạt do nguyên nhân thần
kinh là dùng thuốc kháng muscarin đường
uống. Tuy nhiên, thuốc có nhiều tác dụng không
mong muốn khiến trên 61% bệnh nhân bỏ
thuốc(6). Lựa chọn điều trị khác bao gồm truyền

oxybutinin, các chất dạng vanilla vào trong bàng
quang, nhưng hiệu quả không cao(6). Can thiệp
bằng phẫu thuật làm rộng bàng quang hoặc cấy
máy kích thích điện bàng quang - cơ thắt. là can
thiệp xâm lấn, phức tạp nên đôi khi để lại những
biến chứng chảy máu, nhiễm khuẩn sau mổ, hậu
phẫu nặng nề và khó áp dụng rộng rãi(6). Các
nghiên cứu trên thế giới trong thập kỷ qua cho
thấy tiêm (BoNT/A) vào thành bàng quang ở
nhóm bệnh nhân này cho thấy dung nạp tốt và ít

132

xâm lấn, cải thiện chất lượng sống đem lại sự hài
lòng cho bệnh nhân(6). Tuy nhiên, tại Việt Nam,
sử dụng BoNT/A trong điều trị bàng quang tăng
hoạt cũng mới được ứng dụng và còn ít nghiên
cứu được công bố. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài với mục tiêu: Phân tích hiệu quả
và tính an toàn của tiêm BoNT/A vào thành bàng
quang điều trị bàng quang tăng hoạt động do nguyên
nhân chấn thương tủy sống tại Bệnh viện Bạch Mai.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn BN
(1) Bệnh nhân tuổi từ 18 đến 75;
(2) Bệnh nhân bị CTTS sau giai đoạn sốc tủy;
(3) Có bằng chứng niệu động học BQTHĐ;
(4) Được theo dõi và đánh giá trước, sau điều

trị đầy đủ.

Tiêu chuẩn loại trừ
(1) BN không được điều trị và theo dõi đúng quy
trình nghiên cứu;
(2) Bệnh nhân đã dùng thuốc hoặc can thiệp vào
bàng quang làm ảnh hưởng đến sự giãn nở và hoạt
động chức năng của bàng quang;
(3) Đang dùng thuốc chống đông bất kỳ;
(4) Các bệnh lý kết hợp: bệnh lý dễ gây chảy máu,
bệnh lý hệ tiết niệu dưới (dị dạng, sỏi bàng quang, hẹp
niệu đạo, phì đại lành tính tiền liệt tuyến, u bàng
quang…).

Cỡ mẫu và cách thức tiến hành
34 BN chẩn đoán BQTHĐ do CTTS điều trị
tại Trung tâm Phục hồi chức năng Bệnh viện
Bạch Mai đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chọn lựa

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
được đưa vào điều trị bằng tiêm Botox 200 đơn
vị (Botox do Allergan Hoa kỳ sản xuất, Kim tiêm
chuyên dụng dài 45cm do hãng Cook sản xuất
tại Hoa Kỳ) vào thành bàng quang kết hợp thông
tiểu ngắt quãng sạch. Tất cả BN trên đều được
tập theo chương trình phục hồi chức năng (vận
động trị liệu, hoạt động trị liệu…) và các chăm

sóc khác tương tự nhau: trước, trong và sau điều
trị, can thiệp. Tiến hành thu thập số liệu theo
mẫu bệnh án thống nhất. Trước khi can thiệp
bệnh nhân cần được làm thêm một số xét
nghiệm như đông máu cơ bản, chụp x quang tim
phổi, HIV, viêm gan B…

Nghiên cứu Y học
dẫn dịch vào bàng quang để làm sạch và làm
căng bàng quang khi soi.
Bước 3: Mở khóa nước để làm căng bàng
quang và kiểm tra toàn bộ thành niêm mạc bàng
quang, xác định vùng tam giác trigone.
Bước 4: Đưa kim tiêm chuyên dụng vào
bàng quang.
Bước 5: Tiêm trải đều 20 mũi tiêm vào thành
bàng quang theo sơ đồ. Bước 6: Rút kim tiêm sau
khi tiêm xong, kiểm tra lại toàn bộ niêm mạc
quang trước khi rút ống nội soi và đặt thông lưu
cho BN.

Phương pháp nghiên cứu

Các chỉ số đánh giá mức độ CTTS, rối loạn
chức năng bàng quang và một số yếu tố liên
quan khác
Tên, tuổi, giới, nguyên nhân chấn thương;
Đánh giá mức độ, vị trí CTTS dựa vào thang
điểm phân loại của Hiệp hội Tổn thương Tủy
sống Mỹ (ASIA);


Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp tiến cứu can thiệp so sánh kết
quả trước sau điều trị trên 34 BN có BQTHĐ do
CTTS. BN được theo dõi sau 4 tuần, 12 tuần và
24 tuần.

Đánh giá ảnh hưởng của rỉ tiểu đến chất
lượng cuộc sống của BN (bộ câu hỏi IqoL); Đánh
giá ảnh hưởng của triệu chứng đi tiểu đến hoạt
động hàng ngày: (bảng điểm UDI-6); Đánh giá
mức độ hài lòng của BN (thang điểm VAS)

Tiêu chuẩn chẩn đoán bàng quang tăng hoạt
do chấn thương tủy sống
Lâm sàng: BN tiểu gấp có hoặc không có tiểu
són tiểu, thường kèm theo tiểu nhiều lần và tiểu
đêm … không do nhiễm khuẩn tiết niệu (Hiệp
hội tiểu không tự chủ Quốc tế 2002); Thăm dò
niệu động học: có cơn co bóp không tự chủ trong
giai đoạn đổ đầy với biên độ áp lực cơ bàng
quang ≥15 cmH2O(1)

Các biến số và chỉ số chính cho mục tiêu
nghiên cứu
Số lần rỉ tiểu trung bình 24 giờ;

Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại tại Trung tâm Phục
hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai và Phòng mổ

Bệnh viện Giao thông Vận tải Trung ương từ
tháng 10 năm 2010 đến tháng 10 năm 2012.

Quy trình tiêm thuốc Botox vào thành bàng
quang
Bước 1: Chuẩn bị BN: Bệnh nhân ở tư thế tán
sỏi; Sát khuẩn tại chỗ ba lần bằng cồn sát khuẩn
Betadin 1% theo hình xoáy ốc.
Bước 2: Đưa ống nội soi cứng hai nòng, một
nòng để đưa đèn soi vào bàng quang, một nòng
để đưa kim tiêm, phía trên ống nội soi có đường

Chuyên Đề Thận – Niệu

Tỷ lệ BN giữ khô được 24 giờ.
Độ giãn nở bàng quang (ml/cmH2O): độ giãn
nở bàng quang được tính theo công thức; Độ giãn
nở bàng quang = thể tích dịch truyền (ml) / áp lực
bàng quang(cmH2O): Độ giãn nở bàng quang
tăng: trên 50 ml/cmH2O; Độ giãn nở bàng quang
bình thường: 20-50 ml/cmH2O; Độ giãn nở bàng
quang giảm: 10-20 ml/cmH2O; Bàng quang có độ
giãn nở kém: dưới 10 ml/cmH2O;
Khả năng chứa tối đa của bàng quang (ml):
khả năng chứa của bàng quang được chia làm
bốn mức: Khả năng chứa bàng quang dưới
100ml; Khả năng chứa bàng quang 100 – 200ml;
Khả năng chứa bàng quang 201 – 300ml; Khả
năng chứa bàng quang trên 300ml;


133


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Áp lực cơ bàng quang tối đa (cmH2O): áp lực
cơ bàng quang được chia làm bốn mức: Áp lực
cơ bàng quang tối đa dưới 40 cmH2O; Áp lực cơ
bàng quang tối đa 40 – 80 cmH2O; Áp lực cơ
bàng quang tối đa 81 – 120 cmH2O; Áp lực cơ
bàng quang tối đa trên 120 cmH2O;
Các chỉ số đánh giá chất lượng sống và mức
độ hài lòng của: UDI - 6; IqoL; VAS.
Các chỉ số tác dụng không mong muốn do
tiêm Botox 200 đơn vị vào thành bàng quang:
Chảy máu; Rối loạn phản xạ tự động tủy; Đau
chỗ tiêm; Yếu cơ; Suy hô hấp…

Phương pháp xử lý số liệu
Phân tích bằng phần mềm thống kê Stata
10.0 của Tổ chức Y tế Thế giới. Mức giá trị P <
0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ

Biểu đồ 2: Sức chứa bàng quang tối đa trước – sau
điều trị
Nhận xét: Nhóm nghiên cứu sau điều trị,

sức chứa bàng quang tối đa cải thiện có ý
nghĩa thống kê so với trước điều trị (P < 0,05),
tập trung nhiều ở nhóm BN có sức chứa trên
300 ml.

Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 41,82
± 14,71; nam/ nữ là 3,86 lần (P< 0,05). Tai nạn giao
thông chiếm tỷ lệ cao nhất (47,06%), rồi đến tai
nạn lao động (27,94%) và tai nạn sinh hoạt (25%).
Tổn thương theo phân loại của Hiệp hội Tổn
thương Tủy sống Mỹ mức tổn thương ASIA-A
chiếm nhiều nhất 32,35 %.

Biểu đồ 3:Áp lực cơ bàng quang tối đa trước – sau
điều trị

Biểu đồ 1: Số lần rỉ tiểu trung bình/24 giờ
Nhận xét: Mức độ rỉ tiểu sau điều trị cải
thiện tốt hơn so với trước điều trị có ý nghĩa
thống kê (với P < 0,05).

134

Nhận xét: So với trước điều trị, áp lực cơ
bàng quang tối đa giảm mạnh ở nhóm có áp
lực trên 81cmH2O (P < 0,05). Sau điều trị, số
BN có áp lực < 40 cmH2O chiếm 76,47%

Chuyên Đề Thận – Niệu



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học
Biểu đồ 4: Độ giãn nở bàng quang trước - sau
điều trị
Nhận xét: Độ giãn nở bàng quang cải thiện
tốt so với trước điều trị, số BN ở nhóm từ 2- 50
ml/cmH2O tăng chiếm 76,47% sau 24 tuần điều
trị (P < 0,05).

Bảng 1: Cải thiện chất lượng sống ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Chỉ số
UDI-6
IQoL
VAS

Trước ĐT
12,47
±2,87
75,35
±9,87
2,23
±1,26

Sau ĐT 4 tuần
9,82
±2,27*
36,56
±9,32*

7,03
±1,17*

Sau ĐT 12 tuần
8,88
±1,47**
30,94
±8,97**
7,38
±0,95**

Sau ĐT 24 tuần
9,5
±2,23***
32
±9,07***
7,35
±0,88***

*p1<0,05 (sự khác biệt sau ĐT 4 tuần so với trước điều trị);
** p2<0,05 (sự khác biệt sau ĐT 12 tuần so với trước điều trị);
***p<0,05 (sự khác biệt sau ĐT 24 tuần so với trước điều trị).

Nhận xét: So sánh trước và sau điều trị cho
thấy có sự cải thiện rõ ở cả ba chỉ số tại thời
điểm 4, 12 tuần và 24 tuần sau điều trị
(P<0,05).
Bảng 2: Tác dụng không mong muốn ở nhóm
nghiên cứu
Tác dụng không mong muốn

Chảy máu
Rối loạn phản xạ tự động tủy
Đau chỗ tiêm
Nhiễm khuẩn tiết niệu
Yếu cơ
Suy hô hấp
Tác dụng không mong muốn khác

Nhóm nghiên cứu
n = 34
Tỷ lệ %
7
20,59
10
29,41
16
47,06
0
0
2
5,88
0
0
0
0

Nhận xét: Tác dụng không mong muốn
nhiều nhất là đau chỗ tiêm 16 BN (47,06%), sau
đó là rối loạn phản xạ tự động tủy 10 BN
(29,41%) và chảy máu 7 BN (20,59%).Có 2 trường

hợp yếu cơ cục bộ chủ yếu hai chân nhưng nhẹ
(2,88%); không có biến chứng nguy hiểm nào xảy
ra

Chuyên Đề Thận – Niệu

BÀNLUẬN
Kết quả sau điều trị làm tăng tỷ lệ bệnh nhân
được khô hoàn toàn đã gián tiếp cải thiện chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân, tương tự với
Alloussi(2) mức độ rỉ tiểu trong ngày kiểm soát
được hoàn toàn lên tới 80%. Sức chứa tối đa của
bàng quang là một trong những chỉ số quan
trọng nhất khi thăm dò niệu động học(4), nó phản
ánh mức độ đáp ứng với điều trị của bệnh nhân.
Sau bốn tuần điều trị, thể tích chứa tối đa của
bàng quang cải thiện tốt, sức chứa tối đa của
bàng quang trên 300ml tập trung chủ yếu ở bệnh
nhân trong nhóm nghiên cứu (64,71%). Sau
mười hai tuần điều trị, có 23 bệnh nhân (67,65%)
sức chứa bàng quang tối đa cải thiện lớn hơn
300ml. Sự cải thiện kéo dài đến hai mươi bốn
tuần sau điều trị; sức chứa bàng quang tối đa ở
nhóm nghiên cứu vẫn duy trì được trên 300ml,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết
quả này tương tự với Aloussi(2), sức chứa bàng
quang tối đa trước điều trị 231 ± 196,6 ml tăng
lên 464 ± 286,4 ml sau điều trị; Yokoyama(10) tăng

135



Nghiên cứu Y học
từ 296 lên 480 ml (P < 0,05). Sau bốn tuần điều trị
có sự cải thiện về áp lực cơ bàng quang; đặc biệt
ở mức giảm nhiều dưới 80cmH2O (P<0,05). Kết
quả này kéo dài đến hai mươi bốn tuần sau điều
trị với 100% bệnh nhân của nhóm nghiên cứu
tập trung ở mức từ 40 đến 80 cmH2O và dưới 40
cmH2O, cao hơn có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Áp lực bàng quang được coi là an toàn khi dưới
40 cmH2O(9). Do đó, kết quả trên cho thấy số
bệnh nhân nhóm nghiên cứu có áp lực cơ bàng
quang tối đa dưới 40 hoặc có xu hướng tiệm cận
mức 40cmH2O nhiều hơn hẳn nhóm chứng. Kết
quả này tương tự với Aloussi(2) giảm 41,4±18,3
xuống 11,4±0,7 sau điều trị; Yokoyama(9) giảm từ
65 xuống 35 cmH2O (P<0,05); Cruz(8) giảm từ mức
69,4 ±45,8 xuống 45,6 ± 56cmH2O. Quan sát độ
giãn nở của bàng quang, chúng tôi nhận thấy tại
các thời điểm tái khám sau điều trị, có sự khác
biệt về mức cải thiện độ giãn nở bàng quang so
với trước điều trị (P < 0,05). Sau hai mươi bốn
tuần, vẫn còn 26 bệnh nhân (76,47%) có độ giãn
nở bình thường 21-50ml/cmH2O, cao hơn so với
trước điều trị (P<0,05). Tương tự, Nitti(9) nhận
thấy có sự cải thiện rõ trước điều trị là 32,6
ml/cmH2O, sau 6 và 12 tuần điều trị tăng lên lần
lượt là 62,1 ml/cmH2O và 50,2 ml/cmH2O. Sau
điều trị một tuần, mười hai tuần và hai mươi bốn

tuần đều có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê so
với trước điều trị, thang điểm đánh giá ảnh
hưởng triệu chứng tiết niệu – sinh dục đến sinh
hoạt hàng ngày (UDI-6), (P<0,05), thang điểm
đánh giá rỉ tiểu đến chất lượng cuộc sống
IqoL),(P<0,05) và thang điểm đánh giá mức độ
hài lòng (VAS), (P<0,05). Chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân bị ảnh hưởng chủ yếu là do các
triệu chứng rối loạn đường tiểu dưới như rỉ tiểu,
tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu són. Kết quả của
nghiên cứu này phù hợp với y văn: tình trạng rỉ
tiểu giảm, số lần đi tiểu gấp, tiểu són được cải
thiện tốt sau điều trị có ý nghĩa thống kê
(P<0,05)(8). Với mỗi phương pháp điều trị, tác
dụng không mong muốn cần được lưu tâm đặc
biệt vì đây là yếu tố quyết định đến an toàn, tỷ lệ
bỏ cuộc của bệnh nhân đối với mỗi phương

136

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
pháp. Theo nghiên cứu của chúng tôi, tác dụng
không mong muốn phổ biến nhất ở nhóm
nghiên cứu là đau ở vị trí tiêm (47,06%), sau đó
là rối loạn phản xạ tự động tủy (29,41%) và chảy
máu (20,59%). Có 2 trường hợp yếu cơ cục bộ
nhẹ, chủ yếu hai chân (2,88%) và không có biến
chứng nguy hiểm nào xảy ra như suy hô hấp.
Các nghiên cứu trên thế giới cho nhiều kết quả
không giống nhau. Đa phần các nghiên cứu đều

kết luận nhiễm khuẩn tiết niệu là biến chứng hay
gặp nhất: Theo Herschorn và cộng sự(7), tác dụng
không mong muốn là nhiễm khuẩn tiết niệu
(57%), yếu cơ (11%) và đi tiểu ra máu (7%). De
Leaf K và cộng sự(4) phân tích tổng hợp nhiều
nghiên cứu ở Châu Âu sử dụng BoNT/A điều trị
bàng quang tăng hoạt do nguyên nhân thần kinh
với các liều khác nhau ghi nhận 4 trường hợp
yếu cơ (2 trường hợp tiêm vào thành bàng
quang, 2 trường hợp tiêm vào cơ thắt vân niệu
đạo điều trị bất đồng vận bàng quang cơ thắt).
Tuy vậy, nghiên cứu của Aloussi và cộng sự(2)
không ghi nhận tác dụng không mong muốn
nào sau điều trị.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 34 bệnh nhân chấn thương
tủy sống có bàng quang tăng hoạt được điều trị
bằng tiêm Botox 200 đơn vị vào thành bàng
quang kết hợp đặt thông tiểu ngắt quãng sạch.
Chúng tôi nhận thấy có sự cải thiện về triệu
chứng lâm sàng và niệu động học: số lần rỉ tiêu
trong ngày giảm; thể thích chứa tối đa của bàng
quang, áp lực cơ bàng quang tối đa, độ giãn nở
bàng quang và chất lượng sống được cải thiện.
Tác dụng không mong muốn không nhiều và ít
nghiêm trong thường tự hết sau khi được theo
dõi như đau vị trí tiêm, rối loạn phản xạ tự động
tủy, chảy máu bàng quang và yếu nhẹ hai chân.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Abrams P, Cardozo L, Fall M, et al. (2002), The
standardisation of terminology in lower urinary tract function:
report from the standardisation sub-committee of the ICS.
Alloussi S.H, Lang Ch, Eichel R et al. (2012),
Videourodynamic changes of botulinum toxin A in patients
with neurogenic bladder dysfunction (NBD) and idiopathic

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

3.

4.

5.

6.

7.

detrusor overactivity (IDO) refractory to drug treatment.
World J Urol; 30:367–373
Corcos J, Schick E (2008), Simplified anatomy of the vesico–

urethral functional unit. Textbook of neurogenic Bladder; UK,
Informa Healthcare: 2: 13-18
Cruz F, Herschorn S, Aliotta P et al. (2011), Efficacy and safety
of onabotulinumtoxinA in patients with urinary incontinence
due to neurogenic detrusor
De Leaf K, Wyndaele J-J (2005), Adverse events after
botulinum A toxin injection for neurogenic voiding disorders.
Spinal Cord; 43: 397-9
Giannantoni A, Mearini E, Del Zingaro M et al. (2008),
Botulinum A toxin in the treatment of neurogenic detrusor
overactivity: a consolidated field of application. BJU
Iternational; 102, supplement 1, 2–6
Herschorn S, Gajewski J, Ethans K et al (2011), Efficacy of
botulinum toxin A injection for neurogenic detrusor

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học

8.

9.

10.

overactivity and urinary incontinence: a randomized, doubleblind trial. JUrol; 185: 2229–2235
Ku JH (2006), The management of neurogenic bladder and
quality of life in spinal cord injury; Journal compilation BJU
International; 98:739–745
Nitti V.W (2006), Botulinum Toxin for the Treatment of

Idiopathic and Neurogenic Overactive Bladder: State of the
Art. Reviews in urology, vol. 8; No. 4: 198-206
Yokoyama T, Chancellor MB, Oguma K et al. (2012),
Botulinum toxin type A for the treatment of lower urinary
tract disorders. International Journal of Urology; 19: 202–215

Ngày nhận bài báo:

10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/06/2015

Ngày bài báo được đăng:

05/08/2015

137



×