Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá bước đầu kết quả điều trị rò động tĩnh mạch thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.1 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH
THẬN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Vĩnh Bình*, Nguyễn Thành Tuân*, Trần Trọng Trí**, Trần Ngọc Sinh*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá bước đầu kết quả điều trị rò động tĩnh mạch thận tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: Có 13 trường hợp được điều trị rò động tĩnh mạch thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2011
đến tháng 03/2014, bao gồm 10 trường hợp được can thiệp nội mạch, 2 trường hợp được cắt thận và một trường
hợp được ghép thận tự thân. Bàn luận về nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị và biến chứng của các trường hợp
trên.
Kết luận: Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị nên được lựa chọn trong rò động tĩnh mạch thận có
triệu chứng. Phẫu thuật được chỉ định đối với trường hợp rò động tĩnh mạch thận lớn hoặc tái phát sau can thiệp
nội mạch.
Từ khoá: Rò động tĩnh mạch thận, can thiệp nội mạch, thuyên tắc động mạch, ghép thận tự thân.

ABSTRACT
INITIAL RESULTS OF MANEGEMENT FOR RENAL ARTERIOVENOUS FISTULAS
AT CHO RAY HOSPITAL
Nguyen Vinh Binh, Nguyen Thanh Tuan, Tran Trong Tri, Tran Ngoc Sinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 96 - 101
Objective: The study evaluates the initial results of endovascular intervention for renal arteriovenous
fistulas at Cho Ray hospital.
Methods: The study is a case series report.
Results: There are 13 cases of renal arteriovenous fistulas at Cho Ray hospital from January 2011 to March
2014: 10 cases of endovascular intervention, 2 cases of nephrectomy and one case of renal autotransplantation.
The causes, diagnosis, treatment and complications of renal arteriovenous fistulas are discussed.


Conclusion: Arterial embolization is the preferred treatment for symptomatic arteriovenous fistulas.
Surgical therapy is indicated for large arteriovenous fistula and for those cases refractory to endovascular
intervention.
Key words: Renal arteriovenous fistula, endovascular intervention, arterial embolization, renal
autotransplantation.
hoặc mắc phải, trong đó nguyên nhân do mắc
ĐẶT VẤN ĐỀ
phải thường gặp hơn chiếm 70-80% các trường
Rò động tĩnh mạch thận (RĐTMT) được
hợp(1).
Varela mô tả lần đầu vào năm 1928(10). Rò động
Rò động tĩnh mạch thận là vấn đề không
tĩnh mạch thận là những thông nối bất thường
thường gặp trên lâm sàng. Tuy nhiên tần suất
giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch trong
bệnh này có xu hướng tăng vì sự phổ biến của
thận. Những bất thường này có thể do bẩm sinh
phẫu thuật thận qua da và sinh thiết thận do các
* Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Bs. Nguyễn Thành Tuân, ĐT: 0982587963, Email:

96

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
can thiệp này gây ra phần lớn các trường hợp rò
động tĩnh mạch thận mắc phải. Ngoài ra, rò

động tĩnh mạch thận có thể gây ra tiểu máu,
thiếu máu, tăng huyết áp, suy tim và thuyên tắc
mạch, những biến chứng này ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống, thậm chí đe dọa tính
mạng bệnh nhân. Do đó các trường hợp này đòi
hỏi phải can thiệp, thậm chí là cắt thận(2).
Tuy nhiên các nghiên cứu về điều trị rò động
tĩnh mạch thận vẫn còn ít. Các nghiên cứu trong
nước về rò động tĩnh mạch thận đều là báo cáo
trường hợp ca lâm sàng đơn lẻ(4,9). Nhận thấy
bệnh viện Chợ Rẫy có khả năng thực hiện đầy
đủ các phương pháp điều trị rò động tĩnh mạch
thận và bệnh lý này là vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu nhằm chẩn đoán chính xác và điều
trị tối ưu cho bệnh nhân nên chúng tôi báo cáo
các trường hợp rò động tĩnh mạch thận nhằm
rút ra kinh nghiệm bước đầu trong chẩn đoán và
điều trị rò động tĩnh mạch thận.

Nghiên cứu Y học

mạch thận, phương pháp điều trị, tai biến, biến
chứng của quá trình điều trị.
Các phương pháp điều trị rò động tĩnh mạch
thận bao gồm: can thiệp nội mạch, phẫu thuật
cắt thận và ghép thận tự thân.
Phương pháp can thiệp nội mạch: Bệnh nhân
nằm ngữa, tê tại chỗ, đặt catheter qua động
mạch đùi theo phương pháp Seldinger, tiến
hành chụp hình mạch máu. Sau khi xác định vị

trí rò động tĩnh mạch thận thì chúng tôi tiến
hành can thiệp nội mạch khi có chỉ định.
Phẫu thuật cắt thận bao gồm cắt thận và cắt
thận bán phần.
Phẫu thuật ghép thận tự thân bao gồm các
bước sau: lấy thận ghép, rửa thận và tạo hình
mạch máu ngoài cơ thể, ghép thận.

KẾT QUẢ

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU

Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2011 đến
03/2014 có 13 trường hợp rò động tĩnh mạch
thận được điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy.

Đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm lâm sàng

Bệnh nhân được chẩn đoán rò động tĩnh
mạch thận điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy trong
khoảng thời gian từ tháng 01/2011 đến 03/2014.

Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 38,
trong đó nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 59
tuổi.

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca (case series)


Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có rối loạn đông cầm máu chưa
được điều trị và những trường hợp thiếu thông
tin hoặc mất theo dõi.

Các bước tiến hành
Chúng tôi báo cáo các trường hợp rò động
tĩnh mạch thận được điều trị tại bệnh viện Chợ
Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 01/2011 đến
03/2014. Các trường hợp này đều được đánh giá
lâm sàng, sử dụng các phương tiện chẩn đoán
hình ảnh như siêu âm Doppler, chụp cắt lớp
điện toán, chụp hình mạch máu. Qua đó chúng
tôi thu thập các dữ kiện về: triệu chứng lâm
sàng, các dấu hiệu hình ảnh học của rò động tĩnh

Chuyên Đề Thận Niệu

Tỷ lệ nam/nữ là 8/5.
Lý do nhập viện: đa số là tiểu máu 6 TH
(46,2%), đau bụng 4 TH (30,8%), triệu chứng suy
tim 2 TH (15,4%), tình cờ phát hiện 1 TH (7,7%)
Tiền căn: chấn thương thận hoặc vết
thương thận chiếm 6 TH (46,2%), sinh thiết
thận 1 TH (7,7%), 6 TH (46,2%), có tiều máu
nhiều lần trước đó.
Triệu chứng lâm sàng: 6 TH (46,2% )tiểu máu,
8 TH (61,5%) đau bụng, 1 TH (7,7%) có dấu chạm
thận dương tính, 2 TH (15,4%) tăng huyết áp, 3

TH (23,1%) có triệu chứng suy tim và 6 TH (46,2)
có âm thổi ở bụng.
Xét nghiệm sinh hóa: hematocrit trước can
thiệp trung bình 32,08%, hemoglobin trước can
thiệp trung bình là 103,85 g/l, creatinin máu
trước can thiệp trung bình là 1,17 mg/dl.

97


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

Truyền máu: có 6 TH (46,2%) phải truyền
máu, 1 TH 350 ml, 4 TH 700 ml và 3 trường hợp
1050 ml hồng cầu lắng.

Thời gian nằm viện sau can thiệp trung vị
là 5 ngày, ít nhất là 2 ngày và nhiều nhất là 17
ngày.

Có 7 TH (46,2%) thận trái và 6 TH (53,8%)
thận phải có rò động tĩnh mạch

BÀN LUẬN

Tỷ lệ phát hiện rò động tĩnh mạch thận qua
siêu âm Doppler là 72,7% (8/11 TH được siêu âm
Doppler)

Tỷ lệ phát hiện rò động tĩnh mạch thận qua
chụp cắt lớp điện toán (CCLĐT) là 66,7% (12/13
TH được chụp CCLĐT), có 3 TH phát hiện được
dị dạng mạch máu khác kèm theo được phát
hiện qua CCLĐT
Chụp DSA (Bảng 1)
Bảng 1: Digital Subtraction Angiography (DSA)

Vị trí RĐTMT

Cực trên
Cực giữa
Cực dưới
Rốn thận

Số lượng nhánh
1
động mạch cấp
2
máu cho RĐTMT
Các dị dạng mạch máu khác kèm
theo được phát hiện qua DSA
Tổng cộng

Tần suất
5/13
2/13
4/13
2/13


Tỷ lệ (%)
38,5
15,4
30,8
15,4

12/13

92,3

1/13

7,7

5/13

38,5

13/13

100

Rò động tĩnh mạch thận tại vị trí cực trên
chiếm tỷ lệ cao nhất (38,5%).
Các trường hợp có kèm theo dị dạng mạch
máu khác là 38,5%.

Điều trị
Bảng 2: Phương pháp điều trị
Can thiệp nội mạch

Cắt thận
Ghép thận tự thân
Tổng cộng

Tần suất
10/13
2/13
1/13
13/13

Tỷ lệ (%)
76,9
15,4
7,7
100

Đa số các trường hợp được điều trị bằng can
thiệp nội mạch (76,9%).
Bảng 3: Can thiệp nội mạch
Thành công
Thất bại, phải can thiệp lại trong
thời gian nằm viện
Hội chứng sau thuyên tắc

98

Tần suất
9/10

Tỷ lệ (%)

90

1/10

10

4/10

40

Lâm sàng
Lý do nhập viện chủ yếu là tiểu máu (46,2%)
và đau bụng (30,8%). Bệnh nhân nhập viện với
triệu chứng của suy tim chiếm 15,4%. Chỉ có 1
trường hợp phát hiện tình cờ qua siêu âm chiếm
tỷ lệ 7,7%.
Tiểu máu đại thể là dấu hiệu hoặc triệu
chứng ban đầu trong hầu hết bệnh nhân
(khoảng 75%) có rò động tĩnh mạch thận(5), trong
nghiên cứu của chúng tôi triệu chứng tiểu máu
chiếm 46,2%. Vị trí gần hệ thống thu thập có thể
giải thích sự phổ biến của triệu chứng tiểu máu.
Trên lâm sàng, việc đánh giá chẩn đoán bệnh
nhân tiểu máu có thể dẫn đến việc phát hiện ra
rò động tĩnh mạch thận. Đau hông lưng cũng có
thể dẫn đến việc chẩn đoán rò động tĩnh mạch
thận, mặc dù điều này là không thường gặp mà
không có kèm theo tiểu máu. Thăm khám có thể
phát hiện dấu hiệu của âm thổi ở vùng hông.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 61,5% bệnh

nhân có triệu chứng đau bụng và 46,2% bệnh
nhân có âm thổi vùng bụng cùng bên với thận có
rò động tĩnh mạch thận.
Một tỷ lệ đáng kể bệnh rò động tĩnh mạch
thận có tăng huyết áp. Một nửa số bệnh nhân rò
động tĩnh mạch thận mắc phải và một phần tư
của những bệnh nhân rò động tĩnh mạch thận
bẩm sinh có huyết áp cao. Tăng huyết áp có từ
trước được cho là một yếu tố nguy cơ phát triển
một lỗ rò sau một sinh thiết thận. Ngược lại, tăng
huyết áp phát triển sau khi sinh thiết có thể là do
tăng tiết renin được gây ra bởi giảm tưới máu
tương đối ở đầu xa rò động tĩnh mạch thận. Tim
to, suy tim sung huyết (CHF), hoặc cả hai có thể
xuất hiện trong số các bệnh nhân được đánh giá
rò động tĩnh mạch thận. Hiếm khi, một bệnh
nhân có biểu hiện hạ huyết áp gây ra bởi xuất
huyết do rò động tĩnh mạch thận. Trong nghiên
cứu này, triệu chứng suy tim chiếm 23,1%, tăng

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

huyết áp chiếm 15,4% và dấu chạm thận dương
tính chiếm 7,7%.


hiện được rò động tĩnh mạch thận qua siêu âm
Doppler là 8/11 (72,7%).

Chẩn đoán rò động tĩnh mạch thận

Với máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner)
hiện đại và truyền nhanh chất cản quang, thông
tin chi tiết về giải phẫu và chức năng có thể được
thu được và có thể dẫn đến chẩn đoán chính xác
rò động tĩnh mạch thận. Dấu hiệu điển hình bao
gồm lấp đầy thuốc cản quang sớm ở tĩnh mạch
thận và tĩnh mạch chủ, giãn tĩnh mạch thận và
đôi khi giãn động mạch thận cấp máu. Tăng
cường bắt thuốc cản quang trong giai đoạn vỏ
thận có thể là hữu ích, đặc biệt là nếu khối này
nằm trong tủy, bình thường kém bắt thuốc trong
giai đoạn này. Đa số bệnh nhân (12/13) trong
nghiên cứu chúng tôi được khảo sát mạch máu
bằng chụp cắt lớp điện toán, trong đó tỷ lệ phát
hiện rò động tĩnh mạch thận qua chụp cắt lớp
điện toán là 8/12 (66,7%). Ngoài ra chụp cắt lớp
còn giúp phát hiện thêm các dị dạng mạch máu
khác đi kèm, trong nghiên cứu này 3/12 (25%)
trường hợp được phát hiện giả phình trên chụp
cắt lớp điện toán.

Rò động tĩnh mạch thận có thể do bẩm sinh
hoặc mắc phải. Rò động tĩnh mạch thận bẩm
sinh chiếm 20-30% các trường hợp rò động tĩnh
mạch thận và thường ở cực trên thận. Rò động

tĩnh mạch thận mắc phải phổ biến hơn chiếm từ
70 – 80% các trường hợp rò động tĩnh mạch
thận(1,). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7
trường hợp là rò động tĩnh mạch thận mắc phải
(53,9%), trong đó nguyên nhân chủ yếu là do
chấn thương hoặc vết thương chiếm tỷ lệ 6/7
(85%) các trường hợp này. Các báo cáo của các
tác giả nước ngoài cho thấy tỷ lệ rò động tĩnh
mạch thận do sinh thiết thận và lấy sỏi thận qua
da chiếm tỷ lệ đáng kể và có xu hướng gia tăng,
tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ ghi
nhận 1 trường hợp rò động tĩnh mạch thận sau
sinh thiết thận.
Siêu âm Doppler nhạy cảm trong việc phát
hiện các tổn thương mạch máu. Một số trường
hợp đã được báo cáo trong đó tổn thương dạng
khối choán chỗ được xác định chính xác là một
rò động tĩnh mạch thận bởi việc sử dụng siêu âm
Doppler-duplex màu. Đặc biệt trên siêu âm màu
Doppler, dòng máu chảy với tốc độ cao làm xuất
hiện hiện tựợng loạn sắc (aliasing) trên hình ảnh
Doppler-màu, ngoài ra còn nhìn thấy các chấm
tín hiệu màu giả tạo xuất hiện ở vùng mô xung
quanh, tạo nên bởi hiện tượng rung của mô xung
quanh gây ra do sự lan truyền lực xoáy của dòng
chảy, đo vận tốc dòng chảy bằng kỹ thuật
Doppler xung đã cho thấy các giá trị vận tốc tâm
thu đỉnh và cuối tâm trương rất cao so với các
giá trị vận tốc nhận được từ mạch máu bình
thường ở cùng mức giải phẫu, đi sâu hơn nữa thì

thấy hiện diện động mạch hóa tĩnh mạch khi
khảo sát tĩnh mạch dẫn lưu, giá trị RI ở động
mạch nuôi giảm rõ rệt (RI = 0,30-0,40). Tất cả
những tính chất này phản ảnh khá chính xác đặc
tính huyết động của rò động tĩnh mạch thận.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11/13 trường
hợp được siêu âm Doppler, trong đó tỷ lệ phát

Chuyên Đề Thận Niệu

Tất cả các trường hợp trong nghiên cứu của
chúng tôi đều được chẩn đoán xác định rò động
tĩnh mạch thận trên chụp hình mạch máu. Chụp
hình mạch máu xóa nền (DSA) vẫn là tiêu chuẩn
vàng trong chẩn đoán rò động tĩnh mạch thận
giúp xác định vị trí và số lượng các nhánh động
mạch cấp máu cho rò động tĩnh mạch thận,
ngoài ra trong quá trình chụp động mạch chúng
ta còn có thể điều trị bằng cách bơm các vật liệu
thuyên tắc lỗ rò qua catheter. Chụp động mạch
của một rò động tĩnh mạch thận thể hiện trực
quan chất cản quang nhanh chóng vào trong
tĩnh mạch chủ dưới trong vòng vài giây sau tiêm
chất cản quang vì luồng thông nhanh chóng giữa
máu từ hệ thống động mạch với hệ thống tĩnh
mạch. Giảm đậm độ trên nephrogram cũng có
thể xuất hiện đầu xa của các rò động tĩnh mạch
thận. Trong nghiên cứu của chúng tôi, vị trí rò
động tĩnh mạch thận ở cực trên là nhiều nhất
(38,5%), kế đến là cực dưới chiếm 30,8%. Vị trí rò

động tĩnh mạch thận ở cực giữa và rốn thận
cùng chiếm 15,4%. Lưu ý là rò động tĩnh mạch

99


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

thận tại vị trí rốn thận là do sự thông nối của các
nhánh động tĩnh mạch lớn của thận nằm ngoài
chủ mô thận nên lưu lượng qua lỗ rò lớn, không
thích hợp điều trị bằng can thiệp nội mạch.

Điều trị
Phương pháp khởi đầu của điều trị rò động
tĩnh mạch thận thường là thuyên tắc mạch dưới
sự hướng dẫn của chụp hình mạch máu. Chỉ
định điều trị là rò động tĩnh mạch thận có biến
chứng như tiểu máu kéo dài, đau, tăng huyết áp,
suy tim sung huyết. Theo Lovaria và cộng sự
thì những trường hợp dị dạng mạch máu thận
với biểu hiện lâm sàng như tiểu máu, tăng huyết
áp, chảy máu sau phúc mạc, bệnh tim phì đại
(cardiomegaly) hoặc suy tim sung huyết sẽ có
kết quả tốt khi điều trị bằng thuyên tắc mạch(6).
Chỉ định phẫu thuật đã trở nên hạn chế hơn
trong điều trị rò động tĩnh mạch thận từ khi
thuyên tắc mạch được áp dụng. Rò động tĩnh

mạch thận do bệnh lý ác tính thường đòi hỏi
phẫu thuật tiệt căn. Khi bệnh di căn đáng kể và
thể trạng kém thì giới hạn việc áp dụng cắt thận,
khi đó thuyên tắc có thể là điều trị giảm nhẹ.
Triệu chứng tiểu máu không đáp ứng với
thuyên tắc có thể được điều trị bằng cách cắt
thận. Cuối cùng, cơn đau không đáp ứng với
những can thiệp ít xâm hại có thể đáp ứng với
điều trị cắt thận. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, đa số các trường hợp được điều trị bằng can
thiệp nội mạch với tỷ lệ 10/13 (76,9%), ngoài ra
cắt thận chiếm tỷ lệ 15,4% và ghép thận tự thân
chiếm tỷ lệ 7,7%.
Tiến bộ của can thiệp nội mạch đã hạn chế
các trường hợp phải cắt thận trong điều trị rò
động tĩnh mạch thận. Chất thuyên tắc được sử
dụng có thể là được sử dụng cho thuyên tắc
mạch bao gồm thép cuộn, chất đông máu,
gelatin dạng bọt và bọt, và các loại polyme tổng
hợp(7). Biến chứng quan trọng khi thuyên tắc
mạch là thuyên tắc phổi, đặc biệt các trường hợp
có lỗ rò động tĩnh mạch lớn. Chúng tôi sử dụng
bóng có thể bơm lên được để thuyên tắc mạch
với nguy cơ thuyên tắc phổi sau can thiệp thấp
hơn. Trong 10 trường hợp điều trị bằng can thiệp

100

nội mạch của chúng tôi có 9 trường hợp thành
công sau 1 lần can thiệp và 1 trường hợp phải

can thiệp 2 lần. Trường hợp can thiệp 2 lần, bệnh
nhân tiểu máu tái phát sau xuất viện và được chỉ
định can thiệp nội mạch lần 2. Trong quá trình
can thiệp lần 2 không còn hấy rò động tĩnh mạch
nhưng phát hiên thêm 1 giả phình ở cực dưới và
tiến hành thuyên tắc chọn lọc nhánh mạch máu
cấp máu cho giả phình. Sau can thiệp lần thứ hai,
bệnh nhân hết tiểu máu sau một ngày và được
xuất viện.
Hội chứng sau thuyên tắc mạch (PES) đôi
khi có thể xảy ra sau khi thuyên tắc qua catheter
động mạch. PES bao gồm sốt, đau thắt lưng,
buồn nôn và ói mửa, nhưng thuyên tắc mạch
chọn lọc của rò động tĩnh mạch thận cho phép
bảo tồn phần nhu mô thận còn lại và do đó giảm
thiểu PES(8). Chúng tôi ghi nhận có 4/10 trường
hợp có hội chứng sau thuyên tắc mạch.
Trong nghiên cứu chúng tôi có 2/13 trường
hợp được chỉ định cắt thận, chiếm tỷ lệ 15,4%.
Trường hợp thứ nhất có vị trí rò động tĩnh mạch
thận ở rốn thận, lưu lượng cao, thận teo nhỏ.
Trường hợp thứ hai có rò động tĩnh mạch thận
trên thận ghép sau sinh thiết thận. Trường hợp
này có thải ghép mạn, suy thận với creatinin
trước can thiệp là 3,2 mg/dL, tăng huyết áp và
suy tim. DSA cho thấy hình ảnh rò động tĩnh
mạch thận ở 1/3 giữa-trên thận ghép, lưu lượng
cao. Nhận thấy thận ghép suy giảm chức năng,
giữ lại thận ghép có rò động tĩnh mạch làm tình
trạng suy tim bệnh nhân nặng hơn nên chỉ định

cắt thận ghép.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường
hợp ghép thận tự thân, đây là 1 trường hợp vị trí
rò động tĩnh mạch ở rốn thận nằm ngoài nhu mô
thận với lưu lượng cao gây suy tim và đau hông
lưng phải. Phương pháp ghép thận tự thân giúp
sửa chữa các bất thường mạch máu trong rò
động tĩnh mạch thận và bảo tồn chức năng của
thận có rò động tĩnh mạch thận. Điều này đặc
biệt quan trọng nếu bệnh nhân có thận độc nhất
hoặc thận đối bên có bệnh lý. Kĩ thuật này tuy có
nhiều ưu điểm nhưng là một kĩ thuật phức tạp,

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
đòi hỏi sự chuẩn bị tốt cũng như kinh nghiệm
của phẫu thuật viên(9).

4.

KẾT LUẬN
Can thiệp nội mạch trong điều trị rò động
tĩnh mạch thận được ưu tiên chọn lựa trong đa
số các trường hợp vì các ưu điểm của một
phương pháp điều trị ít xâm hại. Trong trường
hợp quá chỉ định can thiệp nội mạch thì ghép
thận tự thân hoặc cắt thận bán phần nên là ưu
tiên lựa chọn kế tiếp vì giúp bảo tồn chức năng

thận có rò động tĩnh mạch. Tuy nhiên để kết
luận về vai trò của các phương pháp này trong
thực tế lâm sàng tại Việt Nam thì chúng ta cần
những nghiên cứu trên số lượng bệnh lớn hơn
và thời gian theo dõi lâu dài hơn.

5.

6.

7.

8.

9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

Abdel-Gawad EA, Housseini AM, Cherry KJ, Bonatti H,
Maged IM, Norton PT, Hagspiel KD: CT angiography of renal
arteriovenous fistulae: a report of two cases. Vasc
Endovascular Surg 2009, 43:416–420.
Anomalies of the upper urinary tract: Campbell's Urology. 8th
edition. Edited by Walsh PC, Retik AB, Vaughan ED, Wein
AJ, Kavoussi LR, Novick AC, Partin AW. Peters CA:

Amsterdam: Elsevier Science; 2002:3422–3423.
Cheng PM, Van Allan RJ. Superior sensitivity of angiographic
detection of arteriovenous fistula after biopsy in a renal

Chuyên Đề Thận Niệu

10.

Nghiên cứu Y học

allograft with CO2 compared with iodinated contrast
medium. J Vasc Interv Radiol. Dec 2006; 17(12):1963-6.
Đỗ Anh Toàn, Đặng Đình Hoan, Nguyễn Tuấn Vinh, Vĩnh
Tuấn, Nguyễn Văn Ân, Hoàng Thiên Phúc, Vũ Lê Chuyên
(2010). “Can thiệp nội mạch trong niệu khoa: kết quả bước
đầu qua 14 trường hợp tại bệnh viện Bình Dân”. Tạp chí Y
Học Thành Phố Hồ Chí Minh, tập 14, số 1.
Dưnmez FY, Coşkun M, Uyuşur A, Hunca C, Tutar NU,
Başaran C, Cakir B (2008). “Noninvasive imaging findings of
idiopathic renal arteriovenous fistula”. Diagn Interv
Radiol 2008, 14:103–105.
Lovaria A et al (1999). “Interventional radiology in the
treatment of urological vascular complications”. Ann Urol
(Paris) 1999; 33(3):156.
Saliou C, Raynaud A, Blanc F, Azencot M, Fabiani JN:
Idiopathic renal arteriovenous fistula: treatment with
embolization. Ann Vasc Surg 1998, 12:75–77.
Somani BK, Nabi G, Thorpe P, Hussey J, McClinton S:
Therapeutic transarterial embolisation in the management of
benign and malignant renal conditions. Surgeon 2006, 4:348–

352.
Trần Ngọc Sinh, Dương Thị Kim Cúc, Dư Thị Ngọc Thu, Trần
Trọng Trí, Chu Quí Thuận, Nguyễn Thị Thái Hà (2010).
“Ghép thận tự thân trong hẹp và dò động tĩnh mạch thận:
nhân một trường hợp”. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, tập
14, số 1.
Varela ME: Aneurisma arteriovenoso de los vasos renales y
asistolia consecutiva. Rev Med Latino-Am 1928, 14:32–44.

Ngày nhận bài báo:

16/5/2014

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/6/2014

Ngày bài báo được đăng:

10/7/2014

101



×