Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ ĐIỀU TRỊ LIỆT ĐÁM RỐI THẦN KINH
CÁNH TAY TRẺ EM DO SANH TẠI VIỆT NAM
Phan Đức Minh Mẫn*, Đặng Khải Minh**, Võ ChiêuTài*, Alain Gilbert***, Piere Raimondii****
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ liệt đám rối thần kinh cánh tay do sanh tại Thành Phố Hồ Chí Minh và phương
pháp xử trí tổn thương theo hướng dẫn của giáo sư A. Gilbert.
Phương pháp nghiên cứu: Ghi nhận tỉ lệ liệt đám rối thần kinh cánh tay do sanh xảy ra tại 2 bệnh viện
phụ sản lớn của Thành Phố Hồ Chí Minh là bệnh viện Từ Dũ và bệnh viện Hùng Vương; khảo sát tất cả trường
hợp bị liệt đám rối thần kinh cánh tay do sanh từ 2 tháng tuổi trở lên đã đến khám và điều trị tại bệnh viện Chấn
Thương Chỉnh Hình và bệnh viện Nhi Đồng 1.
Kết quả: Tại bệnh viện Hùng Vương ghi nhận có 26/ 69.022 trường hợp và bệnh viện Từ Dũ có 33/35.774
trường hợp xuất hiện liệt đám rối thần kinh cánh tay do sanh thường qua ngã âm đạo trong đó chỉ có 6 trường
hợp không phục hồi hoàn toàn cần phải mổ thám sát và ghép thần kinh. Tại bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình
và bệnh viện Nhi Đồng 1 dưới sự hướng dẫn của giáo sư Gilbert, chúng tôi đã thực hiện khám cho 169 trường
hợp có liện quan liệt đám rối thần kinh cánh tay do sanh và trong đó có 39 trường hợp đã được mổ thám sát và
ghép thần kinh Sural cho trẻ < 9 tháng tuổi; 16 trường hợp chuyển đổi thần kinh (neurotisation) và 24 trường
hợp xử lý di chứng liệt đám rối thần kinh cánh tay. Theo dõi lâu dài các trường hợp được mổ thám sát thần kinh,
ghi nhận phục hồi co cơ trong động tác dạng vai và gấp khuỷu xuất hiện 37/39 trường hợp. Hai trường hợp
chưa thấy có dấu phục hồi sau 1 năm theo dõi.
Kết luận: Thám sát thần kinh nên thực hiện sớm cho những trường hợp liệt không có dấu hiệu phục hồi
gấp khuỷu sau 3 tháng hoặc không có dấu hiệu tiến triển co cơ nhị đầu cánh tay trên lâm sàng liên tục 2 tháng
theo dõi.
Từ khóa: Liệt đám rối thần kinh cánh tay.
ABSTRACT
FIRST STEP IN EVALUATING TO TREATMENT IN OBSTETRIC BRACHIAL PLEXUS PALSY IN
VIETNAM
Phan Duc Minh Man, Dang Khai Minh, Vo Chieu Tai, Alain Gilbert, Piere Raimondii
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 208 ‐ 213
Objective: Definite incidence of birth – related brachial plexus palsy in HCMC Vietnam and application for
management of the injury under Pr. A. Gilbert group’ s guide.
Methods: Statistic the incidence of Obstetric brachial plexus palsy (OBP) based on the two biggest obstetric
hospitals in Vietnam and observe all of the cases which got OBP from 2 months year old and more came the our
hospital during 3 years (2010‐ 2012).
Results: At Hung Vuong Obstetrics Hospital, there are 26/69.022 cases with vaginal delivery get POB and
at Tu Du Obstetric Hospital, there are 33/35.774 cases with vaginal delivery but total is only 6 cases must to
* Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình. ** Bệnh viện Nhi Đồng 1.
*** GS. Phẫu thuật BànTay ở Paris – Pháp **** GS. Phẫu thuật BànTay ở Milan ‐ Italia
Tác giả liên lạc: Bs Phan Đức Minh Mẫn ĐT: 0839235791, Email:
Chuyên Đề Ngoại Nhi
209
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
need exploring surgery.
At our hospital, we examined 169 cases which were concerning the OBP and there are 39 cases practiced
exploring surgery and sural nerve grafts before 9 moths year‐old, 16 cases got neurotisation and 24 cases need to
do management of late sequel. Follow up the group of exploring surgery, result in the development of
contractures, especially elbow flexion and shoulder abduction, arrived in 37/39 cases. Two cases hadn’t restored
yet the sign of contracture muscle after 1 year.
Conclusion: The exploring surgery need to practice in the cases which were no sign elbow flexion after 3
months year old or losing available to the bicep muscle ‘s contracture restoration during more 2 months follow
up.
Key word: Incidence of birth – related brachial plexus palsy.
tượng liệt (LĐRTKCT TE) kèm xuất hiện hội
TỔNG QUAN
chứng Horner; liệt thần kinh hoành; liệt thần
Liệt đám rối thần kinh cánh tay trẻ em
kinh ngực dài (xương bả vai nhô cao); liệt nhóm
(LĐRTKCT TE) có tỉ lệ xuất hiện 0,38 – 1,56/
cơ trám, cơ trên vai, cơ lưng rộng là những dấu
1000 trẻ sanh(14,16). Yếu tố của sự khác biệt này
hiệu liệt (LĐRTKCT TE) trước hạch thần kinh
tùy thuộc vào cân nặng trẻ lúc sanh, hình thức
(preganglion) hay còn được xem là tổn thương
kỹ thuật sanh ngã dưới âm đạo, trong đó những
nhổ rứt. Tổn thương này đòi hỏi phải chuyển
nguyên nhân làm cản trở chuyển dạ thuận lợi là
ghép thần kinh từ nơi khác để phục hồi một
yếu tố gây nên liệt như sanh ngược, sanh phải
phần chức năng thần kinh(1,3, 8,13) .
dùng kềm, giác hút(15) thậm chí thủ thuật Ceasar
Theo nhận xét Gilbert và Tassin(8,10,11), đánh
cũng có thể gặp liệt (LĐRTKCT TE)(19). Hầu hết
giá theo thời điểm từng nhóm 3 tháng với cơ hai
các trường hợp (LĐRTKCT TE) xảy ra ở mức độ
đầu là chỉ thị của dấu hiệu phục hồi, nếu cơ hai
C5‐C6, một số trường hợp có thể kèm liệt C7 và
đầu có biểu hiện co cơ trong 3 tháng đầu được
một số ít xảy ra liệt hoàn toàn (bao gồm liệt C8‐
xem như tiên lương tốt. Nếu mức độ phục hồi
T1). Mức độ liệt có thể xảy ra từ nhẹ do kéo căng
xảy ra tiếp tục đến với cơ ba đầu, cơ delta vai là
(Sunderland 1) đến khả năng đứt không hoàn
dấu hiệu phục hồi hoàn toàn tốt. Nếu hiện
toàn hoặc hoàn toàn (Sunderland 2‐5) thậm chí
tượng phục hồi các cơ này bị dừng lại trong thời
có cả nhổ rứt (Avulsion). Đứt rể thần kinh ngoài
gian 3 tháng tiếp được xem như là dấu hiệu cho
lỗ liên hợp thường gặp trong sanh ngôi đầu và
chỉ định mổ ghép thần kinh. Bản chất phục hồi
bị kẹt vai. Nhổ rứt C5‐C6 hay gặp trong sanh
các cơ của thần kinh thân trên xuất hiện ở mức
ngược và có thể bị liệt cả hai bên(7). Liệt hoàn
độ M3 trong hai tháng đầu được xem như có
toàn có thể kèm phối hợp nhiều thể tổn thương
khả năng phục hồi hoàn toàn. Nếu cơ hai đầu
như kéo căng, đứt và nhổ rứt trên mạng thần
không xuất hiện co cơ ở mức M3 ở tháng thứ 5
kinh và thường là tổn thương nặng(8).
và 6 được xem như cần thiết phẫu thuật nối
Theo Naraska và một số tác giả(3,18) đã phân
ghép thần kinh hơn là để diễn tiến tự nhiên. Nếu
lập tổn thương thành 4 nhóm: nhóm nhẹ nhất
khả năng phục hồi một phần của các cơ thuộc
chỉ có liệt C5‐C6 đơn thuần (hội chứng Erb) có
C5 đến C7 ở mức M3 xảy ra từ tháng thứ 3 đến
khả năng tự phục hồi 90%. Nhóm 2 kèm liệt C7
tháng 6 sẽ có nguy cơ hạn chế tầm vận động
có tiên lượng xấu hơn. Phần lớn nhóm này có
khớp thường xuyên và dẫn đến co rút khớp.
tổn thương đứt sau hạch thần kinh
Trong tình huống này, nhiều tác giả còn bàn cải
(postganglion). Nhóm 3 bao gồm liệt hoàn toàn
về việc nên chọn lựa phẫu thuật thám sát và
tay nhưng không có hội chứng Horner và nhóm
ghép thần kinh hay là chờ đợi phục hồi tự nhiên
4 là liệt hoàn toàn và có hội chứng Horner.
và chuyển gân về sau này. Tuy nhiên, nếu mất
Trong tổn thương liệt, nếu khám xét có hiện
cân bằng của cơ dạng vai và xoay ngoài khớp
210
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
vai phục hồi ơ mức độ yếu so với nhóm cơ khép
và xoay trong vai ở mức độ bình thường sẽ dẫn
đến biến dạng khớp vai sau này(20).
Đánh giá mức độ phục hồi chức năng của
liệt (LĐRTKCT TE) được dựa vào bảng phân
loại Mallet(17). Phần lớn chức năng phục hồi thần
kinh ghép chỉ xảy ra từ sau tháng thứ 6 đền
tháng thứ 18. Trong đó sự thiếu vắng phục hồi
cơ hai đầu trong thời gian từ tháng thứ 6 đến
tháng thứ 9 được xem như là thất bại của phẫu
thuật và có thể chỉ định mổ thám sát lại từ tháng
thứ 9 đến tháng 12(4).
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ liệt đám rối thần kinh cánh tay
(ĐRTKCT) do sanh tại TP.HCM và phương
pháp xử trí tổn thương theo hướng dẫn của giáo
sư A. Gilbert.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đánh giá dịch tể học về tỉ lệ liệt (LĐRTKCT
TE) chúng tôi sẽ ghi nhận kết quả khảo sát của
hai trung tâm lớn về sanh sản tại TP.HCM là
bệnh viện Từ Dũ và bệnh viện. Hùng Vương.
Nơi đây có sự phối hợp tốt với chúng tôi trong
ghi nhận và đánh giá các tai biến liệt (LĐRTKCT
TE) cũng như có số lượng sanh thường rất nhiều
so với các nơi khác trong cả nước.
Nghiên cứu kỹ thuật mổ trẻ bị liệt
(LĐRTKCT TxE) được thực hiện theo phương
pháp khảo sát mô tả. Nhóm trẻ bị biến chứng
liệt (LĐRTKCT TE) khi đến thăm khám với đoàn
phẫu thuật sẽ ghi nhận các diễn tiến phục hồi
thần kinh từng 3 tháng mỗi lần khám. Mỗi năm,
đoàn sẽ phối hợp tổ chức khám 2 lần cánh nhau
mỗi 6 tháng với sự hướng dẫn của GS. Gilbert,
chọn lựa các trường hợp cần thực hiện thám sát,
ghép thần kinh, neurotisation, đánh giá kết quả
khâu nối. Các kỹ thuật thám sát thực hiện dưới
kính lúp và khâu nối bằng keo dán sinh học
nhập từ nước ngoài áp dụng cho các trẻ > 3
tháng tuổi mà có dấu hiệu không phục hồi chức
năng co cơ hai đầu cánh tay hoặc thời gian phục
hồi các cơ cánh tay, vai không tiến triển sau 2
hoặc 3 tháng. Thời gian thực hiện của đề tài này
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Nghiên cứu Y học
ghi nhận từ 2009 đến 2012 tại bệnh viện Chấn
Thương Chỉnh Hình và bệnh viện Nhi Đồng 1.
Các thông số đánh giá sẽ dựa vào khảo sát
lâm sàng là chính, với mức độ phục hồi cơ hai
đầu cánh tay để quyết định chọn lựa chỉ định
mổ, kết quả phục hồi sau mổ. Ngoài ra, còn dựa
vào các phục hồi cơ dạng vai và cổ tay để đánh
giá mức độ phục hồi nhiều hay ít.
KẾT QUẢ
Tại Việt Nam, chúng tôi chưa có số liệu điều
tra dịch tễ chính xác về tỉ lệ biến chứng này. Tuy
nhiên dựa trên số liệu thu thập từ hai bệnh viện
trung tâm sản phụ khoa tại thành phố Hồ Chí
Minh: Bệnh viện Từ Dũ (2010 ‐ 2011) có tổng
cộng 35.774 trường hợp sanh ngã âm đạo và có
33 trường hợp bị biến chứng liệt (LĐRTKCT TE),
phần lớn phục hồi và chỉ có 3 trường hợp không
phục hồi hết cần có chỉ định ghép thần kinh;
bệnh viện Hùng Vương(2010 ‐ 2012 ) có 69.022
sanh ngã âm đạo nhưng chỉ có 26 trường hợp bị
tai biến liệt (LĐRTKCT TE) với 2 trường hợp ghi
nhận cần thám sát và ghép thần kinh. Tổng cộng
từ hai trung tâm nói trên chúng tôi ghi nhận
59/104.796 trường hợp bị biến chứng liệt
(LĐRTKCT TE) trong những tình huống sanh
thường không liên quan sanh mổ (tỉ lệ 0,56/ 1000
trẻ sanh). Tuy nhiên tỉ lệ cần thiết phẫu thuật
thám sát để ghép thần kinh chỉ chiếm 5/59
trường hợp liệt (tỉ lệ 0,048/1000 trẻ sanh).
Riêng số liệu khảo sát nhóm thăm khám có
liệt với đoàn, các tổn thương và kết quả phục hồi
chức năng sau điều trị bao gồm tập vật lý trị
liệu, chích Botox, chuyển gân và thám sát hoặc
chuyển ghép thần kinh do giáo sư Alain Gilbert
tổ chức và hướng dẫn từ 2009 ‐ 2012 tại bệnh
viện. bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình, ghi
nhận có 169 trường hợp bệnh lý liệt (LĐRTKCT
TE) do sanh. Trong đó:
‐ Nhóm liệt (LĐRTKCT TE) là công dân
TP.HCM 19 trẻ, còn lại là trẻ em ngoài TP.HCM
( 150 trẻ).
‐ Nhóm tuổi đến khám <12 tháng ( 129 trẻ), 1
– 6 tuổi ( 26 trẻ ), > 6 tuổi (14 trẻ)
211
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
‐ Nhóm trẻ cân nặng < 4 kg bị liệt
(LĐRTKCT TE) ( 54 trẻ), > 4 kg ( 49 trẻ), không
xác định (66 trẻ)
Nhận xét: Ghi nhận kết quả phục hồi tốt
trong nhóm tổn thương 2 rễ thần kinh nhiều
hơn nhóm tổn thương hoàn toàn.
‐ Nhóm trẻ em < 12 tháng tuổi được mổ
thám sát và ghép thần kinh ( 51 trẻ, trong đó < 6
tháng tuổi là 22 trẻ và sau 6 tháng tuổi là 29 trẻ),
39 trường hợp sử dụng ghép thần kinh Sural và
16 trường hợp thực hiện neurotisation ( cấy
ghép hoán đổi nhánh thần kinh), có 4 trường
hợp thực hiện neurotisation bổ sung sau khi đã
ghép Sural và 2 trường hợp dùng Botox bổ sung
sau ghép.
Trong nhóm phục hồi tốt của liệt C5,C6 và
C5,C6,C7 (29/45) cho tỉ lệ khoảng 64% kết quả
tốt trong chiến lược phẫu thuật ghép thần kinh.
Kết quả này sẽ còn tăng theo thời gian theo dõi.
‐ Nhóm trẻ lớn > 12 tháng tuổi không thể
ghép thần kinh và có chỉ định chuyển gân bổ
sung (15 trẻ).
‐ Nhóm trẻ em phải dùng Botox hổ trợ tập
vật lý trị liệu (6 trẻ)
‐ Những trẻ còn lại đang chờ diễn tiến để
chuyển gân hoặc thực hiện neurotisation bổ
sung tùy tình huống.
Bảng 1. Số trường hợp tổn thương rể thần kinh ghi
nhận khi mổ thám sát và số trường hợp ghép hoặc chỉ
làm neurotisation cùng một thì hoặc thì hai.
Mức độ tổn
C5,C6 C5,C6,C7
thương khi
thám sát
Số trường hợp
26
19
Ghép thần kinh
10
19
12 + ( 4
neurotisation
0
bổ sung)
C5,C6,
C7, C8
±T1
10
10
Có hội
chứng
Horner
6
6
4
6
Nhận xét: Trong đó ghép thần kinh được sử
dụng chủ yếu cho những trường hợp đứt từ 3 rễ
thần kinh trở lên và chuyển hoán đổi thần kinh
được dùng nhiều cho tổn thương C5,C6.
Bảng 2. Số trường hợp trẻ có dấu hiệu phục hồi sau
mổ trên 6 tháng theo dõi và mức độ phục hồi bước
đầu được ghi nhận như sau
Mức độ tổn thương khi
thám sát
C5, C6, Có hội
C5, C5,
C7, C8 chứng
C6 C6, C7
±T1
Horner
Số trường hợp có dấu hiệu
6
phục hồi (co cơ lâm sàng)
Số trường hợp có phục hồi
20
tốt (dạng vai và gấp khuỷu)
Số trường hợp không dấu
0
hiệu phục hồi
212
10
10
6
9
0
0
0
2
2
Kết quả không thành công sau hơn 1 năm
theo dõi gồm 2 trường hợp của nhóm liệt hoàn
toàn nói lên tính chất phức tạp trong kỹ thuật
thám sát của nhóm này do không tìm được
nguồn cấy ghép thần kinh có phẩm chất tốt
cũng như do tính chất tổn thương của nhóm này
chủ yếu nhổ rứt nên việc tìm và đánh giá nguồn
ghép từ rễ thần kinh còn tốt là điều không dễ.
BÀN LUẬN
Ghi nhận tỉ lệ liệt (LĐRTKCT TE) 0,56/1000
trẻ sanh tại hai trung tâm sản phụ khoa lớn nhất
TP.HCM cũng là những trung tâm lớn nhất
trong nước, tuy không phải là số liệu đại diện
cho điều tra dịch tễ của cộng đồng nhưng con số
này nói lên thực tế sẽ còn cao hơn nếu được
nghiên cứu rộng rãi trong cả nước. Theo tỉ lệ
tăng trưởng bình quân dân số cả nước khoảng
1,1% ‐ 1,6% mỗi năm, cho thấy rằng số trẻ sanh
ra và nguy cơ bị tai biến liệt (LĐRTKCT TE) sẽ
vào khoảng gần 1 triệu trẻ em được sanh ra với
tỉ lệ có nguy cơ tai biến liệt (LĐRTKCT TE) vào
khoảng hơn 560 trẻ em, điều này cho thấy trẻ em
thật sự cần mổ thám sát thần kinh trung bình
khoảng gần 500 trẻ mỗi năm trong cả nước. Tuy
nhiên, tình hình các bệnh viện trong nước hầu
như chưa có nơi nào phát triển được kỹ thuật
mổ thám sát trẻ em sơ sinh bị liệt (LĐRTKCT
TE) cho đến thời điểm hiện nay, chứng tỏ nguy
cơ tồn tại di chứng liệt (LĐRTKCT TE) trong
tương lai sẽ rất nặng nề và trở thành gánh nặng
cho xã hội. Với khả năng giúp đỡ của nhóm GS.
Gilbert (thực hiện 51 trường hợp mổ thám sát và
chuyển ghép thần kinh trong 4 năm) chủ yếu
cho các trẻ em miền Nam đã đặt nền tảng cho sự
phát triển kỹ thuật này trong tương lai tại BV.
CTCH và BV.Nhi Đồng 1. Trước đây kỹ thuật
mổ thám sát và ghép thần kinh cho trẻ sơ sanh
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
hầu như không dám thực hiện vì kỹ thuật khâu
nối thần kinh bằng tay làm mất rất nhiều thời
gian gây mê cho trẻ và hạn chế kết quả khâu nối
khi trẻ phát triển. Nhờ vào kỹ thuật dùng keo
dán thần kinh được chuyển giao từ GS. Gilbert
(dưới sự tài trợ của hiệp hội Chain de L’espoir),
chúng tôi đã mạnh dạn tiến hành bước đầu thực
hiện các kỹ thuật thám sát ghép thần kinh và
chuyển ghép thần kinh ở mức độ nhánh nhỏ cấy
chuyển vào thần kinh bị tổn thương không thể
ghép được với tỉ lệ 16/26 trong nhóm liệt C5,C6
và 4/10 trong nhóm liệt hoàn toàn để giúp phục
hồi phần nào chức năng chủ yếu của bàn tay mà
không phải hy sinh các chức năng khác (bảng 1)
cho các trẻ bị biến chứng liệt (LĐRTKCT TE) có
nguy cơ không phục hồi(9,13).
Kỹ thuật nối ghép thần kinh trẻ em sơ sanh <
6 tháng tuổi sẽ rất khó khăn nếu như chỉ thực
hiện khâu nối cổ điển do thao tác chậm, thần
kinh quá nhỏ và nguy cơ gây mê kéo dài, mất
máu trong cuộc mổ kéo dài sẽ không tốt cho trẻ.
Việc áp dụng keo dán thần kinh đã mang lại giá
trị kỹ thuật khâu nối nhanh và thích hợp cho
khâu nối thần kinh trẻ em vì khả năng hữu
dụng sinh học cao, hiệu quả trong phát triển sợi
trục thần kinh tránh nguy cơ xơ hóa từ mối chỉ
khâu làm hạn chế sự phát triển thần kinh khi trẻ
lớn lên (11 ,9). Ngoài ra, khả năng khâu nối thần
kinh trẻ em sẽ bớt phụ thuộc vào kỹ năng khâu
nối vi phẫu là một kỹ thuật phức tạp và quá tinh
tế mà không phải ai cũng làm được.
Tỉ lệ phục hồi thành công rất tốt sau mổ
chủ yếu trong nhóm liệt C5,C6(1) và khá tốt
trong nhóm C5,C6,C7 khoảng 64% (Bảng 2) đã
cải thiện hiệu quả phục hồi tốt hơn nếu chỉ để
diễn tiến tự nhiên(2). Tỉ lệ này chắc chắn còn
thay đổi theo diễn tiến tốt khi trẻ phát triển,
chủ yếu 2 năm đầu sau mổ ghép và có thể còn
thêm được khi trẻ lớn trong những năm sau
đó nếu có hướng dẫn tập vật lý trị liệu phù
hợp(8,10,12, 9). Đặc biệt, trong nhóm tổn thương
gần hoặc hoàn toàn cả đám rối thần kinh cánh
tay, kỹ thuật khâu nối và ghép thần kinh đã
góp phần đem lại hy vọng có được một phần
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Nghiên cứu Y học
chức năng vận động trong tương lai dù chức
năng có thể kém nhưng là mơ ước của nhiều
gia đình và trẻ bị liệt sau này(4,6). Dựa vào kỹ
thuật ghép này, chúng ta có thể cải thiện chức
năng tốt hơn trong tương lai của trẻ bị liệt nhờ
vào khả năng chuyển gân bổ sung hoặc chỉnh
hình bàn tay theo chức năng sẽ dễ dàng hơn.
KẾT LUẬN
Theo diễn tiến phát triển dân số của Việt
Nam, đòi hỏi các trung tâm nhi khoa và vi phẫu
tạo hình phải phấn đấu xây dựng đội ngũ phẫu
thuật viên có khả năng trang bị kỹ năng khâu
nối liệt (LĐRTKCT TE) cho trẻ sơ sinh nhằm đáp
ứng nhu cầu phục hồi chức năng những trẻ bị
biến chứng này mà hiện nay còn chưa được
quan tâm nhiều. Với kỹ thuật vi phẫu và áp
dụng keo dán thần kinh đã mang lại hiệu quả
trong khâu nối, ghép thần kinh cho trẻ em sơ
sanh và hướng tới tương lai phục hồi hiệu quả
hơn các di chứng từ liệt (LĐRTKCT TE) nói
riêng và liệt do di chứng bại liệt khác nói chung
mà chúng ta cần triển khai tốt hơn nữa cho nhu
cầu phục hồi trẻ em tàn tật của cả nước.
Chọn lựa chỉ định phẫu thuật thám sát
thần kinh trong liệt (LĐRTKCT TE) cần chú ý
đánh giá quá trình phục hồi co cơ hai đầu cánh
tay là quan trọng để đưa ra quyết đinh thời
điểm phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Bennett GC, Harrold AJ (1976). Prognosis and early
management of birth injuries to the brachial plexus. BMJ; 1:
pp 1520‐1521.
Benson LJ, Ezaki M, Cater P, Knetzer D (1996). Brachial
plexus birth palsy: A prospective natural history study.
Orthop Trans; 20:pp 311.
Birch R (1993). Surgery for brachial plexus injuries. J Bone
Joint Surg [Br]; 75:pp 346‐348.
Clarke HM, Curtis CG (1995). An approach to obstetrical
brachial plexus injuries. Hand Clin; 11:pp 563‐580.
Dodds SD, Wolfe SW (2000). Perinatal brachial plexus palsy.
Curr Opin Pediatr; 12:pp 40‐47.
Eggers IM, Mennen U (2001). The evaluation of function of
the flail upper limb classification system: Its application to
unilateral brachial plexus injuries. J Hand Surg [Am]; 26:pp
68‐76.
Geutjens G, Gilbert A, Helsen K (1996). Obstetric brachial
plexus palsy associated with breech delivery: A different
pattern of injury. J Bone Joint Surg Br; 78:pp 303‐306.
213
Nghiên cứu Y học
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
214
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Gilbert A (1995). Long‐term evaluation of brachial plexus
surgery in obstetrical palsy. Hand Clin; 11:pp 583‐594.
Gilbert A, Razaboni R (1988). Amar‐khodja S: Indications and
results of brachial plexus surgery in obstetrical palsy. Orthop
Clin North Am; 19:pp 91‐105.
Gilbert A, Tassin JL (1984). Reparation chirurgicale du plexus
brachial dans la paralysie obstetricale. Chirurgie; pp 110:70.
Gilbert A, Tassin JL (1987). Obstetrical palsy: A clinical,
pathologic and surgical review. In: Terzis JK, ed.
Microreconstruction of Nerve Injuries, Philadelphia: WB
Saunders:pp 529‐553.
Gilbert A, Whitaker I (1991). Obstetrical brachial plexus
lesions. J Hand Surg [Br]; 16:pp 489‐491.
Kawabata H, Kawai H, Masatomi T, Yasui N (1994).
Accessory nerve neurotization in infants with brachial plexus
birth palsy. Microsurgery; 15:pp 768‐772
Kay SP (1998). Obstetrical brachial palsy. Br J Plast Surg;
51:pp 43‐50.
Kennedy R (1903). Suture of the brachial plexus in birth
paralysis of the upper extremity. BMJ; 11:pp 298‐301.
Levine MG, Holroyde J, Woods JR (1984). Birth traumas:
Incidence and predisposing factors. Obstet Gynecol; 63:pp
792‐795.
17.
18.
19.
20.
Mallet J (1972). Paralysie obstetricale du plexus brachial.
Traitement des sequelles. Primaute du traitemente de
lʹepaule—Methode dʹexpression des resultats. Rev Chir
Orthop Reparatrice Appar Mot; 58 (Suppl 1):pp 166‐168.
Narakas AO (1963). Thought on neurotization or nerve
transfers in irreparable nerve lesions. Clin Plast Surg; 11:pp
153‐159.
Notzon FC, Placek PJ, Taffel SM (1987). Comparisons of
national caesarean section rates. N Engl J Med; 316:pp 386‐
389.
Waters PM (1999). Comparison of the natural history, the
outcome of microsurgical repair, and the outcome of
operative reconstruction in brachial plexus birth palsy. J Bone
Joint Surg; 81:pp 649‐659.
Ngày nhận bài
17/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo
20/07/2013.
Ngày bài báo được đăng:
15–09‐2013.
Chuyên Đề Ngoại Nhi