Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nồng độ homocysteine và acid folic huyết tương ở bệnh nhân vảy nến mảng tại Bệnh viện Da Liễu TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.82 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

NỒNG ĐỘ HOMOCYSTEINE VÀ ACID FOLIC HUYẾT TƯƠNG
Ở BỆNH NHÂN VẢY NẾN MẢNG TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP. HỒ CHÍ
MINH
Phạm Thúy Ngà*, Nguyễn Tất Thắng**

TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh vảy nến là bệnh da rất thường gặp, tần suất 0,1 – 11,8%, biểu hiện chủ yếu là tổn thương
da. Homocysteine huyết tương là yếu tố nguy cơ độc lập cho bệnh động mạch vành, động mạch não và động
mạch ngoại biên. Bệnh vảy nến thường tăng nồng độ Homocysteine và giảm acid folic. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu với mục tiêu khảo sát nồng độ Homocysteine và acid folic huyết tương ở bệnh nhân vảy nến mảng.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh chứng trên 80 bệnh nhân vảy nến và 80 người có tương đồng
về tuổi và giới làm nhóm chứng. Không nhận vào nghiên cứu bệnh nhân có tình trạng tăng Homocysteine máu
mắc phải.
Kết quả: Nồng độ Homocysteine nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng (14,7  9,3 mol/l so với 6,6  2 mol/l)
và nồng độ acid folic ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng (10,8 4,8 ng/ml so với 13,45,2 ng/ml). Có mối tương
quan thuận giữa nồng độ Homocysteine và độ nặng của bệnh, tương quan nghịch nồng độ acid folic và độ nặng
của bệnh. Có mối tương quan thuận giữa nồng độ Homocysteine và thời gian mắc bệnh. Có sự tương quan
thuận của Homocysteine và tuổi ở nhóm chứng, nồng độ Homocysteine giới nam cao hơn nữ ở nhóm chứng.
Kết luận: Nồng độ Homocysteine tăng cao ở nhóm bệnh nhân vảy nến, đây là yếu tố nguy cơ sẽ làm gia
tăng bệnh lý tim mạch.
Từ khóa: nồng độ Homocysteine, vảy nến mảng

ABSTRACT
PLASMA HOMOCYSTEINE AND FOLIC ACID CONCENTRATIONS OF PATIENTS
WITH PLAQUE PSORIASIS IN HOSPITAL OF DERMATO-VENEREOLOGY, HO CHI MINH CITY
Pham Thuy Nga, Nguyen Tat Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 275 – 283


Background: Psoriasis is a common skin disease, with the frequency from 0.1 to 11.8%. Plasma
homocysteine is an independent risk factor for coronary artery disease, cerebral artery and peripheral artery.
Psoriasis is often an increased concentration of homocysteine and decreased concentration of folic acid. We
conducted this research in order to assess homocysteine plasma and folic acid plasma in patients with plaque
psoriasis.
Method: We performed a case-control study in 80 patients with plaque psoriasis and 80 aged- and sexequally matched healthy controls. Excluding individuals with conditions or diseases associated with acquired
hyperhomocysteinaemia.
Results: Patients with psoriasis had plasma homocysteine concentrations high than controls (mean  SD:
14.7  9.3 mol/l vs 6.6  2 mol/l). Conversely, folic acid concentrations were lower in patients with psoriasis
compared with controls (10.8  4.8 ng/ml vs 13.4  5.2 ng/ml). Plasma homocysteine concentrations in patient
with psoriasis correlated directly with disease severity (PASI) and duration of disease, plasma folic acid
* Bệnh viện Da Liễu TP. HCM

** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP. HCM

Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Tất Thắng


Chuyên Đề Nội Khoa II

ĐT: 0903350104

Email:

275


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012


concentrations were inversely correlated with the PASI. Plasma homocysteine concentrations in controls
correlated directly with age, high concentrations of homocysteine in men than in women among controls.
Conclusion: Patients with psoriasis may have a tendency to hyperhomocysteinaemia, which may predispose
to higher cardiovascular risk.
Key words: plasma homocysteine concentrations, plaque psoriasis

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh vảy nến là một bệnh da rất thường
gặp xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới,
với tần suất dao động 0,1 – 11,8% dân số, biểu
hiện chủ yếu là tổn thương da(1,5,11,11). Gần đây
nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
nước ngoài chứng minh bệnh vảy nến thường
có tăng nồng độ
Homocysteine máu và giảm nồng độ acid
folic máu(3). Các nghiên cứu lâm sàng, dịch tễ
học ở nước ngoài đã chứng minh:
Homocysteine huyết tương là yếu tố nguy cơ
độc lập cho bệnh xơ vữa động mạch bao gồm
động mạch vành, động mạch não và động mạch
ngoại biên(4). Homocysteine làm tăng quá trình
xơ vữa và huyết khối thuyên tắc mạch bởi làm
tổn thương tế bào nội mạc  kích hoạt hình
thành cục máu đông, giảm sự đàn hồi của thành
mạch máu, giảm tốc độ dòng chảy trong lòng
mạch  gây ra nhiều bệnh lý tim mạch ở bệnh
nhân bị vảy nến, do vậy tầm soát Homocysteine
góp phần tích cực vào tiên lượng và hỗ trợ điều
trị toàn diện cho bệnh nhân vảy nến(7).

Vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
để khảo sát nồng độ Homocysteine và acid folic
huyết tương ở những bệnh nhân vảy nến mảng
tại Bệnh viện Da Liễu Thành Phố Hồ Chí Minh,
tìm ra mối liên quan giữa nồng độ
Homocysteine và acid folic huyết tương với độ
nặng của bệnh, thời gian mắc bệnh.

Mục tiêu nghiên cứu
1. So sánh nồng độ Homocysteine và acid
folic huyết tương ở bệnh nhân vảy nến mảng
với nhóm người bình thường.
2. Xác định mối liên quan giữa nồng độ
Homocysteine và acid folic huyết tương với độ
nặng và thời gian mắc bệnh của bệnh vảy nến.

276

3. Xác định mối liên quan giữa nồng độ
Homocysteine và acid folic huyết tương với
tuổi, giới, BMI của cả hai nhóm.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng

Đối tượng nghiên cứu
Nhóm bệnh: Tất cả bệnh nhân vảy nến đến
khám và điều trị tại bệnh viện Da liễu TP. Hồ
Chí Minh hội đủ tiêu chuẩn chọn bệnh.

Nhóm chứng: Những người bình thường
khỏe mạnh tình nguyện tương ứng với tuổi (± 5
tuổi) và giới tính của nhóm bệnh.

Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán vảy
nến mảng
- Tuổi ≥ 18 tuổi.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân có một trong các bệnh sau: bệnh
cấp tính gần đây, bệnh gan thận mạn tính, đái
tháo đường, suy giáp, bất kỳ bệnh hệ thống
khác.
- Bệnh nhân đang sử dụng những thuốc gây
tăng Homocysteine: phenytoin, theophyllin,
metformin, lợi tiểu thiazide, carbamazepine,
thuốc ngừa thai, azathioprin, thuốc điều trị vảy
nến (methotrexate, acid folic, cyclosporine,
acitretin).
- Bệnh nhân đang mang thai hoặc cho con
bú.
- Phụ nữ ở tuổi mãn kinh và tiền mãn kinh.

Phương pháp nghiên cứu
Công thức tính cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức:

Chuyên Đề Nội Khoa II



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

N



Z

1 

 / 2



 Z
d

1 







2

 


 = 0,05 (độ tin cậy 95%),  = 0,1 tương ứng Power =
90%.

: độ lệch chuẩn lượng H. trong huyết thanh BN vảy nến
với  = 13,6 (Theo NC của Helmy và cộng sự).
d: sai số mong muốn (d = 5).
N 

1 0 , 5  1 3 , 6
52



Nhóm chứng: nam: 41, nữ: 39.

2

2

2

 77,75  N  78

Thông tin khảo sát
Cho cả 2 nhóm bệnh – chứng: Giới tính (định
tính), chỉ số khối cơ thể (định lượng), độ tuổi
(định lượng), nồng độ acid folic (định lượng),
nồng độ Homocysteine (định lượng).
Cho nhóm bệnh: Thời gian mắc bệnh (định

lượng), độ nặng bệnh: PASI (định lượng).

Số lượng nam và nữ ở 2 nhóm là tương
đồng, về mặt nghiên cứu xã hội học, tỉ lệ nam/
nữ đã khảo sát là phù hợp và mang tính đại diện
cho giới tính được khảo sát.

Chỉ số BMI (kg/m2)
Chỉ số BMI của 2 nhóm được phân theo 4
mức:
Thiếu cân (<18,5): nhóm bệnh: 5, nhóm
chứng: 12.
Bình thường (18,5-22,9): nhóm bệnh: 40,
nhóm chứng: 36.
Thừa cân (23-24,9): nhóm bệnh: 13, nhóm
chứng: 15.
Béo phì I (25-29,9): nhóm bệnh: 20, nhóm
chứng: 13.
Béo phì II (>30): nhóm bệnh: 2, nhóm chứng:

Phân tích số liệu
Thu thập và xử lý theo chương trình SPSS
19.0. Sử dụng phương pháp phân tích thống
kê mô tả, so sánh 2 giá trị trung bình, phân
tích hồi qui/ tương quan, với p ≤ 0,05 có ý
nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Từ tháng 7/2010 đến tháng 6/2011 với 80
bệnh nhân vẩy nến và 80 người khỏe mạnh bình

thường chúng tôi thu được các kết quả sau đây:

Một số đặc điểm dân số nghiên cứu
Tuổi
Độ tuổi của cả 2 nhóm được khảo sát > 18
tuổi, chi tiết:
Tuổi
Nhóm bệnh
(n=80)
Nhóm chứng
(n=80)

Nghiên cứu Y học

Tối
thiểu

Tối đa

Trung bình
± Độ lệch chuẩn

19

72

42,7 ± 13,0

20


74

39,4 ± 12,8

p

0,1

Không có sự khác nhau có ý nghĩa về mặt
thống kê về độ tuổi khảo sát giữa 2 nhóm.

Giới
Số lượng nam/ nữ được khảo sát trong 2
nhóm:

4.
Tỉ lệ BMI của nhóm chứng và nhóm bệnh
tương đồng

Thời gian mắc bệnh
Tối thiểu Tối đa
5 tháng

Thời gian mắc
bệnh

40
năm

Trung bình

± Độ lệch chuẩn
13,6 ± 10,3

Độ nặng của bệnh (PASI)
Với nhóm bệnh được khảo sát, mức độ bệnh
được phân nhóm và thống kê:
Tối thiểu Tối đa
PASI

3

14,2

Trung bình ± Độ lệch
chuẩn
8,5 ± 2,7

Đa số bệnh nhân (79/80 BN = 98,75%) có
mức độ bệnh trung bình và nặng, chỉ có 1
bệnh nhân nhẹ.

Nồng độ Homocysteine và acid folic huyết
tương
Nồng độ Homocysteine
Homocysteine Tối
(µmol/l)
thiểu
Nhóm bệnh
5,81
(n=80)

Nhóm chứng
2,3
(n=80)

Tối
đa
65

Trung bình
± Độ lệch chuẩn
14,7 ± 9,3

9,73

6,6 ± 2,0

p

< 0,001

Nhóm bệnh: nam: 41, nữ: 39.

Chuyên Đề Nội Khoa II

277


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học


Nhận xét: Nồng độ Homocysteine trung
bình của nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng có ý
nghĩa thống kê.
Nồng độ acid folic
Acid folic
(ng/ml)
Nhóm bệnh
(n=80)
Nhóm chứng
(n=80)

Tối
thiểu

Tối đa

Trung bình
± Độ lệch chuẩn

3,9

24

10,8 ± 4,8

p

< 0,05
5,9


24

13,4 ± 5,2

Nhận xét: Nồng độ acid folic trung bình của
nhóm chứng cao hơn nhóm bệnh có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).

Mối liên quan giữa nồng độ Homocystein
và acid folic huyết tương với độ nặng và
thời gian mắc bệnh vảy nến
Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine và
acid folic huyết tương với độ nặng của bệnh
vảy nến:
Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
và acid folic huyết tương với độ nặng của bệnh
vảy nến.
Acid folic
3,94 – 24

Homocysteine
Độ nặng
<5
<3
5 – 15
<8
> 15
> 8 (tăng rất nhanh)


Acid folic không ảnh hưởng đến độ nặng
của bệnh trong khi lượng Homocysteine sẽ ảnh
hưởng (đặc biệt trong khoảng > 15 thì độ nặng
tăng vọt).

Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
huyết tương với độ nặng của bệnh vảy nến
Độ nặng của bệnh
<3
3-10
> 10

n
1
51
28

Homocysteine
6,1 ± 0
11,0 ± 3,3
21,9 ± 12,3

p
< 0,001

Có sự tương quan khá cao và thuận giữa
nồng độ Homocysteine và độ nặng của bệnh
với R= 0,65.

Nồng độ Homocysteine và acid folic theo

thời gian mắc bệnh
Nồng độ trung bình
Số năm mắc
bệnh (năm) Acid folic (ng/ml) Homocysteine (µmol/l)
<5
11,8 ± 1,2
9,8 ± 0,8
5 – 10
11,6 ± 1,5
13,1 ± 0,6
>10
10,3 ± 0,7
16,7 ± 1,6

Nhận xét: Nồng độ Homocysteine trung
bình tăng lên theo số năm mắc bệnh được khảo
sát, trong khi lượng acid folic giảm theo thời
gian mắc bệnh, nhưng giảm theo tỉ lệ không
đáng kể.
Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
với thời gian mắc bệnh
Thời gian mắc bệnh (năm) n Homocysteine
P
<5
15
9,8 ± 3,2
5-10
21
12,7 ± 2,8
0,0099

> 10
44
17,4 ± 11,5

Có sự tương quan khá và thuận giữa nồng
độ Homocysteine và thời gian mắc bệnh vảy
nến R= 0,46.
Có sự tương quan yếu và nghịch giữa
nồng độ acid folic và thời gian mắc bệnh vảy
nến R= -0,21.

Mối liên hệ giữa độ nặng và thời gian
bệnh lên nồng độ Homocysteine
PASI
<3
3 – 10
> 10

278

Homocysteine
<5
5 – 15
> 30 (tăng rất nhanh)

Nhận xét: Nếu chỉ số PASI < 10 (bệnh nhẹ và
trung bình) thì số năm mắc bệnh không ảnh
hưởng đến nồng độ Homocysteine, nhưng với
những trường hợp mắc bệnh nặng thì nồng độ
Homocysteine tăng đột biến với những trường

hợp bệnh nhân mắc bệnh hơn 20 năm.

Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
và acid folic huyết tương với tuổi, giới và
BMI

Có sự tương quan yếu và nghịch giữa nồng
độ acid folic và độ nặng của bệnh với R= 0,028.

Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine và
acid folic huyết tương với thời gian mắc bệnh
của bệnh vảy nến

Số năm mắc bệnh
<5
< 25
> 25

Thông số
Tuổi
BMI

Nhóm bệnh
Nhóm chứng
Nhóm bệnh
Nhóm chứng

Hệ số tương quan
Homocysteine Acid folic
R= 0,2

R = 0,054
R= 0,4
R= 0,025
R= 0,04
R= 0,08
R= -0,09
R= 0,08

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Nhận xét: Chỉ tìm được mối tương quan
giữa nồng độ Homocysteine với tuổi ở nhóm
chứng.
Nồng độ Homocysteine giữa 2 nhóm giới
tính nam và nữ có khác nhau có ý nghĩa thống
kê ở cả nhóm bệnh (19,5  1,7 so với 9,8  0,5) và
nhóm chứng (7,5  0,2 và 5,6  0,3). Riêng nồng
độ acid folic huyết tương ở 2 nhóm nam và nữ
không có sự khác biệt.

BÀN LUẬN
Nồng độ Homocysteine
Nồng độ Homocysteine trung bình của
nhóm bệnh cao hơn ở nhóm chứng có ý nghĩa
thống kê.
Theo tác giả Nancy Wash(13): bệnh nhân vảy
nến thường có nồng độ Homocysteine tăng cao.
Nghiên cứu nhóm bệnh- chứng của

Malerba(8) cho kết quả tương tự như nghiên cứu
của chúng tôi. Nồng độ Homocysteine huyết
tương ở nhóm bệnh cao hơn hẳn so với nhóm
chứng, sự khác biệt này có ý nghĩa với p < 0,01,
và nghiên cứu này cũng cho rằng bệnh nhân
vảy nến có xu hướng tăng Homocysteine máu,
dự báo cho một nguy cơ tim mạch cao, do vậy
điều chỉnh tiết chế hạ Homocysteine là điều trị
mang tính toàn diện ở bệnh nhân vảy nến trung
bình đến nặng.
Nghiên cứu của Cakmak(3) không thấy có sự
khác biệt về nồng độ Homocysteine giữa 2
nhóm, nhưng có sự tương quan giữa nồng độ
Homocysteine với độ nặng của bệnh (PASI) ở
nhóm bệnh nhân vảy nến.
Nồng độ Homocysteine máu trong nghiên
cứu của chúng tôi lấy điểm cắt giới hạn (cut-off)
là 15 mol/L, so với một nghiên cứu ở Huế(10) (về
nồng độ Homocysteine máu - yếu tố nguy cơ
mới của tai biến mạch máu não) là 13.53 mol/L,
còn của Nguyễn Hữu Khoa Nguyên và Đặng
Vạn Phước điểm cắt là 16 mol/L. Có thể do
chuẩn của mỗi phòng xét nghiệm lấy trị số bình
thường và tăng có khác nhau, nhưng nhìn
chung không đáng kể.

Chuyên Đề Nội Khoa II

Nghiên cứu Y học


Một nghiên cứu tại Ai Len năm 2006, đăng
trên tạp chí Da Liễu Anh Quốc (Bristish Journal
of Dermatology, 2006) tiến hành trên 20 bệnh
nhân vảy nến so sánh với 20 người khỏe mạnh
của nhóm chứng, tương đồng về giới và tuổi ghi
nhận kết quả sau:
+ Bệnh nhân vảy nến có nồng độ
Homocysteine cao gấp 5 lần so với nhóm chứng.
+ 27% bệnh nhân vảy nến có nồng độ
Homocysteine > 12 mol/L trong khi ở nhóm
chứng chỉ có 5% bệnh nhân có nồng độ
Homocysteine > 12 mol/L (tác giả này lấy điểm
cắt thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi).
Một nghiên cứu ở Hoa Kỳ (2004) chứng
minh tăng Homocysteine máu là yếu tố nguy cơ
tim mạch độc lập. Nghiên cứu tiền cứu và thực
hiện trên số lượng bệnh nhân khá lớn, gồm 2127
nam và 2639 nữ được theo dõi trong 4 năm cho
thấy nồng độ Homocysteine tăng mỗi 5 mol/L
thì: tỷ lệ tử vong chung tăng 49%, tử vong do
tim mạch tăng 50%, tử vong do ung thư tăng
26%, tử vong không do ung thư, không do tim
mạch tăng 104%
Bệnh nhân vảy nến đặc biệt khi có tăng
Homocysteine thì YTNC tim mạch cao, về cơ
chế chưa rõ nhưng có thể do Homocysteine gây
tổn thương lớp nội mạc mạch máu(2): tăng oxy
hóa LDL-C, tăng kết tập tiểu cầu, tăng sinh tế
bào cơ trơn và tham gia vào quá trình viêm.
Những bệnh nhân vảy nến khi có kèm theo các

YTNC tim mạch như: THA đái tháo đường, hút
thuốc lá, RLCH lipid thì tỉ lệ tử vong sẽ tăng rất
cao. Do vậy việc tầm soát các YTNC trên bệnh
nhân vảy nến là cần thiết để điều trị kịp thời.

Nồng độ acid folic
Nồng độ acid folic trung bình của nhóm
chứng trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
nhóm bệnh có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Tương tự như tác giả Malerba(8) cho thấy những
bệnh nhân vảy nến có nồng độ acid folic thấp
hơn hẳn so với nhóm chứng, lần lượt là: 3,6 ± 1,7
(nhóm bệnh) và 6,5 ± 1,7 (nhóm chứng). Sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

279


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Theo Cakmak(3) ghi nhận không có sự khác
biệt nồng độ acid folic giữa hai nhóm bệnh và
chứng, nhưng trong nhóm bệnh nồng độ acid
folic tương quan nghịch với nồng độ
Homocysteine, đây là điểm mà các Bác sĩ
khuyến cáo nên sử dụng bổ sung acid folic cho
bệnh nhân có nồng độ Homocysteine tăng cao.
Điểm khác biệt của Cakmak so với nghiên

cứu của chúng tôi và Malerba có thể là cả 3
nghiên cứu với cỡ mẫu chưa đủ lớn và tỉ lệ bị
bệnh vảy nến nặng nhiều khả năng cũng khác
nhau.
Nhiều nghiên cứu của nước ngoài chứng
minh vai trò quan trọng của acid folic có hoặc
không có liên quan đến nồng độ Homocysteine.
+ Acid folic cùng Vitamin B6 và Vitamin
B12 làm giảm nồng độ Homocysteine huyết
tương dẫn đến cải thiện chức năng lớp nội
mạc→ giảm yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành
và mạch máu não.
+ Nồng độ acid folic giảm dẫn đến nguy cơ
ung thư tăng cao (đặc biệt là ung thư đại trực
tràng) vì acid folic tham gia vào qui trình tổng
hợp, sửa chữa và duy trì chức năng DNA tế bào,
bản đồ gen người, do vậy khi thiếu nó gây tổn
thương DNA dẫn đến ung thư.
+ Acid folic làm giảm tác dụng độc hại của
Methotrexate (gây mất cảm giác thèm ăn dẫn
đến bỏ ăn, do gây viêm đường tiêu hóa). Vì vậy
khi sử dụng Methotrexate, dù liều thấp cũng
nên bổ sung acid folic(9).

Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
và acid folic với độ nặng bệnh
Theo kết quả nghiên cứu độ nặng của bệnh
tăng theo nồng độ Homocysteine tăng, đặc biệt
khi nồng độ Homocysteine trên 20 mol/L thì
PASI > 10. Khi nồng độ Homocysteine máu tăng

cao nguy cơ bệnh tim mạch rất cao, do vậy nên
tầm soát yếu tố nguy cơ tim mạch: THA, ĐTĐII,
béo phì, RLCH lipid, hút thuốc lá trên các đối
tượng này để có chiến lược điều trị toàn diện.
Có thể sử dụng statin với tác dụng kép chống
viêm và giảm xơ vữa. Đồng thời sử dụng acid

280

folic, B12, B6 để hạ Homocysteine, tuy nhiên hạ
Homocysteine không đồng nghĩa với giảm các
biến chứng tim mạch(6).
Những bệnh nhân vảy nến nặng (PASI > 10)
tần suất các bệnh sau đây cũng tăng theo: THA,
béo phì, bệnh do tăng đông như huyết khối tĩnh
mạch sâu, thuyên tắc phổi, đái tháo đường, có
thể liên quan đến việc tăng Homocysteine. Một
điểm lưu ý quan trọng là khi điều trị bệnh nhân
vảy nến nặng sử dụng các thuốc tác dụng toàn
thân như: corticoid, ức chế miễn dịch,
Methotrexate, Cyclosporin... phải tầm soát các
bệnh lý vừa kể trên, nếu không sẽ làm cho tình
trạng các bệnh đó nặng thêm lên(4).
Nghiên cứu của Malerba cũng cho kết quả
tương tự: nồng độ Homocysteine ở bệnh nhân
vảy nến có liên quan đến độ nặng của bệnh
(PASI)(8).
Sự tương quan giữa độ nặng của bệnh và
nồng độ Homocysteine trong nghiên cứu của
chúng tôi là khá cao với hệ số tương quan R =

0,65.
Tác giả Camar cũng ghi nhận kết quả tương
tự: nồng độ Homocysteine tương quan thuận
với diện tích và độ nặng của bệnh, do vậy nồng
độ Homocysteine ở bệnh nhân vảy nến cho thấy
mức độ nặng của bệnh(3).
Tóm lại, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng như của các tác giả nước ngoài đều ghi
nhận: ở bệnh nhân vảy nến nồng độ
Homocysteine tương quan thuận với độ nặng
của bệnh, bệnh càng nặng  nồng độ càng tăng.
Mối tương quan giữa nồng độ acid folic
với độ nặng của bệnh trong nghiên cứu này là
yếu, với hệ số tương quan R = - 0,028. Khác
với kết quả nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài như Cakmak ghi nhận nồng độ
Homocysteine tương quan nghịch với acid
folic trong nghiên cứu của ông(3).
Nghiên cứu của Malerba(8) chỉ ghi nhận
nồng độ acid folic ở nhóm bệnh thấp hơn hẳn so
với nhóm chứng, chứ không ghi nhận kết quả
mối tương quan giữa độ nặng của bệnh và acid
folic, chỉ có những nghiên cứu gần đây mới đề

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học


cập đến acid folic còn những nghiên cứu trước
kia đề cập nhiều đến Homocysteine.

Mối liên hệ giữa độ nặng và thời gian mắc
bệnh với nồng độ Homocysteine

Mối liên quan giữa Homocysteine và acid
folic với thời gian mắc bệnh

Trong nghiên cứu chúng tôi nếu PASI của
bệnh nhân vảy nến < 10 thì số năm mắc bệnh
không ảnh hưởng đến nồng độ Homocysteine,
hay nói cách khác nồng độ Homocysteine thay
đổi không đáng kể dù bệnh nhân mắc bệnh lâu
năm hay mới bị.

Theo kết quả nồng độ Homocysteine trung
bình tăng theo số năm mắc bệnh, có mối tương
quan thuận giữa nồng độ Homocysteine và thời
gian mắc bệnh, hệ số tương quan R = 0,46. Thời
gian mắc bệnh tương quan thuận với nồng dộ
Homocysteine, với bệnh nhân của chúng tôi thời
gian mắc bệnh trung bình > 13 năm (người mắc
bệnh lâu nhất > 40 năm). Như vậy, hậu quả của
việc tăng Homocysteine kéo dài là đáng kể.
Tăng Homocysteine kéo dài gây ra:
+ Bệnh động mạch vành do xơ vữa, đột quỵ
(tai biến mạch máu não) liên quan đến đột quỵ
+ Bệnh mạch máu ngoại biên, tăng xơ vữa ở

bệnh nhân suy thận.
+ Huyết khối tĩnh mạch (do tình trạng tăng
đông ở bệnh nhân tăng Homocysteine) có thể
đưa đến thuyên tắc phổi.
+ Mất trí nhớ (Dementia)(1)
+ Phụ nữ mang thai khi sanh con thiếu hụt
ống thần kinh (Neural tube defect).
Những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dài
và nặng, ngoài việc ảnh hưởng lớn đến chất
lượng cuộc sống của chính người bệnh, thì vấn
đề tài chính cũng là một gánh nặng cho bản
thân họ và gia đình. Ở Việt Nam, chưa thấy có
thống kê về chi phí hàng năm cho nhóm bệnh
nhân này, nhưng ở Hoa Kỳ (theo Hiệp hội vảy
nến Quốc gia Hoa Kỳ = American National
Psoriasis Foundation) chi phí hàng năm cho
chăm sóc và chữa trị bệnh nhân vảy nến lên tới
11,25 tỷ đô la.
Mối tương quan nghịch giữa nồng độ acid
folic và thời gian mắc bệnh trong nghiên cứu
này là yếu, hệ số tương quan R = -0,21. Những
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, chúng tôi
không thấy đề cập về mối tương quan này.

Chuyên Đề Nội Khoa II

Tuy nhiên với những trường hợp mắc
bệnh nặng (PASI > 10) thì nồng độ
Homocysteine tăng đột biến ở những bệnh
nhân có thời gian mắc bệnh trên 20 năm. Vảy

nến nặng được xem là yếu tố nguy cơ độc lập
của NMCT, nhất là ở những bệnh nhân trẻ(4).
Cũng tương tự như các nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài, nồng độ Homocysteine tăng
tương quan thuận với độ nặng của bệnh, hình
như không liên quan nhiều đến thời gian mắc
bệnh, nhất là thể nhẹ và trung bình.

Mối liên quan giữa nồng độ Homocysteine
và acid folic với tuổi, giới và BMI của 2
nhóm
Tuổi
Đối với nhóm bệnh
Ở nhóm bệnh không ghi nhận các mối
tương quan giữa tuổi và nồng độ Homocysteine
(hệ số tương quan yếu với R = 0,2).
Trong các nghiên cứu của nước ngoài về
nồng độ Homocysteine ở bệnh nhân vảy nến,
hầu hết các tác giả không thống kê, mối tương
quan giữa nồng độ Homocysteine và tuổi của
bệnh nhân, vì vậy chúng tôi không có dữ liệu để
so sánh.
Nhưng về nồng độ Homocysteine với các
bệnh lý khác các tác giả có thống kê và ghi nhận
mức Homocysteine tăng dần theo tuổi như:
+ Tác giả Nguyễn Đức Hoàng(10) – Bệnh viện
trung ương Huế (2004), nghiên cứu trên bệnh
nhân TBMMN ghi nhận nồng độ Homocysteine
máu ở bệnh nhân TBMMN cũng tăng dần theo
tuổi, điều này lý giải một phần tai biến mạch

máu não tăng dần theo tuổi.

281


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Ở nhóm bệnh cũng không có sự tương quan
giữa độ tuổi và nồng độ acid folic (với hệ số
tương quan R = 0,054).

Đối với nhóm chứng
Nồng độ Homocysteine có tương quan khá
với độ tuổi trong nhóm chứng, với hệ số tương
quan R = 0,4. Điều này tương tự kết quả nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài là ở người khỏe
mạnh Homocysteine tăng dần theo tuổi. Theo
dữ liệu từ nghiên cứu NHANES III cũng chứng
minh rằng Homocysteine tăng dần theo tuổi và
cho thấy có rất ít sự khác biệt trong nhóm các
chủng tộc.
Nồng độ acid folic trong nhóm chứng cũng
không có sự tương quan với tuổi.

Liên quan đến giới tính
Với nhóm bệnh
Acid folic không có sự khác biệt nhau có ý
nghĩa về mặt thống kê về nồng độ acid folic

trong 2 nhóm giới tính (với p = 0,98).
Homocysteine có sự khác biệt có ý nghĩa về
mặt thống kê về nồng độ Homocysteine ở 2
nhóm giới tính (nam cao hơn nhiều so với nữ
lần lượt là 19,45 mol/L so với 9,77 mol/L), với
p = 0,0001.
Với nhóm chứng
Acid folic: không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về nồng độ Homocysteine giữa 2
nhóm giới tính ở nhóm chứng, với p = 0,18.
Homocysteine: có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về nồng độ Homocysteine giữa 2
nhóm giới tính (nam cao hơn so với nữ lần lượt
là 7,5 mol/L so với 5,65 mol/L), với p = 0,001.
Điều này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu
của nước ngoài là Homocysteine có liên quan
đến giới tính (nam luôn cao hơn nữ).

Liên quan đến chỉ số BMI
Trong nghiên cứu của chúng tôi ở cả nhóm
bệnh và nhóm chứng không có sự tương quan
giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) với nồng độ
Homocysteine cũng như acid folic huyết tương.
Theo nghiên cứu của Manal trên 67 bệnh nhân

282

vảy nến ghi nhận có tương quan thuận giữa
nồng độ Homocysteine với BMI. Về BMI liên
quan tới nồng độ Homocysteine còn nhiều ý

kiến khác nhau.

KẾT LUẬN
Nồng độ Homocysteine ở nhóm bệnh cao
hơn nhóm chứng có ý nghĩa, nồng độ acid folic
ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng.
Độ nặng của bệnh tăng theo nồng độ
Homocysteine tăng, đặc biệt khi PASI > 10
(tương đương tổn thương da > 10% diện tích cơ
thể) thì nồng độ Homocysteine > 20 (µmol/L).
Mối tương quan giữa acid folic và độ nặng
của bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi là yếu
có hệ số tương quan R = -0,028.
Nồng độ Homocysteine tương quan thuận
với thời gian mắc bệnh, thời gian mắc bệnh càng
dài thì nồng độ Homocysteine càng tăng.
Còn tương quan nghịch giữa acid folic và
thời gian mắc bệnh trong nghiên cứu này là yếu.

Về tuổi
Nhóm bệnh: không có sự tương quan về
tuổi với Homocysteine cũng như acid folic.
Nhóm chứng: có sự tương quan thuận của
Homocysteine với tuổi (tuổi tăng Homocysteine
tăng), nhưng acid folic thì không.

Về giới
Nhóm bệnh: Homocysteine giới nam cao
hơn nữ, còn acid folic không khác biệt.
Nhóm chứng: Homocysteine giới nam cao

hơn nữ, còn acid folic không khác biệt.
 Về chỉ số khối cơ thể (BMI): không có sự
tương quan giữa BMI với nồng độ
Homocysteine và acid folic ở cả 2 nhóm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Almeida OP, Mc Caul K, Hankey GT, Normal P, Jamrozik K,
Flicker L (2008), “Homocysteine and Depression in Later Life”,
Arch Gen Psychiatry; 65 (11); 1286-94
Altobeli Elma (2009), “Risk faction of hypertension Diabetes and
obesity is Italian psoriasis patients a survey on sociodemographic characteristics, smoking habit and alcohol
consumption”, Eur J Dermatol; 19(3): 252-256.

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
3.

4.
5.

6.

7.


8.

Cakmak SK, Gušl U, Kilic C, Soylus et al (2009), “Homocysteine,
Vitamin B12 and Folic Acid Levels in Psoriasis Patients”, J. Eur
Acad Dermatol Venereol; 23 (3): 300-3.
Gelfand JM. (2006), “Risk of myocardial infarction in patients
with psoriasis”. JAMA; 296 (14): 1735 – 1741.
Hoàng Văn Minh, Võ Quang Đỉnh (2010), Vảy nến,
/>n.htm
Kimball AB (2008), “Patients with psoriasis at increased risk for
developing other serious Medical conditions”. American
Academy of Dermatology.
Kimball AB. (2008), “Psoriasis patients urged to discuss risk
factors with their doctors”. National Psoriasis Foundation (NPF)
USA.
Malerba M, Gisondi P, Radaeli A (2006), “Plasma homocysteine
and folate levels in patients with chronic plaque psoriasis”. Br J
Dermatol; 155(6): 1165-9.

Chuyên Đề Nội Khoa II

9.

10.

11.

12.
13.
14.


Nghiên cứu Y học

Morgan SL, Baggott JE, Lee JY, Alarcon GS (1998), Folic acid
supplementation preventions deficient blood folate levels and
hyperhomocysteinemia during longterm, low dose methomecate
therapy for rheumoid arthritis: implication for cardiovascular disease
prevention.
Nguyễn Đức Hồng (2004), Nghiên cứu nồng độ Homocysteine
máu và yếu tố nguy cơ mới của tai biến mạch máu não tại tỉnh Thừa
Thiên Huế, www.thankinhhoc.com\Homocysteine
Nguyễn Tất Thắng (2003), Nghiên cứu điều trị bệnh vảy nến chưa
biến chứng bằng kẽm và DDS, luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y
dược TP Hồ Chí Minh, trang 5.
Nguyễn Thanh Minh (2005), “Bệnh Vảy nến”, Bài giảng Bệnh Da
Liễu, Nhà Xuất Bản Y Học TP.HCM, tr 310-318.
Phạm Văn Hiển (2010), “Bệnh vảy nến”, Da liễu học, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, trang 57-62.
Wash N (2006), “High homocysteine levels common in
psoriasis”. Dermatology-International News.

283



×