Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa hàm trên và hình dạng cung răng trên một nhóm đối tượng người Việt trưởng thành tuổi 18 25 ở Hà Nội năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.37 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017

TƢƠNG QUAN GIỮA HÌNH DẠNG RĂNG CỬA GIỮA HÀM TRÊN
VÀ HÌNH DẠNG CUNG RĂNG TRÊN MỘT NHÓM ĐỐI TƢỢNG
NGƢỜI VIỆT TRƢỞNG THÀNH TUỔI 18 - 25
Ở HÀ NỘI NĂM 2017
Tạ Thị Hồng Nhung*; Hoàng Kim Loan*
Đỗ Hải Vân*; Hoàng Tuấn Linh*; Võ Trương Như Ngọc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhận xét sự phân bố hình dạng răng cửa giữa hàm trên và cung răng, đồng thời
đánh giá mối tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa hàm trên và hình dạng cung răng ở
người Việt trưởng thành. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 990 đối
tượng là sinh viên tuổi từ 18 - 25 ở Hà Nội, trong đó 490 nam và 500 nữ. Kết quả: phân bố hình
dạng răng, cung răng giữa 2 giới không có sự khác biệt. Hình dạng hay gặp nhất là hình oval
(62,8%) ở hàm trên; 63,7% ở hàm dưới; 47% ở răng cửa giữa hàm trên. Ít gặp nhất ở cung
răng hàm trên và răng cửa giữa hàm trên là hình tam giác: lần lượt 15,1% ở hàm trên và 18,1%
ở răng cửa giữa hàm trên, hình dạng ít gặp nhất ở cung răng hàm dưới là hình vuông (13,4%).
Kiểm định khi bình phương cho thấy mối tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa hàm trên
với hình dạng cung răng hàm trên, nhưng không tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa
hàm trên với hình dạng cung răng hàm dưới. Kết luận: dựa vào hình dạng cung răng hàm dưới
để xác định và lựa chọn hình dạng phục hình răng cửa giữa hàm trên không thích hợp, thay
vào đó nên dựa vào hình dạng cung răng hàm trên để chẩn đoán.
* Từ khóa: Hình dạng răng cửa; Hình thái cung răng; Mối tương quan; Người Việt trưởng thành.

Correlation between Maxillary Central Incisor Morphology and Dental
Arch Form among Vietnamese Adults Aged 18 - 25 Years in 2017
Summary
Objectives: To evaluate the distribution and the correlation between the morphology of dental
arch and maxillary central incisor crown in Vietnamese adults. Subjects and methods: The research
was conducted in Hanoi with over 990 students aged 18 - 25 years with no facial-jaw deformation
and no previous orthodontic treatment, included 490 males and 500 females. Results: No difference


in the distribution of tooth shape and dental arch form between male and female. The most common
shape is oval: 62.8% in maxillary; 63.7% in mandibular; 47% in tooth form. The least common shape
is tapper in maxillary and tooth form: 15.1% in maxillary and 18.1% in upper central incisor and
square in mandibular 13.4%. The Chi-square test showed association between toothshape and
maxillary arch form but no significant relationship between tooth shape and the mandibular arch form.
* Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội
Người phản hồi (Corresponding): Tạ Thị Hồng Nhung ()
Ngày nhận bài: 29/07/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 01/09/2017
Ngày bài báo được đăng: 07/09/2017

495


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
Conclusion: Mandibular arch morphology which used as a diagnostic method to determine the
shape of the maxillary central incisor is not appropriate. Instead, it should be based on the shape
of the maxillary arch to diagnose.
* Keywords: Tooth shape; Dental arch form; Correlation; Vietnamese adults.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội càng phát triển, nhu cầu thẩm
mỹ càng tăng lên, đặc biệt thẩm mỹ
khuôn mặt và nụ cười. Vẻ đẹp khuôn mặt
dựa trên sự cân bằng và hài hòa giữa các
đặc điểm trên khuôn mặt, bị ảnh hưởng
bởi một số yếu tố. Một trong những yếu tố
nên được xem xét khi đánh giá khuôn
mặt ưa nhìn là nụ cười tự nhiên và hài
hòa. Cũng giống như khuôn mặt, hình
thái học của răng và cung răng đã được

nghiên cứu với mục tiêu chuẩn hóa hình
dạng những yếu tố này, để cải thiện việc
chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị.
Vào đầu thế kỷ 20, hình dạng của răng
được phân loại dựa trên hình dạng đảo
ngược của khuôn mặt răng phân nhóm dựa
trên dạng hình học khác nhau: hình oval,
hình vuông, hình tam giác. Sự phân loại
này góp phần tạo răng giả hoàn chỉnh.
Trong phục hình nhiều răng, việc chọn
lựa hình dạng cho phục hình răng cửa
giữa hàm trên bắt đầu bằng lựa chọn kích
cỡ và chiều rộng của 6 răng thuộc nhóm
răng trước. Điều đó liên quan mật thiết
đến kích cỡ và hình dạng của cung hàm.
Sắp xếp các răng vùng cửa góp phần tạo
nên hình dạng của cung răng, theo đó,
cung răng phân loại thành các dạng hình
học như: hình oval, hình vuông, hình tam
giác. Do vậy, việc nghiên cứu với mục
tiêu tìm ra mối tương quan giữa hình
dạng răng với hình dạng cung răng cần
thiết, tạo điều kiện tạo lập một bộ răng giả
hoàn chỉnh.
496

Trước đây đã có nhiều tác giả trong
nước và nước ngoài nghiên cứu về vấn
đề này. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu
nào đưa đến kết luận rõ ràng cho mối tương

quan giữa hai giá trị này. Chính vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên đối
tượng người Việt trưởng thành ở Hà Nội
nhằm:
- Nhận xét phân bố hình dạng răng và
cung răng.
- Đánh giá mối tương quan giữa hình
dạng răng cửa giữa hàm trên và hình dạng
cung răng.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Sinh viên tuổi từ 18 - 25, học tại các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội, lấy từ
Đề tài Nhà nước “Nghiên cứu nhân trắc
đầu mặt của người Việt Nam ứng dụng
trong y học”.
* Tiêu chuẩn lựa chọn: các em có bố
mẹ là người Việt Nam, dân tộc Kinh, tuổi
từ 18 - 25, không mất răng hay răng
thừa trên cung hàm; có bộ răng đầy đủ
(28 - 32 răng). Răng cửa giữa hàm trên
thẳng trục, không bị xoay và tự nguyện
tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ: các em đã từng
can thiệp chỉnh nha, phục hình hoặc phẫu
thuật hàm mặt trước đó; có dị tật bẩm
sinh vùng hàm mặt hoặc có cung hàm với
răng quá chen chúc lệch lạc.



TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
* Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu
tính theo công thức ước tính tỷ lệ phần
trăm (%) trong quần thể = Z21-α/2
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu cần có;
Z21-α/2: với α = 0,05 (độ tin cậy 95%)
1-α/2) = 1,962; : mức sai lệch tương
đối. Chọn

= 0,055. p: tỷ lệ xuất hiện cá thể

có tương quan răng-cung răng. Dựa vào
những nghiên cứu trước đó, chọn p = 0,45.
Thay vào công thức tính ra n = 937. Trên
thực tế chúng tôi nghiên cứu 990 đối tượng.
* Quy trình nghiên cứu:
Tiến hành khám sàng lọc và lập danh
sách các đối tượng đủ tiêu chuẩn.
Đối tượng nghiên cứu được lấy dấu cả
2 hàm bằng alginate. Đổ mẫu hàm bằng
thạch cao đá theo đúng tiêu chuẩn nghiên
cứu. Việc đo đạc và phân tích thực hiện
trên mẫu hàm. Sử dụng thước cặp điện
tử Mitutoyo với độ chính xác 0,02 mm,
đo chiều rộng thân răng qua 3 điểm: cổ răng
(CW), điểm tiếp xúc (CPW) và rìa cắn (IW)
để xác định hình dạng thân răng thông

qua so sánh 3 kích thước: hình oval CPW
> IW ≥ CW, hình vuông CPW = IW; hình
tam giác, IW > CPW > CW. Sử dụng thước
OrthoForm của 3M unitek để xác định
hình dạng cung răng bằng cách đặt thước
lên mẫu sao cho thước nằm trên mặt
phẳng cắn của răng. Nếu hình dạng cung
răng trùng hoặc song song với đường
cong vẽ trên thước nào thì cung răng có
hình dạng của thước đó. Để giảm sai số,

mỗi mẫu hàm đều được đo 3 lần, do một
người đo và lấy giá trị trung bình hoặc giá
trị lặp lại nhiều nhất. Xử lý số liệu theo
phương pháp thống kê y học bằng phần
mềm SPSS 16.0.
* Đạo đức nghiên cứu: tất cả đối tượng
nghiên cứu đều nằm trong đối tượng nghiên
cứu của Đề tài Nhà nước “Nghiên cứu
đặc điểm nhân trắc người Việt Nam để ứng
dụng trong y học”. Nghiên cứu đã được
thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên
cứu y sinh học, Trường Đại học Y Hà Nội
về các khía cạnh đạo đức nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Hình dạng răng và cung răng.
Trong tổng số 990 đối tượng nghiên
cứu, có 490 nam (49,5%) và 500 nữ (50,5%).
Hình dạng răng cửa giữa hàm trên hay
gặp nhất là hình oval (47%), ít gặp nhất là

hình tam giác (18,1%), hình vuông: 34,9%.
Kiểm định khi bình phương cho thấy chênh
lệch rất có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Ở hàm trên: hình dạng cung răng hay
gặp nhất là hình oval (62,8%), ít gặp nhất
là hình tam giác (15,1%), cung răng hình
vuông 22,1%. Kiểm định bằng phương
pháp khi bình phương cho thấy chênh
lệch rất có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Ở hàm dưới: hình dạng cung răng
hay gặp nhất là hình oval (63,7%), sau đó
là hình tam giác (22,8%) và ít nhất hình
vuông (13,4%). Kiểm định bằng phương
pháp khi bình phương cho thấy cho
thấy chênh lệch rất có ý nghĩa thống kê
(p < 0,001).
497


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
Bảng 1: Phân bố hình dạng cung răng theo giới.
Oval

Vuông

Tổng

Tam giác

Dạng cung răng

Hàm dưới

Hàm trên

n

%

n

%

n

%

n

%

Nam

310

63,3%

70

14,3%


110

22,4%

490

100%

Nữ

321

64,2%

63

12,6%

116

23,2%

500

100%

Nam

300


61,2%

110

22,4%

80

16,3%

490

100%

Nữ

322

64,4%

109

21,8%

69

13,8%

500


100%

p

0,734

0,474

Hình dạng cung răng hàm trên hay gặp nhất là hình oval, gặp 61,2% ở nam; 64,4%
ở nữ. Hình dạng ít gặp nhất là hình tam giác, 16,3% ở nam, 13,8% ở nữ. Kiểm định
bằng phương pháp khi bình phương cho thấy sự phân bố hinh dạng cung răng hàm
trên ở nam và nữ khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p = 0,474 > 0,05).
Kết quả tương tự với cung hàm dưới, nhưng tỷ lệ ở nam và nữ lần lượt là 63,3%
và 64,2%. Tuy nhiên, hình dạng cung răng hàm dưới ít gặp nhất là hình vuông,
14,3% ở nam, 12,6% ở nữ. Kiểm định bằng phương pháp khi bình phương cho thấy
phân bố hinh dạng cung răng hàm dưới ở nam và nữ khác nhau không có ý nghĩa
thống kê (p = 0,734 > 0,05).
Bảng 2: Phân bố hình dạng răng cửa giữa hàm trên theo giới.
Dạng
răng cửa

Hình oval

Hình vuông

Tổng

Hình tam giác

p

n

%

n

%

n

%

n

%

Nam

234

47,8%

162

33,1%

94

19,2%


490

100%

Nữ

231

46,2%

184

36,8%

85

17%

500

100%

Hình dạng răng cửa giữa hàm trên hay
gặp nhất là hình oval, 47,8% ở nam, 46,2%
ở nữ. Hình dạng răng cửa ít gặp nhất là
hình tam giác, ở nam 19,2%, ở nữ 17%.
Sự khác biệt giữa 2 giới không có ý nghĩa
thống kê (p = 0,413 > 0,05).
2. Tƣơng quan răng cửa giữa với
cung răng hàm trên.

Các đối tượng cùng có cung răng hàm
trên oval và răng cửa giữa oval hay gặp
498

0,413

nhất (31%). Ít gặp nhất là cung răng hàm
trên tam giác và răng cửa giữa tam giác
(3,8%). Các đối tượng có cùng cung răng
hàm trên vuông và răng cửa giữa vuông
chiếm 8,9%. Như vậy, tỷ lệ đối tượng có
hình dạng răng cửa giữa và hình dạng
hàm trên giống nhau (43,7%). Xét 622 đối
tượng có cung răng hàm trên hình oval,
tỷ lệ răng cửa giữa hình oval cao nhất
(49,4%). Xét trong 219 đối tượng có cung


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
răng hàm trên hình vuông, tỷ lệ răng cửa
giữa hình vuông cũng cao nhất, (40,6%).
Kiểm định khi bình phương cho p = 0,005
< 0,05, kết quả cho thấy mối tương quan

giữa hình dạng răng cửa giữa với hình
dạng cung răng hàm trên. Tuy nhiên,
để kết luận về mức độ tương quan giữa
2 giá trị này, cần có nghiên cứu thêm nữa.

Bảng 3: Tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa với cung răng hàm trên.

Răng cửa giữa
Tổng

Oval

Hàm trên

Vuông

Tam giác

Oval

Vuông

Tam giác

n

307

217

98

622

% (trong hàm trên)

49,4%


34,9%

15, 8%

100,0%

% (trong tổng)

31%

21,9%

9,9%

62,8%

n

87

89

43

219

% (trong hàm trên)

39,7%


40,6%

19,6%

100,0%

% (trong tổng)

8,8%

8,9%

4,3%

22,1%

n

71

40

38

149

% (trong hàm trên)

47,7%


26,8%

25,5%

100,0%

% (trong tổng)

7,2%

4%

3,8%

15%

n

465

346

179

990

%

47%


34,9%

18,1%

100,0%

Tổng

3. Tƣơng quan răng cửa giữa với cung răng hàm dƣới.
Các đối tượng có cùng cung răng hàm dưới oval và răng cửa giữa oval hay gặp nhất
(31,5%); ít gặp nhất là cung răng hàm dưới vuông và răng cửa giữa tam giác (2,5%).
Tỷ lệ các đối tượng có hình dạng răng cửa giữa và hình dạng cung răng hàm dưới
giống nhau (41,7%) (với oval-oval 31,5%; vuông-vuông 5%; tam giác-tam giác 5%).
Xét riêng trong 631 đối tượng có cung răng hàm dưới oval, 133 đối tượng có cung
răng hàm dưới hình vuông và 226 đối tượng có cung răng hàm dưới hình tam giác,
hình dạng răng cửa giữa chiếm tỷ lệ cao nhất đều là răng hình oval, lần lượt 49,4%
(trong cung răng hàm dưới oval); 43,6% (trong cung răng hàm dưới vuông) và 42%
(trong cung răng hàm dưới tam giác). Kiểm định khi bình phương p = 0,219 > 0,05 cho
thấy không có mối tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa với hình dạng cung răng
hàm dưới.
499


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
Bảng 4: Tương quan giữa hình dạng răng cửa giữa với cung răng hàm dưới.
Răng cửa giữa
Tổng

Oval


Hàm
dưới

Vuông

Tam giác

Oval

Vuông

Tam giác

n

312

215

104

631

% (trong hàm dưới)

49,4%

34,1%


16,5%

100,0%

% (trong tổng)

31,5%

21,7%

10,5%

63,7%

n

58

50

25

133

% (trong hàm dưới)

43,6%

37,6%


18,8%

100,0%

% (trong tổng)

5,9%

5%

2,5%

13,4%

n

95

81

50

226

% (trong hàm dưới)

42,0%

35,8%


22,1%

100,0%

% (trong tổng)

9,6%

8,2%

5%

22,8%

n

465

346

179

990

%

47,0%

34,9%


18,1%

100,0%

Tổng

BÀN LUẬN
Nghiên cứu thực hiện trên 990 đối
tượng là sinh viên, từ 18 - 25 tuổi, đạt tiêu
chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu. Phân bố
về giới đạt tỷ lệ xấp xỉ 1:1 (49,5% nam và
50,5% nữ). Theo kết quả thu được, có thể
thấy không có sự khác biệt giữa 2 giới
trong phân bố hình dạng răng cửa giữa
hàm trên, hình dạng cung răng hàm trên
và hình dạng cung răng hàm dưới. Mặc
dù nhiều nghiên cứu trước đó đã chỉ ra
khác biệt đáng kể về kích thước răng lẫn
kích thước cung hàm giữa 2 giới. Như vậy,
có thể thấy sự khác nhau về kích thước
chưa chắc đã dẫn đến khác biệt về hình
dạng của răng và cung răng giữa 2 giới.
Cần có thêm nghiên cứu để đưa ra kết
luận cho vấn đề này.
500

Hình dạng xuất hiện nhiều nhất trong
hình dạng của cung răng hàm trên và
hàm dưới đều là hình oval (62,8% ở hàm
trên và 63,7% ở hàm dưới). Kết quả này

cho thấy tỷ lệ phân bố hình dạng khác với
các nghiên cứu trước đây: nghiên cứu của
Luiz Renato (2012) với cung răng oval
41% [5], Võ Trương Như Ngọc (2012)
nghiên cứu trên người Việt trưởng thành
cho kết quả cung hàm trên oval 56,2%,
cung hàm dưới oval 54,6% [2]. Sự khác
biệt này có thể do phương pháp nghiên
cứu và tiêu chuẩn đánh giá hình dạng
khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu
đều cho ra kết quả thống nhất, hình dạng
hay gặp nhất là hình oval ở cung răng hàm
trên và hàm dưới.
- Ở hình dạng răng cửa giữa hàm trên,
kết quả tương tự với hình dạng xuất hiện


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
nhiều nhất là hình oval (47%), sau đó
hình vuông (34,9%) và ít gặp nhất tam
giác (18,1%). Kết quả này khác biệt với
một số nghiên cứu trước đây: Ibrahimagic
nghiên cứu trên 2.000 cá thể người Zenica
và Bosnia hình dạng răng hay gặp nhất
là hình vuông (53%), oval 30%, tam giác
16% [6]; một số tác giả khác cũng cho ra
kết quả hình vuông chiếm nhiều nhất [1].
Có sự khác biệt này là do khác về phương
pháp xác định hình dạng răng và một phần
về chủng tộc. Tuy nhiên, một số tác giả

có kết quả tương đồng, răng oval chiếm
tỷ lệ nhiều nhất: Luiz Renato (2012) [5],
Roberta Tarkany (2011) [7].
Khi so sánh tương quan giữa hình
dạng răng và cung răng, kết quả nghiên
cứu cho thấy mối tương quan giữa hình
dạng răng cửa giữa hàm trên với hình
dạng cung răng hàm trên, tuy nhiên
không có mối tương quan nào giữa hình
dạng răng cửa giữa hàm trên với hình
dạng cung răng hàm dưới. Mặc dù tỷ lệ
có hình dạng răng cửa giữa và cung răng
giống nhau khá cao: 43,7% giữa răng
cửa giữa và hàm trên; 41,7% giữa răng
cửa giữa và hàm dưới (kết quả gần giống
với nghiên cứu của Berksun (2002) cho tỷ lệ
tương đồng đạt 46% [4]) tuy nhiên kiểm
định khi bình phương thấy có sự khác
biệt trong phân bố các loại hình dạng
răng cửa giữa giữa loại hình dạng cung
răng hàm trên; nhưng không thấy có khác
biệt trong phân bố các loại hình dạng
răng cửa giữa giữa loại hình dạng cung
răng hàm dưới. Kết quả phù hợp với
nghiên cứu trước đó, Luiz Renato (2012)

nghiên cứu trên 54 đối tượng người da
trắng cũng không tìm thấy mối tương quan
giữa hình dạng răng cửa giữa hàm trên
với hình dạng cung răng hàm dưới [5].

KẾT LUẬN
Như vậy có thể thấy không có sự khác
biệt trong phân bố hình dạng răng, cung
răng giữa hai giới. Đồng thời có thể khẳng
định hình dạng của răng cửa giữa tương
quan với hình dạng của cung răng hàm
trên hơn cung răng hàm dưới. Do vậy,
khi lựa chọn hình dạng phục hình răng
cửa giữa hàm trên, nên dựa vào hình
dạng cung răng hàm trên hơn là cung
răng hàm dưới để dự đoán. Tuy nhiên,
vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu nữa để
đánh giá mức độ tương quan giữa hình
dạng răng cửa giữa hàm trên với hình
dạng cung răng hàm trên. Chính vì vậy,
để đạt được độ thẩm mỹ và hài hòa,
không nên chỉ dựa vào hình dạng cung
răng, nên xem xét nhiều yếu tố khác liên
quan trước khi đưa ra một lựa chọn phục
hình thích hợp nhất.
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện bài báo này, chúng tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
đến Viện đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường
Đại học Y Hà Nội cùng PGS.TS Trương
Mạnh Dũng - Chủ nhiệm Đề tài Nhà nước
cùng toàn thể các cơ quan, các thầy cô
bạn bè đã giúp đỡ tận tình và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành bài
báo này.

501


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ HÌNH THÁI HỌC-2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thị Vỹ. Nhận xét hình dạng và
kích thước cung răng tương quan với khuôn
mặt và răng cửa giữa hàm trên. Luận văn
Tốt nghiệp Bác sỹ nội trú. Trường Đại học Y
Hà Nội. 2004.
2. Võ Trương Như Ngọc. Nghiên cứu đặc
điểm kết cấu sọ mặt và khuôn mặt hài hòa
trên ảnh chuẩn hóa kỹ thuật số ở một nhóm
sinh viên tuổi 18 - 25. Tạp chí Y học Thực hành.
2013, 4 (867), tr.32-34.
3. Dipti S Shah, Ruksana Shaikh, Harish
Matani. Correlation between tooth, face and
arch forms - A computer generated study. JIDA.
2011, 5 (8), pp.303-311.

502

4. Berksun S, Hasanreisoglu U, Gokdeniz B.
Computer-based evaluation of gender
identification and morphologic classification of
tooth face and arch forms. J Prosthet Dent.
2002, pp.63-72.
5. Luiz Renato, Carolina Souto. Correlation
between maxillary central incisor crown
morphology and mandibular dental arch form

in normal occlusion subjects. Braz Dent J.
2012, 11 (6), pp.195-202.
6. L Ibrahimagic, V Jerolimov. Relationship
between the face and the tooth form. Coll
Antropol. 2001, 25 (2), pp.619-626.
7. Roberta Tarkany. Study of the morphodimensional relationship between the maxillary
central incisors and the face. Braz Oral Res.
2011, 25 (3), pp.210-216.



×