Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ăn mòn răng và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.42 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

ĂN MÒN RĂNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Trần Thị Thùy Trang*, Nguyễn Thị Kim Anh**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ và mức độ ăn mòn răng trên ngườitrẻ độ tuổi 18-25 theo chỉ số BEWE; khảo sát
mối liên quan giữa tình trạng ăn mòn răng với: giới, thói quen vệ sinh răng miệng, hiểu biết về ăn mòn răng, thói
quen ăn uống và một số triệu chứng của tình trạng rối loạn dạ dày.
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 150 sinh viên (75 nam, 75
nữ) với phương pháp chọn mẫu thuận tiện tại kí túc xá trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao thành phố Hồ
Chí Minh. Tỉ lệ, mức độ ăn mòn răng và mối liên quan giữa tình trạng ăn mòn răng với một số yếu tố được xác
định thông qua khám lâm sàng dựa theo chỉ số BEWE và bảng câu hỏi tự điền cho sinh viên.
Kết quả: Tỉ lệ ăn mòn răng trong mẫu nghiên cứu là 68,7%. Số cá thể có tình trạng ăn mòn răng ở mức độ 1
BEWE chiếm tỉ lệ cao nhất 46,7%, không có ăn mòn răng là 31,3 %, có tình trạng ăn mòn răng mức độ 2 là 18%
và mức độ 3 là 4 %. Vùng răng trước hàm trên có tỉ lệ bị ăn mòn cao nhất 44,7%, kế đến là vùng răng sau hàm
dưới 40,7% và ít nhất là vùng răng trước hàm dưới 13,3%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai giới về tình
trạng ăn mòn răng. Có mối liên quan có ý nghĩa giữa tình trạng ăn mòn răng với thói quen sử dụng nước ngọt có
gas (OR = 3,3) và sự hiểu biết thông tin về “axit có thể gây hại cho răng” (OR =2,3) (p<0,05).
Kết luận: Tỉ lệ cá thể có tình trạng ăn mòn răng của mẫu nghiên cứu khá cao . Các yếu tố có ý nghĩa dự báo
tình trạng ăn mòn răng là thói quen tiêu thụ nhiều nước ngọt có gas (hơn 3-5 lần/tuần) và việc không biết thông
tin về “axit có thể gây hại răng”.
Từ khóa: Ăn mòn răng, chỉ số BEWE.

ABSTRACT
DENTAL EROSION PREVALENCE AND ASSOCIATED FACTORS
Tran Thi Thuy Trang, Nguyen Thi Kim Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 164 - 169
Objectives: To assess the prevalence and severity of dental erosion and its association with gender, dental


hygiene practices, knowledge, dietary habits and some signs of gastric disorders in students of University of
Physical Education and Sport in Ho Chi Minh city
Methods: A cross-sectional study was carried out on 150 students (75 males and 75 females) from 18 - 25
years of age. The Basic Erosive Wear Examination (BEWE) was used to assess the occurrence of dental erosion.
Information regarding dental hygiene practices, knowledge about dental erosion, dietary habits and some signs of
gastric disorders were obtained through a self-administered questionnaire.
Results: Of the subjects 68.7% had dental erosion. The prevalence of BEWE score 1, 2 and 3 were 46.7%,
18% and 4% respectively. High consumption of soft drinks (3-5 times per week) and not knowing that “acid can
damaged teeth” were significantly associated with risk of dental erosion (p<0.05).
Conclusion: A relatively high prevalence of dental erosion was observed in this studied sample. It was found
that risk of dental erosion has association with high consumption of soft drink and not knowing that “acid can
* Khóa 2008-2014- Khoa Răng Hàm Mặt- Đại học Y Dược TP.HCM
** Bộ môn NKCS- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Trần Thị Thùy Trang
ĐT: 0942848279
Email:

164

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

Nghiên cứu Y học

damaged teeth”.
Key words: dental erosion, BEWE Index (Basic Erosive Wear Examination index)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mòn răng được xem như là một trong những
mối đe dọa lớn đối với sức khỏe răng miệng bên
cạnh sâu răng và bệnh nha chu. Ngày nay, nhờ
những thành công trong việc ngăn ngừa và điều
trị sớm bệnh sâu răng và nha chu, bộ răng kéo
dài hơn tuổi thọ cũng đồng nghĩa với tình trạng
mòn răng trở thành vấn đề nguy cơ đối với nhu
cầu bảo tồn một bộ răng lành mạnh trong suốt
cuộc đời. Mòn răng bao gồm: ăn mòn (erosion),
nhai mòn (attrition), mài mòn/cọ mòn (abrasion).
Sự gia tăng tỉ lệ mòn răng đã được công bố trong
nhiều nghiên cứu trên thế giới, đặc biệt là ăn
mòn răng.
Ăn mòn răng được định nghĩa là sự mất mô
cứng của răng theo cơ chế hóa học mà không
liên quan tới vi khuẩn(15). Đây là một bệnh lí đa
yếu tố và các yếu tố nguyên nhân được chia
thành nguyên nhân nội sinh và ngoại sinh.
Nguyên nhân ngoại sinh bao gồm: môi trường,
dược phẩm, lối sống và chế độ ăn uống. Nguyên
nhân nội sinh là axit dạ dày lên đến miệng do
trớ, nôn mửa hoặc bệnh lý trào ngược dạ dày
thực quản(2). Ăn mòn răng có thể tiến triển tới
ngà răng và tủy dẫn đến nhạy cảm răng, khớp
cắn thay đổi và làm răng kém thẩm mỹ.
Tại Việt Nam, đã có 2 nghiên cứu về vấn đề
mòn răng là nghiên cứu của Phạm Lệ Quyên
(2006)(12) về tình trạng mòn răng nói chung trên
sinh viên độ tuổi 18-25 và nghiên cứu dọc của
Nguyễn Phúc Diên Thảo (2011)(10)về đặc điểm

mòn răng theo kiểu nhai mòn. Tuy nhiên chưa
có nghiên cứu nào về tình trạng ăn mòn răng.
Cùng với sự thay đổi điều kiện kinh tế-xã hội
như hiện nay, giới trẻ bắt đầu có những thay đổi
trong lối sống và dinh dưỡng theo các nước
phương Tây nên khó tránh khỏi tình trạng ăn
mòn răng. Việc phát hiện sớm tình trạng mòn
răng ở người trẻ và xác định các yếu tố nguy cơ
để từ đó có các biện pháp phòng ngừa và can
thiệp kịp thời là điều rất cần thiết.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu khảo
sát tình trạng ăn mòn răng trên sinh viên Trường
ĐH Sư phạm thể dục thể thao TP HCM với các
mục tiêu sau: (1) Xác định tỉ lệ và mức độ ăn
mòn răng trên người trẻ độ tuổi 18-25 theo chỉ số
BEWE; (2) Khảo sát mối liên quan giữa tình
trạng ăn mòn răng với: giới, thói quen vệ sinh
răng miệng, hiểu biết về ăn mòn răng, thói quen
ăn uống, một số triệu chứng của tình trạng rối
loạn dạ dày.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
150 sinh viên trường ĐH Sư phạm Thể dục
thể thao TP.HCM (75 nam, 75 nữ) còn ít nhất 12
răng trên mỗi hàm, không mang khí cụ chỉnh
hình, không đau cấp tính vùng hàm mặt và

không mang phục hình mão cố định toàn diện ở
các răng trước và/hoặc răng 6, 7.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
11/2012 – 1/2013, tại Phòng Y tế của trường ĐH
Sư phạm TDTT TP HCM.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả
Phương tiện nghiên cứu
Dụng cụ khám răng, đèn LED mang đầu,
bảng câu hỏi tự điền, phiếu khám.
Nội dung chính của bảng câu hỏi gồm: (1)
Thói quen vệ sinh răng miệng: số lần đánh
răng/ngày, thời gian đánh răng/ lần, lần gần nhất
đi khám răng tới nay. (2) Hiểu biết về ăn mòn
răng: biết/không biết về ăn mòn răng, nghĩ mình
có răng bị ăn mòn hay không, nghĩ rằng vệ sinh
răng miệng tốt sẽ phòng ngừa axit gây hại cho
răng (gây ăn mòn răng). (3) Thói quen ăn uống:
tần suất tiêu thụ đồ uống và thức ăn phổ biến có
liên quan tới ăn mòn răng; cách thức tiêu thụ
nước giải khát có gas (nuốt nhanh, ngậm rồi
nuốt,…), thói quen vệ sinh sau khi uống nước

165


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015


Nghiên cứu Y học

giải khát có gas. (4) Một số triệu chứng của tình
trạng rối loạn dạ dày: ợ nóng/ợ hơi/cảm giác có
vị chua trong miệng và nôn mửa: tần suất và
thời gian bắt đầu xuất hiện nếu có.

Các biến số nghiên cứu và cách đánh giá
Khám và đánh giá mức độ ăn mòn trên các
mặt ngoài, mặt nhai, mặt trong từng răng, trừ
răng cối lớn thứ 3 theo chỉ số BEWE
Bảng 1. Chỉ số BEWE (theo Bartlett, 2008)(1): gồm 4
mức độ 0,1,2,3
Điểm số
0
1
*

2

*

3

Tiêu chí
Không có mòn răng
Bắt đầu mất kết cấu bề mặt men răng
Tổn thương dễ dàng nhận thấy, liên quan dưới
50% diện tích bề mặt
Mô cứng mất trên 50% diện tích bề mặt


(* thường sang thương đã tiến triển tới ngà)
Hai cung hàm được chia thành sáu sextant
(17-14, 13-23, 24-27, 37-34, 33-43, 44-47).
Chỉ số ăn mòn răng BEWE của mỗi sextant
là: điểm số mặt răng bị ăn mòn cao nhất thuộc
sextant đó (theo Bartlett, 2008)(1)
Chỉ số ăn mòn răng cao nhất của một cá thể:
là điểm số của sextant bị ăn mòn cao nhất của cá
thể đó (theo Bartlett, 2008)(1)
Bảng 2. Mức độ rủi ro bị ăn mòn răng trên mỗi cá thể
(theo Bartlett, 2008)(1)
Mức độ rủi ro bị ăn mòn
răng
Không
Thấp
Trung bình
Cao

Tổng điểm của 6 sextant/cá
thể
≤2
3-8
9-13
 14

Mức độ rủi ro bị ăn mòn răng trên mỗi cá thể
được đánh giá theo Bartlett (2008)(1) là dựa trên
tổng điểm của 6 sextant trên mỗi cá thể (bảng 2).
Đánh giá mối liên quan giữa ăn mòn răng

với giới, thói quen vệ sinh răng miệng, sự hiểu
biết về ăn mòn răng, thói quen ăn uống, một số
triệu chứng của tình trạng rối loạn dạ dày thông
qua bảng câu hỏi.

Xử lý phân tích số liệu
Nhập số liệu và phân tích với phần mềm
SPSS 17.0. Sử dụng chỉ số Kappa, phép kiểm Chi-

166

square, phép kiểm xác suất chính xác Fisher,
phân tích hồi quy logistic đa biến.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Về mẫu nghiên cứu
Đối tượng được chọn từ 18-25 tuổi vì ở người
trẻ tuổi có nhiều khả năng phát hiện được
những sang thương chỉ do ăn mòn răng, tình
trạng răng mòn theo kiểu cọ mòn và nhai mòn
thì ít hơn so với những lứa tuổi lớn hơn(3).
Đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm đối tượng
có nguy cơ cao bị ăn mòn răng do đặc thù ngành
học của sinh viên trường thể thao là phải thường
xuyên vận động thể chất. Theo nghiên cứu của
Mulic A (2012)(9), tỉ lệ ăn mòn răng của nhóm
người trẻ độ tuổi 18-32 thường xuyên vận động
thể chất cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm người trẻ 18 tuổi không có thói quen này.
Một số nghiên cứu khác(13,14) cũng cho thấy

những người tập luyện thể thao tích cực có thể
có nguy cơ bị ăn mòn răng do thường xuyên
uống các loại nước giải khát có tính axit để bù
nước, điện giải bị mất trong quá trình tập luyện.
Bên cạnh đó, sự mất nước trong khi quá trình
vận động thể chất làm giảm tiết nước bọt gây
tăng nguy cơ ăn mòn răng(4,14).

Tình trạng ăn mòn răng của mẫu
Tỉ lệ hiện diện ăn mòn răng của mẫu
Tỉ lệ hiện diện ăn mòn răng trên 150 sinh
viên là 68,7% cá thể có ít nhất một răng bị ăn
mòn và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa hai giới nam và nữ về tỉ lệ ăn mòn răng
(bảng 3). Kết quả này tương tự với nghiên cứu ở
Malaysia trên sinh viên độ tuổi 19-24 của Manaf
ZAvà cộng sự (2011)(8)cũng sử dụng chỉ số BEWE
để khảo sát tình trạng ăn mòn răng là 68%. Tuy
nhiên, kết quả này lại khác so với một số nghiên
cứu khác trên đối tượng người trưởng thành trẻ
tuổi trên thế giới(9,13,14). Việc so sánh chính xác tỉ lệ
ăn mòn răng trong nghiên cứu của chúng tôi với
các nghiên cứu khác khá khó khăn do sự khác
nhau trong sử dụng chỉ số nghiên cứu, tiêu
chuẩn nghiên cứu, tiêu chuẩn chẩn đoán và răng

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

chỉ số để ghi nhận ăn mòn răng. Kết quả tỉ lệ ăn
mòn răng trên sinh viên trong nghiên cứu của
chúng tôi là khá cao, cho thấy ăn mòn răng là
một vấn đề phổ biến trong mẫu nghiên cứu,
phản ánh một nhu cầu rất bức thiết là cần triển
khai các chương trình phòng ngừa ăn mòn răng
và tư vấn cho đối tượng này.

Nghiên cứu Y học

ngừa kịp thời, tránh ăn mòn răng tiến triển
nghiêm trọng hơn.

Tình trạng ăn mòn răng theo vị trí trên cung
răng

Bảng 3. Tỉ lệ % ăn mòn răng theo nam, nữ
Ăn mòn răng
Không

%(n)
%(n)

Tổng
%(n)

Nam

30,7(23)


69,3(52)

100,0(75)

Nữ
Tổng

32,0(24)
31,3(47)

68,0(51)
68,7(103)

100,0(75)
100,0(150)

p

p=0,86

Mức độ ăn mòn răng của mẫu theo chỉ số
BEWE (Biểu đồ 1)

Đa số cá thể có tình trạng ăn mòn răng mức
độ 1 BEWE (46,7%) tương ứng với mức độ bắt
đầu mất kết cấu bề mặt men và chưa tiến triển
tới ngà. Tuy vậy, có một tỉ lệ không nhỏ (22%) cá
thể có tình trạng ăn mòn ở mức độ BEWE 2 và 3
tương ứng với mức độ mòn tiến triển, có thể liên
quan tới ngà. Một khi đã lộ ngà thì răng sẽ bị

mòn nhanh hơn không chỉ do bị ăn mòn mà còn
bị ảnh hưởng bởi các quá trình nhai mòn, mài
mòn và thường bị nhạy cảm với các kích thích(6).
Ở độ tuổi trẻ 18-25 tuổi mà đã có những sang
thương mòn tới ngà thì đó là vấn đề rất đáng lưu
tâm. Từ kết quả trên có thể dự đoán trong tương
lai, một số lượng khá lớn các loại chăm sóc phục
hồi cần tiến hành cho những đối tượng hiện
đang có tình trạng ăn mòn răng tới ngà. Như
vậy, ngay từ ban đầu, các dấu hiệu ăn mòn răng
sớm nên được lưu ý phát hiện nhằm phòng

Tình trạng ăn mòn răng theo sextant: vùng
răng trước hàm trên và vùng răng sau hàm
dưới có tỉ lệ ăn mòn răng cao hơn so với vùng
răng sau hàm trên và vùng răng trước hàm
dưới (biểu đồ 2)
Tình trạng ăn mòn răng theo vị trí hàm trên,
hàm dưới: số cá thể có tình trạng ăn mòn răng ở
cả hai hàm trên và dưới chiếm tỉ lệ nhiều nhất
(56,32%) so với những cá thể bị ăn mòn răng chỉ
ở hàm trên (22,3%) hoặc hàm dưới (20,38%).
Tình trạng ăn mòn răng theo vùng răng
trước, răng sau: số cá thể bị ăn mòn răng đồng
thời trên cả trên răng trước và răng sau là 41,7%,
cao hơn số cá thể chỉ bị ăn mòn răng ở răng
trước (21,4%) hoặc ở răng sau (36,9%).
Vị trí đặc hiệu của quá trình ăn mòn răng
diễn ra trong miệng là vấn đề vẫn còn nhiều
tranh cãi do có nhiều nghiên cứu báo cáo những

sang thương ăn mòn răng xuất hiện ở nhiều mặt
răng khác nhau.

Mức độ rủi ro bị ăn mòn răng
Tuy tỉ lệ hiện diện ăn mòn của mẫu ở mức
khá cao (68,7%) nhưng mức độ rủi ro do ăn mòn
của mẫu nhìn chung ở mức thấp (Bảng 4).
Bảng 4. Tỉ lệ % các mức độ rủi ro bị ăn mòn răng
(theo Barlett, 2008)(1)
Mức độ rủi ro bị ăn mòn răng

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

% (n)

167


Nghiên cứu Y học
Mức độ rủi ro bị ăn mòn răng
Không
Thấp
Trung bình
Cao
Tổng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
% (n)
59,3 (89)
37,3 (56)

3,3 (5)
0 (0)
100 (150)

Theo Bartlett (2008)(1) thì hướng dẫn xử trí
lâm sàng tương ứng với các mức độ rủi ro bị
ăn mòn răng của mẫu sẽ là như sau: 37,3% đối
tượng có mức độ rủi ro thấp cần được đánh
giá chế độ ăn uống và vệ sinh răng miệng, từ
đó đưa ra lời khuyên thích hợp tùy từng
trường hợp; duy trì thường xuyên và theo dõi
bộ răng và hẹn tái khám đánh giá ăn mòn 2
năm/lần. Đối với 3,3% số cá thể có mức độ rủi
ro trung bình, bên cạnh việc làm theo chỉ dẫn
xử trí như trên, còn cần tìm và xây dựng chiến
lược loại bỏ yếu tố bệnh căn của ăn mòn, cân
nhắc sử dụng thêm các biện pháp phòng ngừa
với flour và tăng sức đề kháng trên bề mặt
răng và tái khám 6-12 tháng/lần. Những đối
tượng được xếp loại không có rủi ro bị ăn mòn
răng vẫn cần theo dõi và khám định kỳ đánh
giá ăn mòn 3 năm/lần.

Một số yếu tố liên quan tới ăn mòn răng
Hiểu biết về ăn mòn răng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
những sinh viên không hiểu biết axit có thể gây
hại cho răng thì dễ bị ăn mòn răng hơn những
sinh viên có biết điều này (p = 0,011). Việc không
biết “thông tin về axit gây hại cho răng” của sinh

viên là yếu tố liên quan có ý nghĩa dự báo tình
trạng ăn mòn răng với OR = 2,3 (p<0,05). Bên
cạnh đó, hơn 80% đối tượng được nghiên cứu
đều nhầm lẫn và có quan niệm sai lầm rằng
bằng cách vệ sinh răng miệng tốt là có thể phòng
ngừa được tình trạng ăn mòn răng giống như
hai bệnh răng miệng phổ biến là sâu răng và nha
chu. Sự thiếu hiểu biết thông tin về sự ăn mòn
răng của sinh viên cho thấy cần có sự quan tâm
hơn về vấn đề này trong giáo dục nha khoa, cần
tuyên truyền, phổ biến rộng rãi những thông tin
kiến thức về ăn mòn răng do axit cho cộng đồng,
đặc biệt là cho những đối tượng có nguy cơ bị ăn

168

mòn răng do thường xuyên uống các loại nước
giải khát có tính axit.

Thói quen ăn uống
Ảnh hưởng của thói quen ăn uống đối với
tiến triển của ăn mòn răng đã được chứng
minh trong nhiều nghiên cứu. Thói quen tiêu
thụ nhiều các loại thức ăn và đồ uống có tính
axit được xem là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến tiến triển của quá trình ăn mòn
răng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tiêu thụ thường xuyên nước giải khát có
gas (3-5 lần/ tuần) có mối liên quan đáng kể
với ăn mòn răng (p<0,05). Kết quả này giống

với nghiên cứu của Jarvinen(1991)(5);
Wang(2010)(16)…, tuy nhiên, một số nghiên
cứu khác của Manaf (2012)(8), Shirimaharaj
(2002)(13)…lại cho thấy không có mối liên quan
có ý nghĩa. Tiêu thụ nhiều nước ngọt có gas
(hơn 3-5 lần trong một tuần) là yếu tố có liên
quan ý nghĩa dự báo tình trạng ăn mòn răng
với OR = 3,3 (p<0,05). Theo Lussi và Jeaggi
(2006)(7), giá trị pH, nồng độ canxi, phosphat
và flouride, chuẩn độ axit (“khả năng đệm”)
và tính chất “calcium-chelation” của đồ uống
và thức ăn là những yếu tố quan trọng lên
tiềm năng gây ăn mòn răng. Nghiên cứu của
Nguyễn Võ Ngọc Trang (2012)(11) khảo sát và
so sánh nồng độ fluor và tính axit của các loại
nước giải khát (nước giải khát có gas, hương
trái cây và có gas hương trái cây) tại TPHCM
năm 2012 cho thấy độ pH trung bình của các
nhãn hiệu nước giải khát dao động từ 3,43 –
3,76, trong đó chỉ có 3/33 nhãn hiệu có độ pH >
4,5. Như vậy, tính axit của các loại nước giải
khát có gas trên thị trường tại thành phố Hồ
Chí Minh chính là lí do cho tỉ lệ bị ăn mòn
răng khá cao trong nghiên cứu của chúng tôi.
Lí giải cho thói quen tiêu thụ nhiều nước ngọt
có gas có lẽ do đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi là sinh viên Trường Đại học sư
phạm thể dục thể thao, do đặc thù ngành học
nên phải thường xuyên vận động nhiều nên
hay bị mất nước dẫn đến luôn cần bổ sung

nước để bù nước và điện giải. Không những

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
vậy, khu vực thành phố Hồ Chí Minh thuộc
miền Nam Việt Nam đặc trưng bởi khí hậu
nhiệt đới cận xích đạo, nền nhiệt độ cao
(>180C) quanh năm. Nhiệt độ khí hậu cao sẽ
thường gây đổ mồ hôi, mất nước và sẽ không
thể tránh khỏi nhu cầu uống nước giải khát
thường xuyên. So với nhiều loại nước giải khát
khác, nước ngọt có gas lại đang phổ biến trên
thị trường hiện nay với giá thành rẻ và mùi vị
hấp dẫn nên dễ được nhiều người ưa chuộng.

4.

Tuy nhiên, ngoại trừ nước ngọt có gas,
chúng tôi không tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa giữa ăn mòn răng với: một số thức ăn,
đồ uống khác có tính axit như canh chua, kẹo
chua, ô mai, viên ngậm sủi có Vitamin C…;
cách thức tiêu thụ thức ăn chua và cách uống
nước giải khát có gas; thói quen vệ sinh răng
miệng (số lần chải răng trong ngày, thời gian
một lần chải răng, thói quen đi khám răng) và
một số triệu chứng của tình trạng rối loạn dạ
dày (ợ nóng/ợ hơi/cảm giác có vị chua trong

miệng và nôn mửa).

9.

5.
6.

7.
8.

10.

11.

12.
13.

14.

KẾT LUẬN
Tỉ lệ ăn mòn răng trong nhóm sinh viên
nghiên cứu khá cao (68,7%). Tiêu thụ nhiều nước
ngọt có gas (hơn 3-5 lần/tuần) và thiếu hiểu biết
thông tin về axit gây hại răng là các yếu tố có ý
nghĩa dự báo đối với tình trạng ăn mòn răng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

Bartlett D, Ganss C, Lussi A. (2008) Basic Erosive Wear
Examination (BEWE): a new scoring system for scientific and
clinical needs.Clinical Oral Investigation; 12 Suppl 1:S65-68.
Bartlett D. (2006) Intrinsic causes of erosion. Monogr Oral
Sciences.; 20: 119-139.
Ganss C. (2008) How valid are current diagnostic criteria for
dental erosion? Clin Oral Investig.; 12 Suppl 1: S41-49.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

15.
16.

Nghiên cứu Y học

Gatti R, De Palo EF (2006) An update: salivary hormones and
physical exercise. Scandinavian Journal of Medicine Sport; 21: 157169.
Järvinen VK, Rytömaa II, Heinonen OP. (1991) Risk factors in
dental erosion. J Dent Res.; 70: 942-947.
Lussi A, Hellwig E, Ganss C, Jaeggi T. (2009) Buonocore
memorial lecture: Dental erosion. Operative dentistry; 34(3): 251262.
Lussi A, Jeaggi T. (2006) Chemical factors. Monogr Oral Sciences;
20: 77-87.
Manaf ZA, Lee MT, Ali NH, et al. (2012) Relationship between
food habits and tooth erosion occurrence in Malaysian
university students. Malaysian Journal Medicine Sciences.; 19(2):
56-66.
Mulic A, Skudutyte-Rysstad R, Tveit AB, Skaare AB. (2012) Risk

indicators for dental erosive wear among 18-yr-old subjects in
Oslo,Norway. European Journal Oral Sciences, 120(6) : 531-538.
Nguyễn Phúc Diên Thảo, Đặng Vũ Ngọc Mai (2011).Đặc điểm
mòn răng trên sinh viên răng hàm mặt và một số yếu tố liên
quan.Tạp chí Y họcTP HCM số 2, tập 15.
Nguyễn Võ Ngọc Trang, Lê Đức Lánh, Siriruk Nakornchai.
(2012) Nồng độ fluor và tính axit của nước giải khát tại thành
phố Hồ Chí Minh.Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 17, phụ bản
của số 2: 9-14.
Phạm Lệ Quyên (2006).Mòn răng và các yếu tố liên quan nghiên
cứu trên 150 sinh viên.
Sirimaharaj V, Brearley Messer L, Morgan MV. (2002) Acidic
diet and dental erosion among athletes.Australian dental journal,
(3): 228-236.
Tanabe M, Takahashi T, Shimoyama K, Toyoshima Y and Ueno
T. (2013) Effects of rehydration and food consumption on
salivary flow, pH and buffering capacity in young adult
volunteers during ergometer exercise.Journal of international
Society of Sports nutrition 2013, 10: 49.
Ten Cate JM, Imfeld T. (1996) Dental erosion, summary.European
Journal Oral Sciences; 104(2 ( Pt 2)): 241-244.
Wang X, Lussi A. (2010) Assessment and management of dental
erosion.Dent Clin North Am. 54(3): 565-578.

Ngày nhận bài báo:

08/02/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


26/02/2015

Người phản biện: TS Phạm Văn Khoa
Ngày bài báo được đăng:

10/04/2015

169



×