Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch chủ vành trong điều trị hẹp nhiều nhánh động mạch vành ở bệnh nhân có hẹp động mạch cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.8 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẦU NỐI ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀNH
TRONG ĐIỀU TRỊ HẸP NHIỀU NHÁNH ĐỘNG MẠCH VÀNH
Ở BỆNH NHÂN CÓ HẸP ĐỘNG MẠCH CẢNH
Đỗ Kim Quế*, Chung Giang Đông*
Đặt vấn đề: Phẫu thuật bắc cầu mạch vành là phương pháp điều trị cho tỷ lệ sống cao hơn, giảm đau thắt
ngực sau mổ rõ rệt cho bệnh nhân bị bệnh nhiều nhánh động mạch vành. Chiến lược xử trí cho bệnh nhân có chỉ
định phẫu thuật cầu nối động mạch vành đồng thời có hẹp động mạch cảnh vẫn còn được bàn cãi. Nghiên cứu
này nhằm đánh giá tính khả thi về kỹ thuật của phẫu thuật cầu nối động mạch chủ vành nhằm tái tưới máu toàn
bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành và có hẹp nặng động mạch cảnh, đồng thời bước đầu đánh giá
kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ của phương pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Toàn bộ bệnh nhân bệnh 3 nhánh động mạch vành và hẹp động mạch cảnh được
điều trị phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ vành có động mạch ngực trong tại bệnh viện Thống Nhất trong
thời gian 10 năm từ 2004-2014. Bệnh nhân đượcchẩn đoán bệảnh nhánh động mạch vành và hẹp động mạch cảnh
nặng dựa trên DSA động mạch vành và / hoặc MSCT động mạch cảnh. Phẫu thuật cầu nối động mạch vành có
tuần hoàn ngoài cơ thể. Toàn bộ các nhánh động mạch vành hẹp có ý nghĩa đượcphẫu thuật bắc cầu nối qua chỗ
hẹp. Động mạch ngực trong T dung cho động mạch trước trái xuống, tĩnh mạch hiển và đoang65 mạch quay
dung cho các nhánh còn lại. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh thực hiện sau khi mổ cầu nối động mạch
vành ổn định.
Kết quả: 20 bệnh nhân hẹp nhiều nhánh động mạch vành có hẹp nặng động mạch cảnh đã được phẫu thuật
tại bệnh viện Thống Nhất. số miệng nối xa trung bình mỗi bệnh nhân là 3.2. 1 trường hợp tử vong do biến chứng
suy đa tạng sau mổ. 1 trường hợp có đột quỵ não. Không trường hợp nào viêm trung thất hoặc nhiễm trùng vết
mổ. Theo dõi từ 4 tháng – 9 năm, không trường hợp nào bị nhồi máu cơ tim.18 trường hợp được phẫu thuật bóc
lớp trong động mạch.
Kết luận: Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành có hẹp động mạch
cảnh, cho kết quả sớm và lâu dài tốt. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh sau mổ cầu nối động mạch vành
không làm tăng nguy cơ đột quỵ.
Từ khoá: Hẹp động mạch cảnh, bệnh 3 nhánh động mạch vành, bệnh động mạch vành, cầu nối động mạch


vành, bóc lớp trong động mạch cảnh.

ABSTRACT
CORONARY ARTERY BYPASS GRAFT FOR TRIPLE VESSELS DISEASES IN PATIENT
WHO HAD CAROTID SEVERED STENOSIS
Do Kim Que, Chung Giang Dong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 383 - 388
Background: CABG surgery for patients who had multivessels disease based on superior graft patency,
reduced cardiac-retaled eventsand enhanced survival when compared with patients receiving PCI or medical
treatment. This study aimed at evaluating the feasibility of total coronary bypass in patients with multi-vessels
diseases and severed carotid stenosis. We also analyzed short-term results including post operative mortality and
morbidity of the technique and long-term results.
Methods: This is a prospective clinical trial including 20 patients with multi-vessels diseases and severed
* Bệnh viện Thống Nhất
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Đỗ Kim Quế

ĐT: 0913977628

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014

Email:

383


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014

Nghiên cứu Y học

carotid stenosis underwent total coronary revascularization using CABG at the Thong Nhat hospital from 20042014. All patients was diagnosed by CAG and or MSCT of carotid artery. On pump CABG for all coronary
artery are performed with LITA to LAD and SVG or radian artery to the others. Carotid endarterectomy was

carried out after CABG operation.
Results: 20 patients with multi vessels disease underwent CABG the average numbers of distal anastomoses
and LITA anastomoses per patient were 3.2 respectively. No superficial nor deep sternal infection was observed in
this group. 1 patient died by multi-organs falure. 1 patient had stroke, 18 patients underwent CEA after CABG.
No AMI appeared during months – 10 years follow-up.
Conclusions: Total coronary revascularization by CABG then CEA in patients with multi-vessels diseases
and severed carotid stenosis was feasible and safe with satisfactory short-term and long-term results.
Keywords: multi-vessels diseases, severed carotid stenosis, coronary revascularization, coronary artery
bypass.
nhánh mạch vành, đồng thời có hẹp nặng động
ĐẶT VẤN ĐỀ
mạch cảnh. Đánh giá kết quả sớm và lâu dài của
Bệnh mạch vành là nguyên nhân hàng đầu
phẫu thuật cầu nối động mạch vành trước, bóc
gây tử vong ở các nước phát triển. Phẫu thuật
lớp trong động mạch cảnh sau đó tại bệnh viện
cầu nối động mạch vành là một phương pháp
Thống Nhất.
điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân bị bênh đa
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
nhánh động mạch vành. Mặc dù gần đây can
thiệp nội mạch phát triển mạnh mẽ nhưng
Phương pháp nghiên cứu
những nghiên cứu dài hạn cho thấy ưu thế của
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tiền cứu.
phẫu thuật trong tiên lượng và kết quả lâu dài.
Các số liệu thu thập bao gồm đặc điểm lâm sàng,
Tỉ lệ bệnh nhân có bệnh mạch vành cần phẫu
các yếu tố nguy cơ đi kèm, các số liệu liên quan
thuật cầu nối động mạch vành đồng thời có hẹp

đến phẫu thuật, tỷ lệ tai biến và tử vong sau mổ
động mạch cảnh khá cao(8,17)
được phân tích bằng phần mềm SPSS.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu
thuật bắc cầu mạch vành có dùng động mạch
ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, ít có các biến
chứng liên quan đến tim hơn so với phẫu thuật
bắc cầu mạch vành không sử dụng động mạch
ngực trong(19,14,16,18,6,20).
Chiến lược xử trí cho bệnh nhân hẹp nặng
động mạch cảnh và đã có chỉ định cầu nối động
mạch vành vẫn còn được bàn cãi. Phẫu thuật
đồng thời cầu nối động mạch vành và bóc lớp
trong động mạch cảnh hay phẫu thuật lần lượt
cầu nối động mạch vành rối bóc lớp trong động
mạch cảnh hoặc ngược lại vẫn còn những quan
điểm trái ngược(5,7,9).
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi
về kỹ thuật của phẫu thuật cầu nối động mạch
vành có dùng động mạch ngực trong nhằm tái
tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều

384

Các biến chứng sau mổ được theo dõi bao
gồm: nhồi máu cơ tim (có ít nhất hai trong số các
tiêu chuẩn sau: triệu chứng đau ngực, thay đổi
trên điện tim, troponin Ic ≥ 12ng/mL, rối loạn
vận động vùng mới xuất hiện trên siêu âm tim);
hội chứng giảm cung lượng tim (cần hỗ trợ vận

mạch trên 48 giờ); các rối loạn nhịp, suy hô hấp
(thở máy trên 48 giờ), suy thận cấp, nhiễm trùng
xương ức và viêm trung thất, tai biến mạch máu
não (triệu chứng rối loạn tâm – thần kinh kéo dài
trên 48 giờ hay được chẩn đoán bằng CT Scan
hay MRI), chảy máu phải mổ lại.
Bệnh nhân được tái khám định kỳ hàng
tháng sau mổ hoặc khi có diễn biến bất thường,
được ghi nhận triệu chứng cơ năng, siêu âm tim,
các thuốc đang sử dụng.

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Toàn bộ các bệnh nhân bệnh nhiều nhánh
mạch vành có chỉ định phẫu thuật bắc cầu mạch
vành đồng thời có hẹp nặng động mạch cảnh tại
bệnh viện Thống Nhất từ năm 2004 – 2014.

Mô tả kỹ thuật
Tái tưới máu toàn bộ được định nghĩa là tất
cả các nhánh mạch vành có đường kính 1,5mm
trở lên, hẹp từ 70% trở lên (riêng thân chung hẹp
từ 50% trở lên) đều được ghép ít nhất một miệng
nối xa sau chỗ hẹp.
Chúng tôi sử dụng 1 động mạch ngực trong
và tĩnh mạch hiển cho tất cả các trường hợp
Các động mạch ngực trong được phẫu tích

trần (skeletonized) để đảm bảo đạt được độ dài
lớn nhất và hạn chế tỷ lệ nhiễm trùng xương ức
và viêm trung thất.
Động mạch ngực trong trái được giữ nguyên
không cắt rời khỏi động mạch dưới đòn trái,
được làm miệng nối xa với nhánh với nhánh
xuống trước trái theo kiểu tận – bên. Tĩnh mạch
hiển trong cắt rời được khâu nối tận bên hoặc
liên tiếp hình thoi (diamond shape) với nhánh
trung gian, các nhánh bờ tù, động mạch vành
phải.
Chúng tôi sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể,
hạ thân nhiệt trung bình, liệt tim máu ấm thuận
chiều ngắt quãng.
Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh
được thực hiện sau phẫu thuật cầu nối động
mạch vành ít nhất 1 tháng. Bóc lớp trong động
mạch cảnh theo kiểu kinh điển hoặc kiểu lộn
ngược vỏ động mạch với gây mê nội khí quản.

Theo dõi sau mổ
Các bệnh nhân được tái khám định kỳ mỗi
tháng sau mổ trong ba tháng đầu, sau đó mỗi ba
tháng trong năm đầu. Các yếu tố ghi nhận khi tái
khám: tử vong, đột quỵ, các triệu chứng lâm
sàng, điều trị nội khoa, các lần nhập viện cấp cứu
và các biến chứng có liên quan đến cuộc mổ.
Bệnh nhân được khuyến khích chụp mạch vành
hoặc chụp MS-CT 64 để kiểm tra sự thông


Nghiên cứu Y học
thương của các cầu nối và động mạch cảnh trong
khoảng thời gian 3 đến 6 tháng sau mổ.

KẾT QUẢ
Trong 10 năm từ 2004 - 2014, 20 bệnh nhân bị
bệnh động mạch vành nhiều nhánh và hẹp nặng
động mạch cảnh được phẫu thuật bắc cầu mạch
vành có sử dụng động mạch ngực trong.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân:
Đặc điểm bệnh nhân trước mổ
Tổng số
Tuổi trung bình
Nam
Tiểu đường
Cao huyết áp
Hút thuốc lá
Rối loạn chuyển hóa lipid
Tiền căn nhồi máu cơ tim
Tiền căn can thiệp mạch vành qua da
Tiền căn tai biến mạch máu não
Hẹp động mạch cảnh trên 80%
Hẹp động mạch cảnh 2 bên
Bệnh mạch máu ngoại vi
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
Suy thận mãn
Hẹp thân chung
Số lượng nhánh mạch vành bị hẹp trung bình

20

65,7 ± 8,5
18
14
18
15
18
8
1
2
20
4
5
4
4
9
3,6

Suy chức năng thất trái
Đau thắt ngực ổn định
Đau thắt ngực không ổn định
Dùng clopidogrel trước mổ
Dùng aspirin trước mổ
Dùng enoxaparin trước mổ

12
8
4
6
4
4


Bảng 2: Thông số trong mổ.
Số liệu tuần hoàn ngoài cơ thể
Thời gian mổ
Thời gian chạy THNCT
Thời gian kẹp ĐMC

197 ± 21 ph
98 ± 8 ph
79 ± 12 ph

Bảng 3: Vị trí và số cầu nối động mạch vành.
Số liệu trong mổ
Tổng số miệng nối xa
Nhánh xuống trước trái
Nhánh chéo

ĐMNTT TM hiển
20
47
20
12

Nhánh bờ tù hoặc nhánh mũ

-

17

ĐM vành P, nhánh P kéo dài hoặc

nhánh xuống sau

-

18

Trung bình mỗi bệnh nhân được ghép 3,2
cầu nối động mạch

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014

385


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014

Nghiên cứu Y học
Bảng 4: Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch vành.
Tử vong và biến chứng
Tỷ lệ tử vong
Tỷ lệ biến chứng
Nhồi máu cơ tim

1
1

Đột quỵ não
Suy tim
Rung nhĩ


1
4
3

Tràn máu màng phổi

2

Viêm phổi

2

Bảng 5: Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh.
Số liệu trong mổ

Bóc kiểu Bóc kiểu lộn ngược
kinh điển
vỏ động mạch
Mức độ hẹp > 90%
10
5
Thời gian kẹp động mạch 31 phút
26 phút
Trung bình
Dùng Shunt tạm
Phục hồi động mạch với
miếng vá

4
12


0
0

BÀN LUẬN
Kỹ thuật mổ bắc cầu mạch vành đã chứng
minh hiệu quả kể từ các trường hợp phẫu thuật
bắc cầu đầu tiên trên thế giới cách nay trên 40
năm qua các nghiên cứu kéo dài nhiều thập kỉ.
Các cải tiến kỹ thuật đều nhằm đến mục đích
cuối cùng và quan trọng nhất là giúp kéo dài
càng lâu càng tốt thời gian sống không có triệu
chứng, không có các biến cố về mạch vành và
không cần phải can thiệp mạch vành lại.
Việc sử dụng cầu nối từ động mạch ngực
trong trái vào nhánh xuống trước trái, và sau
đó là các cố gắng sử dụng thêm các loại cầu
nối động mạch khác để làm giảm thiểu số
lượng cầu nối bằng tĩnh mạch hiển đã làm cải
thiện rõ rệt tỷ lệ sống còn của bệnh nhân bắc
cầu mạch vành(3,7,20).
Do cấu trúc thành mạch đặc biệt, hầu như
không bao giờ có tổn thương xơ vữa, rất ít co
thắt trong và sau mổ, động mạch ngực trong là
vật liệu làm cầu nối lý tưởng, có tỷ lệ thông suốt
rất cao qua theo dõi lâu dài sau mổ.
Bệnh nhân mổ cầu nối động mạch vành có
hẹp động mạch cảnh nặng làm tăng nguy cơ đột
quỵ và tử vong. Theo Neylor(16) nguy cơ độ quỵ
trong phẫu thuật động mạch vành là 2%, và

nguy cơ này tăng gấp 4,8 lần ở bệnh nhân có hẹp

386

động mạch cảnh nặng. Phẫu thuật đồng thời cầu
nối động mạch vành và bóc lớp trong động
mạch cảnh có tỉ lệ tử vong cao hơn nhóm mổ 2
lần riêng biệt(17,8,3).
Phẫu thuật cầu nối động mạch vành phát
triển khá nhanh trong thời gian gần đây ở nước
ta. Trong nghiên cứu của chúng tôi 8/20 (40,0%)
các bệnh nhân có tiền căn nhồi máu cơ tim hoặc
vừa qua đợt nhồi máu cơ tim cấp. 6/20 (30,0%)
bệnh nhân phải dùng kháng đông đến sát ngày
mổ, đa số phối hợp hai hay ba thuốc kháng đông
(clopidogrel, aspirin, enoxoparin).
Phạm Hữu Minh Nhựt, tổng kết 143 trường
hợp phẫu thuật cầu nối động mạch tại Viện Tim
TP. Hồ Chí Minh tỉ lệ bệnh nhân có nhồi máu cơ
tim cũ là 37,1%(19).
Trừ các trường hợp bệnh nhân có cơn đau
thắt ngực không ổn định cần mổ bán cấp, các
trường hợp mới nhồi máu cơ tim thường được
điều trị nội khoa và mổ trì hoãn trong vòng 2
tuần sau khi troponin Ic giảm xuống dưới 0,3
mcg/ml.
Có 1 trường hợp tử vong nào trong nhóm
nghiên cứu. Tỷ lệ tai biến thấp và không ảnh
hưởng đến tiên lượng lâu dài, trừ một trường
hợp nhồi máu cơ tim trong mổ.

Không trường hợp nào bị nhiễm trùng vết
mổ, viêm xương ức hay viêm trung thất trong
nhóm nghiên cứu. Các nghiên cứu mới đây cho
thấy kỹ thuật phẫu tích trần (skeletonize) động
mạch ngực trong hai bên làm giảm hẳn nguy cơ
này. Các nghiên cứu với số lượng lớn các bệnh
nhân tiểu đường được phẫu tích trần động mạch
ngực trong có tỷ lệ viêm trung thất sau mổ chỉ
khoảng 1,2 đến 2%(11,12,14,15,17,6,23).
Trần Quyết Tiến báo cáo 52 trường hợp phẫu
thuật cầu nối động mạch vành tại bệnh viện Chợ
rẫy có 4 trường hợp suy thận sau mổ, 1 trường
hợp nhiễm trùng vết mổ, và 1 trường hợp chảy
máu phải mổ lại(22).
Chúng tôi gặp 1 trường hợp nào bị tai biến
mạch máu não sau mổ.

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Kỹ thuật phẫu tích trần động mạch ngực
trong giúp hạn chế tổn thương mô mềm và hệ
thống mạch máu nuôi dưỡng thành ngực, làm
giảm tỷ lệ viêm xương ức. Nghiên cứu thực
nghiệm trên chó của tác giả Takashi Ueda(23)
chứng minh rằng việc phẫu tích trần động mạch
ngực trong không làm tăng tỉ lệ tắc cầu nối.
Để tránh hiện tượng”ăn cắp máu”từ động
mạch ngực trong trái ra động mạch cánh tay,

trước mổ ta phải chắc chắn rằng đoạn gần của
động mạch dưới đòn trái không bị hẹp bằng
cách chụp mạch máu hoặc siêu âm kiểm tra
động mạch dưới đòn.
Ngoài ưu điểm quan trọng nhất là khả năng
kéo dài thời gian và mức độ thông suốt của các
cầu nối, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài của
bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch vành, chúng tôi
nhận thấy phương pháp còn có một số ưu điểm
khác như sau:
Động mạch ngực trong có đường kính và độ
dày của thành mạch tương đối giống các nhánh
mạch vành. Tĩnh mạch hiển và động mạch quay
có kích thước và bề dày khác biệt khá nhiều với
hệ mạch vành. Chúng tôi cho rằng miệng nối từ
động mạch ngực trong vào động mạch liên thất
trước dễ thực hiện hơn từ miệng nối từ tĩnh
mạch hiển và động mạch quay. Đó cũng có thể là
một yếu tố giúp cải thiện chất lượng lâu dài của
các miệng nối.

KẾT LUẬN
Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh
nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành có dùng động
mạch ngực trong là phương pháp an toàn và
hiệu quả trong điều trị bệnh nhiều nhánh động
mạch vành có hẹp động mạch cảnh nặng. Phẫu
thuật bóc lớp trong động mạch cảnh sau khi
phẫu thuật cầu nối động mạch vành cho kết quả
trước mắt và lâu dài rất khả quan.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ascione R, Underwood MJ, Lloyd CT, Jeremy JY, Bryan AJ,
Angelini GD. (2001) Clinical and Angiographic Outcome of
Different Surgical Strategies of Bilateral Internal Mammary
Artery Grafting. Ann Thorac Surg; 72:959–65

Nghiên cứu Y học
2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.


12.

13.

14.

15.

16.

Azmoun A, Ramadan R, Al-Attar N, Kortas C, Ghostine S, et
al. (2007): Exclusive Internal Thoracic Artery Grafting in
Triple-Vessel–Disease Patients Angiographic Control. Ann
Thorac Surg 2007;83:2098 –102.
Berreklouw E, Rademakers PPC, Koster JM, van Leur L, van
der Wielen BJW, Westers P. (2007) Better Ischemic Event-Free
Survival After Two Internal Thoracic Artery Grafts - 13 Years
of Follow-up. Ann Thorac Surg 2001;72:1535– 41
Bical OM, Khoury W, Fromes Y, Fischer M, Uva MS, Boccara
G, Deleuze PH. (2007) Routine Use of Bilateral Skeletonized
Internal Thoracic Artery Grafts in Middle-Aged Diabetic
Patients. Ann Thorac Surg 2004;78:2050 –3
Byrne JG, Robbins MR, Leacche M (2007) A New Approach
for Combined Carotid and Coronary Disease. Cardiovascular
Intervention J; 2009 2(5): 402-3.
Cartier R, Leacche M, and Couture P (2002) Changing Pattern
in Beating Heart Operations - Use of Skeletonized Internal
Thoracic Artery. Ann Thorac Surg 2002;74:1548 –52.
De Paulis R, de Notaris S, Scaffa R, Nardella S, Zeitani J, Del
Giudice C, De Peppo AP, Tomai F, Chiariello L. (2007) The

Effect of Bilateral Internal Thoracic Artery Harvesting on
Superficial and Deep Sternal Infection: the Role of
Skeletonization. J Thorac Cardiovasc Surg 2005;129:536 -43.
Gopaldas RR, Chu D, Dao TK, Huh J, LeMaire SA, Lin P,
Coselli JS, Bakaeen FJ. (2011) Staged Versus Synchronous
Carotid Endarterectomy and Coronary Artery Bypass
Grafting: Analysis of 10-Year Nationwide Outcomes. Ann
Thorac Surg 2011;91:1323–9.
Hirotani T, Nakamichi T, Munakata M, Takeuchi S. (2003)
Risks and Benefits of Bilateral Internal Thoracic artery
Grafting in Diabetic Patients. Ann Thorac Surg 2003;76:2017–
22.
Kai M, Hanyu M, Soga Y, Nomoto T, Nakano T, Matsuo T,
Umehara E, Kawato M, Okabayashi H. (2007) Off-Pump
Coronary Artery Bypass Grafting With Skeletonized Bilateral
Internal Thoracic Arteries in Insulin-Dependent Diabetics.
Ann Thorac Surg 2007;84:32–7
Lev-Ran O, Braunstein R, Nesher N, Ben-Gal Y, Bolotin G,
Uretzky G. (2004) Bilateral Versus Single Internal Thoracic
Artery Gafting in Oral-Treated Diabetic Subsets Comparative Seven-Year Outcome Analysis. Ann Thorac Surg
2004;77:2039–45
Locker C, Mohr R, Lev-Ran O, Uretzky G, Frimerman A,
Shaham W, Shapira I. (2004) Comparison of Bilateral Thoracic
Artery Grafting With Percutaneous Coronary Interventions in
Diabetic Patients. Ann Thorac Surg; 78:471– 6.
Lytle BW, Blackstone EH, Sabik JF, Houghtaling P, Loop FD,
Cosgrove DM. (2004) The Effect of Bilateral Internal Thoracic
Artery Grafting on Survival During 20 Postoperative Year.
Ann Thorac Surg 2004; 78:2005–14
Momin AU, Deshpande R, Potts J, El-Gamel A, Marrinan MT,

Omigie J, Desai JB. (2005) Incidence of Sternal Infection in
Diabetic Patients Undergoing Bilateral Internal Thoracic
Artery Grafting. Ann Thorac Surg 2005; 80:1765–72
Muneretto C, Bisleri G, Negri A, Manfredi J, Metra M, Nodari
S, Dei Cas L. (2003) Off-Pump Coronary Artery Bypass
Surgery Technique for Total Arterial Myocardial
Revascularization: A Prospective Randomized Study. Ann
Thorac Surg 2003;76:778–83.
Naylor AR, Cuffe RL, Rothwell PM, Bell PR. (2003) A
systematic review of outcomes following staged and

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014

387


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014

Nghiên cứu Y học

17.

18.

19.

20.

21.


22.

23.

388

synchronous carotid endarterectomy and coronary artery
bypass. Eur J Vasc Endovasc Surg; 25:380 –9.
Ochi M, Hatori N, Bessho R, Fujii M, Saji Y, Tanaka S, Honma
H. (2001) Adequacy of Flow Capacity of Bilateral Internal
Thoracic Artery T Graft. Ann Thorac Surg 2001;72:2008 –12
Paterson HS, French BG, Puttaswamy V, et al.: (2014)
Combined bilateral carotid endarterectomy and coronary
bypass surgery. J cardiovascular disease. 2014 2(2): 123-128.
Phạm Hữu Minh Nhựt (2007) Đánh giá kết quả sớm phẫu
thuật bắc cầu động mạch ở bênh nhân tổn thương 3 nhánh
mạch vành. Luân văn tốt nghiệp thạc sĩ y học.
Stevens LM, Carrier M, Perrault LP, Hebert Y, Cartier R,
Bouchard D, Fortier A, El-Hamamsy I, Pellerin M. (2004)
Single versus Bilateral Internal Thoracic Artery Grafts with
Concomitant Saphenous Vein Grafts for Multivessel Coronary
Artery Bypass Grafting: Effects on Mortality and Event-Free
Survival. J Thorac Cardiovasc Surg 2004;127: 1408-15.
Tector AJ, McDonald ML, Kress DC, Downey FX, Schmahl
TM (2001) Purely Internal Thoracic Artery Grafts: Outcomes.
Ann Thorac Surg; 72:450 –5.
Trần Quyết Tiến (2007) Ghép mạch trong mổ bắc cầu động
mạch vành tim. Y học TP Hồ Chí Minh. Chuyên đề Ngoại
khoa.11: 334-40.
Ueda T, Taniguchi S, Kawata T, Mizuguchi K, Nakajima M,

Yoshioka A. (2003) Does Skeletonization Compromise the

24.

25.

26.

Integrity of Internal Thoracic Artery Grafts? Ann Thorac
Surg;75:1429 –33
Uva MS, Braunberger E, Fisher M, Fromes Y, Deleuze PH,
Celestin JA, Bical OM (1998) Does Bilateral Internal Thoracic
Artery Grafting Increase Surgical Risk in Diabetic Patients?
Ann Thorac Surg;65:2051–5.
Wendler O, Hennen B, Markwirth T, König J, Tscholl D, Qi
Huang, Shahangi E, Schäfers HJ. (1998) T Grafts with the
Right Internal Thoracic Artery to Left Thoracic Artery Versus
the Left Internal Thoracic Artery and Radial Artery - Flow
Dynamics in the Internal Thoracic Artery Main Stem. J Thorac
Cardiovasc Surg 1999;118:841-848.
Zeitani J, de Peppo AP,De Paulis L, Nardi P, Scafuri A,
Nardella S, Chiariello L. (2006) Benefit of Partial RightBilateral Internal Thoracic Artery Harvesting in Patients at
Risk of Sternal Wound Complications. Ann Thorac Surg
2006;81:139–44.

Ngày nhận bài báo: 01-05-2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11-05-2014
Ngày bài báo được đăng: 20-05-2014

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014




×