Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Điều trị phẫu thuật bệnh hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.06 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014

Nghiên cứu Y học

ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BỆNH HỞ VAN HAI LÁ
BẨM SINH ĐƠN THUẦN
Văn Hùng Dũng*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ và kỹ
thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật hở van hai lá bẩm sinh
theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 85 bệnh nhân hở van hai lá bẩm sinh được phẫu thuật theo phương
pháp sửa van hai lá của Carpentier.
Kết quả: Tuổi trung bình là 8,9 tuổi ( 6 tháng - 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 31 trường
hợp (36,5%). Nam giới 42 (49,4%). Siêu âm tim qua thành ngực chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh
trong 40% trường hợp. Tạo hình van chiếm 83 trường hợp (97,6%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo.Số
kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp
(75,3%) có dặt vòng van nhân tạo. Biến chứng gần sau mổ thấp ( suy tim nặng 5, rối loạn nhịp tim 12, suy thận
cấp 1, nhiễm khuẩn huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,1% (1 trường hợp). So sánh trước và sau mổ
sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van hai lá : trước mổ (100% đều hở van nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ
85,7% (72), hở trung bình 14% (12) và hở nặng 1,2%, p < 0,001. Thời gian theo dõi trung bình 108 ± 67,5 tháng
4,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 18 tháng và dài nhất 19 năm) có 7 BN hở
van tim nặng tái phát, 15 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 7 BN phải mổ lại vì hở van tái phát
(từ 1 đến 180 tháng sau mổ). Tử vong muộn chỉ 1 trường hợp do xuất huyết não. Tỉ lệ còn sống thực tế sau 19
năm theo dõi là 94,1 ± 2,5%. Tỉ lệ thực tế BN không bị mổ lại sau 19 năm theo dõi là 83 ± 5,3%.
Kết luận: Hở van 2 lá có nguyên nhân bẩm sinh là một bệnh lý phức tạp và khó chẩn đoán chính xác trước
mổ. tao 5hi2nh van là chọn lựa chủ yếu đối với hở van 2 lá bẩm sinh ở trẻ em, kết quả điều trị phẫu thuật theo
phương pháp carpentier về dài hạn rất tốt.
Từ khóa: Hở van hai lá.


ABSTRACT
SURGICAL TREATMENT FOR ISOLATED CONGENITAL MITRAL REGURGITATION
Van Hung Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 6 - 2014: 81 - 86
Objective: Surgical treatment for congenital mitral regurgitation especially in young children often
encounter many difficulties because of small surgical field and limited techniques used. This study determines the
long-term result of the surgical treatment for isolated congenital mitral regurgitation with Carpentier’s
techniques
Methods: A retrospective study from Feb 1993 to Dec 2010, 85 patients with isolated congenital mitral
regurgitation were operated with Carpentier’s techniques at The Heart Institute of HCM City, Viet Nam.
Results: Mean age was 8.9 years (range from 0.5 to 45 years old), among them there were 31 patients
(36.5%) under 6 year of ages. Female patients was 43 (51.6%). Diagnosis pre-op by echocardiography was exact
only in 40% patients.Valve repair was performed sucessfully in 97.6% and only 2 cases had to change the native
valve by prosthetic valve. The mean number of techniques per patients is 2,5 (min 1, max 5), Carpentier-Edwards
rigid ring was used in 64 patients (75.3%). Immediate postoperative complications were low (severe LCO 5.9%,
arrhythmias 14%, severe infection 4.7% and re-operation 1.1%). 30-day mortality rate was only 1 patient
(1.1%). The mean time of follow-up was 108 ± 67.5 months( 18 – 228 months).4.8% patients has losted
* Viện tim Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. BS Văn Hùng Dũng,

ĐT: 0917882488,

Email:

81


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014


followup.During follow-up, 7 patients need to re-operation (1- 130 months).Evaluation MR by echocardiography
at the last follow-up showed 7 patients were severe MR, 15 others were moderate MR and the rest were mild or no
MR. Actuarial rate of freedom from re-operation at 19-year follow-up was 83 ± 5.3%. Late death was one patients
. Actuarial rate of survival at 19 year was 94.1 ± 2.5%
Conclusion: Isolated congenital MR is always complex and difficult to diagnose before operation. In almost
cases, mitral valve repair should be the primary choice to congenital MR. Mitral valve repair in children with
Carpentier’s techniques has very good long-term results with very low mortality and acceptable re-operation rate.
Key words: Mitral regurgitation (MR).

MỞ ĐẦU

Mục tiêu nghiên cứu

Hở van hai lá có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi
nào từ sơ sinh cho đến người lớn tuổi và có thể
do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hở van hai
lá có thể đơn thuần là một bệnh duy nhất hoặc
kết hợp với các thương tổn van tim khác hoặc
dị tật tim khác. Chẩn đoán có hở van hai lá
nặng thì không khó với phương tiện hiện nay
nhưng chẩn đoán đúng nguyên nhân gây hở
van thì không đơn giản. Trên siêu âm tim, tuỳ
theo nguyên nhân gây hở van sẽ có các hình
ảnh chẩn đoán khá đặc thù. Các dạng tổn
thương của lá van, vòng van và bộ máy dưới
van phối hợp hoặc không đi kèm với các dị tật
tim khác sẽ giúp chẩn đoán nguyên nhân.Tóm
tắt có thể chia làm 5 nhóm nguyên nhân gây
hở van hai lá như sau:


Phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh
thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ
và kỹ thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này
nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật
hở van hai lá bẩm sinh theo phương pháp
Carpentier tại Viện Tim TP.HCM.

-Hở van hai lá do viêm nhiễm: hậu thấp,
viêm nội tâm mạc.
-Hở van 2 lá do thoái hoá: bệnh thoái hoá
nhày, bệnh Barlow, hội chứng Marfan.
-Hở van 2 lá bẩm sinh: đơn thuần hoặc phối
hợp với dị tật khác.
-Hở van 2 lá do thiếu máu cơ tim: sau nhồi
máu, hội chứng ALCAPA.
-Hở van 2 lá do nguyên nhân khác: chấn
thương, u nhầy.
Tại Việt Nam, hở van tim 2 lá bẩm sinh đơn
thuần thường được nghĩ tới ở trẻ nhũ nhi, trẻ
nhỏ dưới 5 tuổi. Với trẻ lớn hơn hở van tim 2 lá
đơn thuần do nguyên nhân hậu thấp.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát
những trường hợp hở van hai lá bẩm sinh đơn
thuần ở mọi lứa tuổi được mổ.

82

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu, cắt dọc. Thu thập các kết quả trước
trong và sau mổ đồng thời phân tích các khối dữ

liệu thu được trong quá trình theo dõi bệnh
nhân về dài hạn.
Dân số chọn mẫu là tất cả bệnh nhân được
phẫu thuật tại viện tim thành phố hồ chí minh từ
tháng 2năm 1993 đến hết tháng 2010 với chẩn
đoán sau mổ là hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần.
Loại trừ các bệnh nhân hở van hai lá do nguyên
nhân khác hoặc hở van hai lá bẩm sinh phối hợp
với các dị tật tim khác như: thông liên thất,
thông liên nhĩ, còn ống động mạch.
Các khối dữ liệu cần thu thập bao gồm: các
đặc điểm bệnh lý trước mổ, chẩn đoán dạng tổn
thương và nguyên nhân hở van hai lá trong mổ,
thời gian theo dõi và kết quả siêu âm tim xa nhất
sau mổ cũng như các biến cố ghi nhận được
trong quá trình theo dõi.
Các biến định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.
Các biến định tính, các biến cố liên quan
được trình bày đưới dạng tần suất phần trăm và
hoặc tần suất đường thẳng (linearized rate).
Tỷ lệ bệnh nhân còn sống đến cuối quá trình
theo dõi cũng như tỷ lệ bệnh nhân không gặp
biến cố liên quan được trình bày theo biểu đồ
Kaplan-Meier.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014

Nghiên cứu Y học


Phân tích kết quả thống kê được thực hiện
bằng chương trình SPSS for Window phiên
bản 13.0.

(15%), 3. Hội chứng dây chằng ngắn hạn chế việc
đóng kính của lá van trong kỳ tâm thu và 4. Tồn
tại chẻ của lá van (15%).

KẾT QUẢ

Tạo hình van chiếm 83 trường hợp (97,6%),
hai trường hợp còn lại phải thay van nhân tạo.
Một trường hợp van có dạng Hammock Parachute phải thay van ngay từ đầu. trường
hợp còn lại tạo hình van cho kết quả không tốt
và BN được thay van ngay sau đó.

Từ tháng 2 năm 1993 đến hết tháng 12 năm
2010, tại Viện Tim thành phố Hồ chí Minh chúng
tôi đã mổ cho 85 trường hợp hở van 2 lá bẩm
sinh đơn thuần. Tuổi trung bình là 8,9 tuổi ± 7,6
năm (nhỏ nhất 6 tháng và thấp nhất 45 tuổi) ,
trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 31 trường
hợp (36,5%). Trẻ em dưới 16 tuổi chiếm đa số với
71 trường hợp. Nam giới: 42 (49,4%).
Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán
chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40%
trường hợp. các trường hợp còn lại, nguyên
nhân hở van do bẩm sinh được chẩn đoán trong
mổ với các tổn thương đặc trưng như van hai lá

có dạng 2 lỗ, toàn tại chẻ lá van trước hoặc van
sau. (mitral valve cleft), thiếu dây chằn bờ, hội
chứng dây chằng ngắn. Trong các trường hợp
tồn tại chẻ lá van, chỉ 2 BN có chẻ lá không hoàn
toàn còn lại 13 trường hợp có chẻ hoàn toàn và
không có day chằn treo. Tất cả các trường hợp
được mổ với hở van 2 lá nặng trước mổ. có 2
đường tiếp cận van 2 lá. ở người lớn, vào van hai
lá qua đường xẻ chọn lọc trên nhĩ trái. Ở trẻ em,
van hai lá được bộc lộ qua đường xẻ vách liên
nhĩ theo hình vòng cung hướng về tĩnh mạch
phổi phải.
Bảng 1: Thương tổn van hai laù tìm thấy trong lúc
mổ.
Dang tổn thương
Dãn vòng van
Chẻ lá van trước
Chẻ lá van sau
Thiếu dây chằng: lá van trước
lá van sau
Dài dây chằng (lá van trước)
Hội chứng dây chằng ngắn
Dính mép van
Van hai lá dạng 2 lỗ
Van dạng Hammock- Parachute

Số TH
81
11
4

50
13
10
12
3
2
1

%
95,3
11,7
3,9
58,8
15,3
11,7
14,1
3,5
2,3
1,1

* Nhận xét: Phân tích bảng 1 cho thấy 4 dạng
tổn thương chính yếu trong hở van hai lá bẩm
sinh đơn thuần là 1. dãn vòng van, 2. thiếu dây
chằng bờ của lá van trước (59%) và lá van sau

Hình 1: Chẻ lá trước van hai lá: trước và sau khi
phẫu thuật tạo hình van.
* Nhận xét: Chúng tôi áp dụng chủ yếu các
kỹ thuật sửa van của Carpentier, các kỹ thuật
này được liệt kê trong bảng 2. Số kỹ thuật

trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân
là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64
trường hợp (75,3%) có đặt vòng van nhân tạo
Carpentier-Edward. Các trường hợp còn lai
được tạo hình vòng van sau bằng một dải
màng ngoài tim hoặc Teflon.

83


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014

Nghiên cứu Y học
Bảng 2: Các kỹ thuật tạo hình van hai lá được áp
dụng.
Kỹ thuật mổ
Tạo hình vòng van với vòng CE
Tạo hình vòng van sau bằng màng
ngoài tim hoặc PTFE
Đóng chẻ van 2 lá
Cắt tam giác lá van trước
Cắt tứ giác lá van sau
Nới rộng lá van trước bằng màng
ngoài tim
Rút ngắn dây chằng
Chuyển vị dây chằng
Bờ hoá dây chằn
Khâu gấp mô van
Cắt mép van
Xẻ cửa số dây chằng

Tách trụ cơ

Số TH
64

%
75,3

19

22,3

15
24
13
10
7
23
6
4
3
2
3

17,6
32
15,3
11,7
8,2
27

7
4,7
3,5
2,3
3,5

* Nhận xét: Biến chứng gần sau mổ thấp:
suy tim nặng 5, rối loạn nhịp tim 12 (chủ yếu
là nhịp chậm xoang hoặc nhịp bộ nối: 10
trường hợp, 2 trường hợp còn lại bị rung nhĩ
tạm thời sau mổ), suy thận cấp 1 trường hợp
(cần làm thẩm phân phúc mạc), nhiễm khuẩn 4
(nhiễm khuẩn huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong
phẫu thuật là 1,2% (1 trường hợp do nhiễm
khuẩn huyết dẫn đến suy đa cơ quan).

Hình 2 : Van hai lá dạng 2 lỗ.
Thời gian thở máy TB là 20 ± 45 giờ, và thời
gian nằm hồi sức TB là 2,2 ± 1,8 ngày (1- 18
ngày).
So sánh trước và sau mổ sớm, có sự giảm có
ý nghĩa độ hở van 2 lá : trước mổ (100% hở
nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ
85,7%(72), hở trung bình 14%(12) và hở nặng
1,2%, p< 0,001.

84

Thời gian theo dõi trung bình là 108 ± 67,5
tháng. 3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm

theo dõi sau cùng (ngắn nhất 18 tháng và dài
nhất 19 năm) có 6 BN hở van nặng tái phát, 4
hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không
hở. 6 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 11
đến 130 tháng sau mổ) và một BN mổ lại vì
thoái hóa van sinh học. Tử vong muộn: 2
trường hợp (1 do nhũn não tái phát vào tháng
thứ 50 sau mổ và 1 không rõ nguyên nhân). Tỉ
lệ còn sống thực tế sau 19 năm theo dõi là 94,1
± 2,5% . Tỉ lệ thực tế BN không bị mổ lại sau 19
năm theo dõi là 83 ± 5,3%.

BÀN LUẬN
Chọn thời điểm mổ lần đầu: hiện nay với các
trường hợp hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần đặc
biệt là ở trẻ nhũ nhi đa số các tác giả đều đồng ý
nên trì hoãn thời điểm mổ, nói khác đi là chỉ xét
chỉ định phẫu thuật khi trẻ càng lớn càng tốt. Chỉ
một số ít các trường hợp cần phẫu thuật sớm khi
trẻ có biểu hiện suy tim tiến triển nặng không
đáp ứng điều trị nội khoa(8,11,14,16).
Chẩn đoán nguyên nhân hở nặng van hai lá
trước mổ: để chẩn đoán chính xác nguyên nhân
hở van 2 lá đơn thuần do nguyên nhân bẩm sinh
thường không dễ nếu chỉ có siêu âm tim. Hở van
hai lá đi kèm với các dị tật tim bẩm sinh khác
như còn ống động mạch, thông liên thất, thông
liên nhĩ, đa phần có nguyên nhân bẩm sinh tuy
nhiên ở người lớn, trẻ em dạng hở van kết hợp
này hợp này vẫn có nguyên nhân hậu thấp hoặc

viêm nội tâm mạc. Chính vì vậy, chẩn đoán
chính xác là hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần
chỉ thực hiện ngay ngay trong mổ với các
thương tổn đặc thù như đã nêu trên. Trong
nghiên cứu này, chỉ khoảng 40% số trường hợp
của chúng tôi được chẩn đáon đúng nguyên
nhân gây hở trước mổ. Các tác giả nước ngoài
khác không nêu rõ tỉ lệ chẩn đoán đúng nguyên
nhân hở van trước mổ nhưng đưa ra một số dấu
chứng siêu âm đặc thù giúp gợi ý chẩn
đoán(1,4,5,9). Hiện nay việc chẩn đoán dạng tổn
thương van hai lá sẽ dễ dàng và đầy đủ hơn nếu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014
sử dụng siêu âm qua ngã thực quản kết hợp với
siêu âm 3D.
Sửa van hay thay van: tạo hình van luôn
luôn là chọn lựa ưu tiên cho đại đa số trường
hợp đặc biệt là ở trẻ em nhỏ. Quan diểm này gần
như đã được thống nhất mặc dù có rất nhiều kỹ
thuật tạo hình van khác nhau được áp dụng với
kết quả rất khác nhau. Nhiều tác giả chấp nhận
một mức độ hở van tồn lưu trung bình và sau đó
tiếp tục mổ lại cho bệnh nhi với mục tiêu là đợi
cho bệnh nhi đủ lớn để có thể thay được một
van nhân tạo với kích cỡ phù hợp (từ 23-25 mm
trở lên)(2,8,11,13,17).
Có nên đặt vòng van nhân tạo ở trẻ em hay
không ? Có thể tạo hình vòng van đã bị dãn hay

đã biến dạng của bệnh nhi bằng nhiều kỹ thuật
khác nhau. Tuỳ vào lứa tuổi lúc được mổ hay độ
dãn của vòng van, độ lớn của trái thất và còn tuỳ
thuộc vào chọn lựa của bác sĩ phẫu thuật sẽ có
nhiều phương pháp để tạo hình vòng van khác
nhau như chỉ tạo hình vùng hai mép van(13), tạo
hình thu nhỏ vùng vòng van sau bằng 1 dãi
Teflon(13,16) hoặc dải màng ngoài tim tự thân , tạo
hình toàn bộ bằng vòng van nhân tạo(2,6,17) hoặc
bằng vòng van sinh học tự tiêu của Kalangos(3)
mục tiêu lớn nhất của việc đặt vòng van là giảm
thiểu mức độ hở van tồn lưu sau mổ cũng như
kéo dài tính ổn định của phẫu thuật tạo hình
van. Nghiên cứu của Chauvaud và Opido cho
thấy tỉ lệ mổ lại ở BN có đặt vòng van lần lượt là
11,4% và 0% trong khi tỉ lệ mổ lại ở BN không
đặt vòng van lần lược là 40% và 27%. Nghiên
cứu của chúng tôi, tỉ lệ mổ lại trên bệnh nhân BN
có và không đặt vòng van nhân tạo lần lượt là
2,7% và 21% (p< 0,001). Các số liệu này chứng
minh vai trò quan trọng của vòng van nhân tạo
trong phẫu thuật tạo hình van hai lá. Tuy nhiên,
khi trẻ lớn lên vòng van nhân tạo không tiêu sẽ
là vật cản và là tác nhân gây hẹp van 2 lá thư
phát . Vấn đề này chỉ thậ t sự nghei6m trọng khi
phải đặt 1 vòng van nhân tạo khá nhỏ cỡ 16-18
mm cho bệnh nhi nhỏ cân. Với kích cỡ này khi
phải mổ lại để thay van nhân tạo thì khó mà có
thể đặt được cỡ van lớn. Trong nhóm BN nghiên


Nghiên cứu Y học
cứu của chúng tôi, 3 BN được mổ lại với vòng
van nhân tạo được đặt trước đó lần lượt là 18, 20,
20 khi mổ lại cả ba BN này đều được lấy bỏ vòng
van nhân tạo và mô xơ xâm lấn, tách dây chằng
và tạo hình vòng van sau bằng một dải màng
ngoài tim gấp đôi. Thực tế khi lấy bỏ vòng van
nhân tạo cũ và mô xơ xâm lấn, chúng tôi thấy
vòng van của BN vẫn dãn ra và mô van vẫn còn
mềm đặc biệt là lá van trước. Chính điều này
khích lệ việc tạo hình van lần nữa với mục đích
chờ bệnh nhi lớn lên. Cả ba BN này đều có hở
van 2 lá mức độ ¼ sau mổ 1 năm.

KẾT LUẬN
Chẩn đoán hở van hai lá bẩm sinh trước mổ
thường không dễ dàng. Đối với người có nhiều
kinh nghiệm thường tìm các dấu hiệu đặc trưng
và phối hợp với phương pháp loại trừ.
Cho đến nay, phẫu thuật tạo hình bảo tồn
van là chọn lựa tối ưu cho đa số trường hợp đặc
biệt ở trẻ nhũ nhi . Trong các trường hợp phức
tạp, việc phẫu thuật lại để tái tạo hình tạo hình
van có thể thực hiện nhằm chờ bệnh nhi đủ lớn
để có thể thay van nhân tạo.
Phẫu thuật tạo hình van hai lá theo phương
pháp Carpentier cho kết quả rất tốt về dài hạn
với tỉ lệ tử vong muộn và tỉ lệ mổ lại thấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2.

3.

4.

5.

6.

Abadir S, Fouilloux V, Metras D, Ghez O, Kreitmann B and
Fraisse A (2009). Isolated Cleft of the Mitral Valve: Distinctive
Features and Surgical Management . Ann Thorac Surg,88: pp
839-843.
Chauvaud S, Fuzellier JF, Houel R, Berrebi A, Mihaileanu S
(1998). Reconstructive surgery in congenital mitral valve
insufficiency (Carpentier’s techniques): Long-term results. J
Thorac Cardiovasc Surg,115: pp 84-93.
Cikirikcioglu M, Pektok E, O Myers P, Christenson JT, Kalangos
A (2008).Pediatric mitral valve repair with the novel
annuloplasty ring : KALANGOS-BIORING®.Asian Cardiovasc
Thorac Ann, 16:pp 515-516.
Creech O, Ledbetter MK, Reemtsma K (1962). Congenital Mitral
Insufficiency with Cleft Posterior Leaflet. Circulation, 25; pp
390-394.
Federici D, Palmerini E, Lisi M, Centola L, Chiavarelli M and
Mondillo S (2010). Congenital Mitral Disease: Anomalous Mitral
Arcade in a Young Man. Ann Thorac Surg, 89: pp 629-631.

Fuzellier JF, Chauvaud SM, Fornes P, Berrebi AJ, Lajos PS,
Bruneval P and Carpentier AF (1998). Surgical management of
mitral regurgitation associated with Marfan’s syndrome Ann
Thorac Surg, 66:pp 68-72.

85


Nghiên cứu Y học
7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

86

Kanter KR, Forbess JM and Kirshbom PM (2005). Redo Mitral
Valve Replacement in Children. Ann Thorac Surg, 80: pp 642646 .
Lee C, Lee CH, Kwak JG, Park CS, Kim SJ, Song JY and Shim
WS (2010). Long-term results after mitral valve repair in
children. Eur J Cardiothorac Surg,37:pp 267-272.

Lorussoa R, Borghettia V, Totaroa P, Parrinellob G, Colettia G,
Minzioni G (2001). The double-orifice technique for mitral valve
reconstruction :predictors of postoperative outcome. Eur J
Cardio-thorac Surg, 20: pp 583-589.
Maisano F, Redaelli A, Pennati G, Fumero R, Torracca L and
Alfieri O (1999). The hemodynamic effects of double-orifice
valve repair for mitral regurgitation: a 3D computational model.
Eur J Cardio-thorac Surg, 15:pp 419-425.
McCarthy JF, Neligan MC, Wood AE (1996). Ten year
experience of an aggressive reparative approach to congenital
mitral valve anormalies. Eur J Cardiothorac Surg,10:pp 534-539.
Minami K, Kado H, Sai S, Tatewaki H, Shiokawa Y, Nakashima
A, Fukae K, Hirose H. (2005). Midterm results of mitral valve
repair with artificial chordae in children. J Thorac Cardiovasc
Surg,129:pp 336-42.
Ohno H, Imai Y, Terada M, and Hiramatsu T (1999). The LongTerm Results of Commissure Plication Annuloplasty for
Congenital Mitral Insufficiency.Ann Thorac Surg, 68:pp 537– 41.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014
14. Opido G, Davies B, McMullan M, Cochrane AD et al (2008).
Surgical treatment of congenital mitral valve disease:midterm
results of a repair-oriented policy.J Thorac Cardiovasc Surg,
135:pp 1313-21
15. Prifti E, Vanini V, Bonacchi M, Frati G, Bernabei M, Giunti G, et
al (2002). Repair of Congenital Malformations of the Mitral
Valve: Early and Midterm Results. Ann Thorac Surg, 73:pp 614
–21.
16. Wood AE, Healy DG, Nolke L, Duff D, Oslizlok P and Walsh K
(2005). Mitral valve reconstruction in a pediatric population:
Late clinical results and predictors of long-term outcome. J

Thorac Cardiovasc Surg,130: pp 66-73.
17. Zegdi R, Amahzoune B, Ladjali M, Sleilaty G, Jouan J,
Latremouille C, Deloche A and Fabiani JN (2008). Congenital
mitral valve regurgitation in adult patients. A rare, often
misdiagnosed but repairable valve disease. Eur J Cardiothorac
Surg, 34:pp 751-754 .

Ngày nhận bài báo

09-09-2014.

Ngày phản biện đánh giá bài báo

05-10-2014.

Ngày bài báo được đăng:

14-11-2014.



×