Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Các biện pháp tăng nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng tại học viện hành chính quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

Các biện pháp tăng nguồn tài chính cho đào tạo,
bồi dưỡng tại Học viện Hành chính Quốc gia

luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC

Hµ néi - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

Các biện pháp tăng nguồn tài chính cho đào tạo,
bồi dưỡng tại Học viện Hành chính Quốc gia

Mã số

: 60 14 05

luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quang Sáng

Hµ néi - 2008



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay “tri thức là sự giàu có” và lợi thế so sánh trong cạnh
tranh kinh tế phụ thuộc vào kiến thức và tri thức của con người. Điều này
càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Sức
mạnh trí tuệ là yếu tố quyết định sự thành bại, “lao động có kỹ năng sẽ trở
thành lợi thế so sánh lâu dài” và “kỹ năng là vũ khí cạnh tranh quyết định
trong thế kỷ XXI”.
Đầu tư vào giáo dục và đào tạo sẽ tích luỹ vốn con người, sẽ cung cấp
nguồn nhân lực có trình độ cao và chất lượng cao. Đội ngũ nhân lực có trình
độ cao là chìa khoá để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập. Đặc
biệt đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tiến trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước (mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ
bản sẽ trở thành một nước công nghiệp), giáo dục và đào tạo đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội.
Từ 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, song song
với quá trình này là sự mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Khi hội
nhập kinh tế quốc tế, bộ máy quản lý Nhà nước phải điều chỉnh để có những
cơ cấu, thể chế tương thích. Nếu vào một cuộc chơi chung mà riêng mình
một bài riêng thì chắc chắn là không “ăn”. Chúng ta phải tự điều chỉnh, đó là
tất yếu. Nhà nước trước đây quản lý cả về vĩ mô và vi mô thì bây giờ xác
định chỉ quản lý vĩ mô toàn xã hội thông qua việc sử dụng công cụ để điều
tiết chung. Vấn đề này sẽ được tách bạch và đây chính là mục tiêu của cải
cách hành chính. Yêu cầu hàng đầu hiện nay là làm rõ chức năng, Nhà nước
sẽ làm đúng việc của mình, đó là làm chính sách, làm pháp luật, làm cơ chế,
làm tiêu chuẩn chung của xã hội, sau đó hướng dẫn xã hội, thanh tra và kiểm

1



soát nó. Một trong những thách thức lớn nhất của quá trình chuyển đổi này là
mâu thuẫn giữa yêu cầu của quá trình hội nhập với trình độ. Trình độ nền
hành chính của Việt Nam so với khu vực và thế giới còn kém.
Nhận thức rõ mâu thuẫn này, một trong những giải pháp đưa ra đó là
đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức. Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Quyết định số
161/2003/QĐ-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2003). Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Nội
vụ đã ban hành "Quy định các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và
kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức" (Quyết định số
13/2006/QĐ-BNV ngày 06 tháng 10 năm 2006).
Học viện Hành chính Quốc gia được thành lập từ 1959 đến nay và
ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao
kiến thức và kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ, công chức. "Học viện Hành
chính Quốc gia là Trung tâm Quốc gia, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tổ
chức bộ máy biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật; thực hiện các
chức năng: đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước, các chức danh công chức hành chính các cấp, cán bộ, công chức cơ sở,
công chức dự bị, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên các chuyên ngành hành
chính và quản lý nhà nước; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho
Chính phủ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước.
Nhu cầu đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức thì lớn, trong khi đó khả
năng đầu tư của ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, Nhà nước không thể bao
cấp toàn bộ cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức. Trong nền
kinh tế thị trường, áp lực về cải cách tài chính cho đào tạo bồi dưỡng lực
lượng lao động của cả nước nói chung và cán bộ công chức nói riêng đã tăng
lên ở hầu hết các nơi trên thế giới. Những giải pháp nhằm khắc phục sự khan
hiếm về nguồn vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu


2


tư, sẽ được tìm ra cho các cơ sở đào tạo với điều kiện khung chính sách cho
các hoạt động phải được cải cách một cách cơ bản và các cơ sở đào tạo ngày
càng phải năng động hơn trong việc tìm kiếm và gia tăng nguồn lực đầu tư
cho đào tạo và bồi dưỡng.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn tài chính và để cho hoạt
động đào tạo của Học viện ngày càng đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho sự nghiệp đổi mới quản lý
nhà nước, kết hợp với những kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình công
tác, đề tài "Các biện pháp tăng nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng tại
Học viện Hành chính Quốc gia" vừa nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết
và có tính thời sự trong tình hình hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định các cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của việc
quản lý huy động nguồn lực tài chính, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý
nhằm tăng nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện Hành chính
Quốc gia (HCQG) trong bối cảnh mới.
3. Khách thể nghiên cứu
Các nguồn tài chính có khả năng huy động cho đào tạo, bồi dưỡng ở
Học viện HCQG
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình quản lý nhằm tăng nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng ở
Học viện HCQG trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò của đào tạo,
bồi dưỡng; tầm quan trọng của các nguồn tài chính và việc quản lý huy động
các nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
3



Phân tích tình hình các nguồn tài chính và thực trạng công tác quản lý
nhằm tăng nguồn tài chính cho phát triển đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện
HCQG.
- Đề xuất về một số biện pháp về đổi mới công tác quản lý nhằm tăng
nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện HCQG
- Khảo nghiệm tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất
thông qua phiếu hỏi ý kiến các chuyên gia và cán bộ quản lý.
6. Giả thuyết khoa học
Trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước cấp cho đào tạo, bồi dưỡng
không tương ứng với việc mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng; việc huy
động các nguồn tài chính ngoài ngân sách có kết quả tích cực hơn dựa trên
quan điểm cho rằng cần xây dựng và hoàn thiện các phương án thực hiện chế
độ tự chủ, trách nhiệm xã hội và quy chế chi tiêu nội bộ của Học viện HCQG.
7. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo, bồi dưỡng
của Học viện HCQG được nghiên cứu chủ yếu đối với các nguồn kinh phí
cấp cho chi thường xuyên không đi sâu vào nguồn cấp cho đầu tư xây dựng
cơ bản; và nghiên cứu các nguồn tài chính dưới góc độ quản lý tài chính. Đối
với các khoản chi phí của người học (chi phí tư nhân) cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng chủ yếu đề cập tới khoản đóng góp của người học cho cơ sở đào
đào tạo dưới hình thức học phí không đi sâu nghiên cứu tất cả các chi phí của
người học cho quá trình đào tạo.
Về thời gian: Tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 2002 đến nay (từ
khi có Nghị định số 10/2002/ NĐ -CP - dấu hiệu bắt đầu tăng quyền tự chủ
và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở đào tạo).

4



8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp
các phương pháp nghiên cứu sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Sưu tầm sách, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
-

Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu để xây dưng cơ sở lý luận của

vấn đề nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học (sử dụng bảng câu hỏi trong đánh giá
các quy định hiện hành của Học viện và các khả năng tăng nguồn tài chính
cho đào tạo bồi dưỡng)
- Phương pháp thu thập và phân tích số liệu thống kê (về quy mô đào tạo,
bồi dưỡng; về nguồn thu)
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý
- Phương pháp hỏi ý kiến các chuyên gia.
9. Cấu trúc luận văn
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhằm tăng nguồn tài chính của các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Chƣơng 2: Đánh giá công tác quản lý huy động các nguồn tài chính cho
phát triển đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện Hành chính Quốc gia
Chƣơng 3: Các biện pháp quản lý nhằm tăng nguồn tài chính cho phát
triển đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện Hành chính Quốc gia trong bốí cảnh
mới

5



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHẰM TĂNG NGUỒN
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC
1.1 Đào tạo, bồi dƣỡng và các chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ,
công chức
1.1.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng và cán bộ, công chức
1.1.1.1. Đào tạo
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định góp phần của
mình vào sự phát triển của xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài
người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với
giáo dục nhân cách.” [31, tr 289]
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt được
các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực
để thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết. Như
vậy, đào tạo là sự phát triển có hệ thống những kiến thức kỹ năng của mỗi
người có thể thực hiện tốt nghề nghiệp hay nhiệm vụ của mình.
Có nhiều cách phân loại về đào tạo:
- Theo nội dung, đào tạo được phân thành đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo
tiếp tục;
- Theo trình độ, đào tạo có thể được phân thành đào tạo nghề, đào tạo chuyên
nghiệp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và đào tạo sau đại học;
- Theo hình thức, đào tạo được phân thành đào tạo chính quy, đào tạo tại
chức, đào tạo từ xa.
6



1.1.1.2. Bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình giảng dạy, truyền thụ kiến thức nhằm củng cố,
hoàn thiện và tăng thêm các kiến thức đã được đào tạo. Đây là quá trình có hệ
thống, có tính hướng đích nhằm gia tăng khả năng đạt được mục tiêu của tổ
chức (không phải mục tiêu tự thân của người được bồi dưỡng). Bồi dưỡng
cán bộ công chức là nhằm nâng cao kỹ năng và năng lực liên quan đến công
việc đang thực hiện, không chỉ cho người lao động.
Như vậy, bồi dưỡng có mục đích là củng cố, hoàn thiện và tăng thêm
các kiến thức đã được đào tạo. Về khía cạnh văn bằng, chứng chỉ: sau khi tốt
nghiệp đào tạo (đào tạo dài hạn), người tốt nghiệp thường nhận được bằng tốt
nghiệp theo các trình độ đào tạo tương ứng (trung cấp, cao đẳng, đại học,
thạc sĩ, tiến sĩ); sau khi hoàn thành khóa bồi dưỡng người học có thể nhận
được chứng chỉ - xác nhận kết quả học tập sau khi được bồi dưỡng nâng cao
trình độ học vấn, nghề nghiệp. Chứng chỉ cũng được dùng để cấp cho những
người đã hoàn thành khóa đào tạo ngắn hạn.
1.1.1.3. Cán bộ, công chức
Theo quy định của Pháp lệnh Cán bộ công chức năm 1998 đã được sửa
đổi bổ sung năm 2001, cán bộ công chức là công dân Việt Nam, trong biên
chế, bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

7



- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm
kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí
thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
1.1.2. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Phân theo đối tượng người được đào tạo, bồi dưỡng
- Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng, nghiệp vụ
hành chính và quản lý nhà nước cho các các ngạch ngạch chuyên viên
- Các chương trình bồi dưỡng kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước,
quản lý hành chính đối với đại biểu Hội đồng nhân dân
- Chương trình đào tạo tiền công vụ cho công chức dự bị

8


- Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên về chuyên

ngành hành chính và quản lý nhà nước.
Phân theo hình thức, trình độ đào tạo và bồi dưỡng:
- Đào tạo (dài hạn) chính quy, không chính quy lấy bằng cử nhân và văn
bằng sau đại học thuộc các chuyên ngành hành chính và quản lý nhà nước;
- Bồi dưỡng (hoặc đào tạo ngắn hạn) lấy chứng chỉ của các chuyên
ngành hành chính và quản lý nhà nước.
1.1.3. Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay
Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức gắn liền với
việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức. Cán bộ công chức là
một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của công cuộc
đổi mới ở nước ta. Chất lượng của đội ngũ này thể hiện ở kiến thức, kỹ năng,
phẩm chất và hiệu quả hoạt động điều hành và chấp hành của người cán bộ
công chức. Chất lượng được hình thành bởi nhiều yếu tố tác động, trong đó
phần lớn qua con đường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện trong thực
tiễn công tác.
Do tầm quan trọng của công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nên các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã dành nhiều thời gian và sức lực cho
việc đặt nền móng cho cơ sở lý luận. Bằng sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
C.Mác đã khẳng định: Xưa nay, tư tưởng không thể đưa con người vượt ra
khỏi trật tự thế giới cũ được; trong bất kỳ tình huống nào tư tưởng cũng chỉ
có thể đưa người ta vượt ra ngoài tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi.
Ông còn chỉ rõ, giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được
quyền lãnh đạo, giữ được chính quyền thì phải xây dựng cho được đội ngũ
cán bộ thực sự trung thành và tài năng.

9


Lê Nin đã từng chỉ ra:“ Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào

giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ
của mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng
tổ chức và lãnh đạo phong trào.” [ 21, tr 473]
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [ 22, tr 240];
“Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi con người có ích cho
công việc chung của chúng ta.” [ 22, tr 273]. Theo Hồ Chí Minh, điều cốt
yếu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là phải xuất phát từ
nhu cầu thực tế và phải đáp ứng đúng nhu cầu đó. Chính vì vậy, muốn xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trước hết phải bắt đàu từ
việc chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và giáo dục công chức.
Trong lịch sử đấu tranh của xã hội loài người, mọi giai cấp thống trị
đều tìm cách nắm lấy giáo dục và đào tạo, coi đó là công cụ sắc bén để truyền
bá những tư tưởng chính trị của mình trong quần chúng nhân dân, để tạo ra
được những con người có khả năng chuyển hoá ý thức giai cấp trong thực
tiễn, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Điều đó lại càng cần thiết
trong việc xây dựng một lực lượng tiên phong, có trình độ quản lý tốt, nắm
giữ những cương vị trọng trách trong hệ thống bộ máy thống trị và lãnh đạo.
Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng với chức năng chủ yếu là trang bị kiến
thức, truyền thụ kinh nghiệm, hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động,
hình thành nên phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và tâm lý để tạo nên
những mẫu hình con người đặc trưng và tương ứng với một xã hội nhất định,
tạo ra năng lực hành động cho mỗi con người. Nội dung của giáo dục, đào tạo
công chức góp phần hình thành phẩm chất, tâm lý, tư tưởng, đạo đức và định

10



hướng sự phát triển nhân cách cho mỗi cán bộ, công chức. Giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng còn là hoạt động nhằm cải biến mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực
trong mỗi con người. Thông qua giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng mà mỗi con
người tiếp nhận được những tinh hoa của nhân loại, tiếp thu được tri thức và
kinh nghiệm của loài người. Thông qua hoạt động học tập, mỗi cá nhân nhận
thức được quy luật của tự nhiên và xã hội, biết vận dụng chúng trong thực
tiễn, biết nhận rõ chân lý, đúng sai, biết được cái hay, cái dở của mình mà
vươn lên, mà phấn đấu.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế
giới; tư duy quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội cần được
đổi mới căn bản từ việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính; cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp; phương thức quản lý một chiều từ trên xuống sang quản
lý bằng pháp luật (bao gồm cả các văn bản pháp quy: các quy chế và điều lệ);
cơ chế phân cấp, dân chủ, tự chủ và trách nhiệm xã hội; phương thức quản lý
tương tác lấy nhà trường làm trung tâm. Quá trình chuyển đổi này tất yếu đặt
ra việc phải đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức.
1. 2. Các nguồn tài chính và quản lý tài chính trong các cơ sở đào tạo
1.2.1. Khái niệm tài chính, nguồn tài chính
1.2.1.1. Khái niệm tài chính
Có nhiều định nghĩa khác nhau về tài chính:
- Tài chính là việc quản lý thu, chi tiền bạc trong một tổ chức xã hội
hay một nước.
- Tài chính là tiền bạc và thu, chi nói chung.
(Đại từ điển tiếng Việt NXB VH-TT,1998. Nguyễn Như ý chủ biên)
- Tài chính là hoạt động của Nhà nước về các khoản thu và chi, về tiền
11


nói chung (Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng. NXB VH-TT,1998)

- Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính bằng việc tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ
nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội
(Luật tài chính. Dương Thị Bình Minh chủ biên. NXB TP Hồ Chí
Minh,1997)
Tài chính là hoạt động thu chi tiền tệ, thu chi tiền vốn, để duy trì và
phát triển hoạt động của cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, tổ chức, của một
địa phương, của Nhà nước. (Bài giảng Quản lý tài chính trong giáo dục,
Phạm Quang Sáng).
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình
thành và phân phối quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung trong nền kinh tế
quốc dân. (Bài giảng Quản lý tài chính trong giáo dục, Phạm Quang Sáng).
Qua các định nghĩa nêu trên, định nghĩa tài chính được sử dụng trong
luận văn này với nội dung chính sau:
- Hoạt động: Tài chính là hoạt động thu chi tiền tệ, thu chi tiền vốn. Đó
(tài chính) là dấu hiệu tài sản dưới dạng tiền được trao đổi, phân phối, cho
vay tuỳ thuộc vào quy mô và dự định của người nắm giữ sở hữu hay quyền
quản lí.
- Mục tiêu: để duy trì và phát triển hoạt động;
- Cấp độ: có thể gồm các cấp độ cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, tổ chức,
địa phương (xã, huyện, tỉnh), nhà nước.
- Quan hệ giữa các thành viên/ các nhóm hoặc giữa các hoạt động trong
mỗi cấp độ: ưu tiên hay không ưu tiên trong phân bổ sử dụng, khuyến khích
hay không khuyến khích đối với mỗi nguồn thu.

12


1.2.1.2. Khái niệm nguồn tài chính
Nguồn tài chính là tiền tệ không phải chủ yếu với tư cách là vật ngang

giá chung, với chức năng đặc trưng là thước đo giá trị mà trước hết là tiền tệ
đang vận động độc lập với chức năng chủ yếu là phương tiện thanh toán và
phương tiện cất trữ trong quá trình phân phối để tạo lập hay sử dụng các quỹ
tiền tệ. Sự vận động độc lập tương đối của của cải xã hội dưới hình thức tiền
tệ đã hình thành một lĩnh vực đặc biệt - lĩnh vực tài chính.
Nguồn tài chính được thể hiện dưới nhiều tên gọi: vốn bằng tiền, vốn
tín dụng, các giấy tờ có giá... Ở cấp độ quốc gia, thực chất, nguồn tài chính là
toàn bộ tài sản của đất nước được giá trị hoá bằng tiền.
Tóm lại, nguồn tài chính - nguồn hình thành tài sản và tài sản đó được
thể hiện dưới hình thức giá trị (hay hình thức tiền tệ).
1.2.2. Cách phân loại nguồn tài chính của các cơ sở đào tạo
Có nhiều cách phân loại các nguồn tài chính cho giáo dục đại học.
Trong bài viết này, các nguồn tài chính (nguồn thu) cho giáo dục đại học
được chia thành hai nguồn cơ bản:
+ Nguồn từ ngân sách nhà nước (NSNN).
+ Nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
Trong mỗi nguồn lại được phân thành các cấp độ nhỏ hơn (hay còn gọi
là nội dung của mỗi nguồn).
1.2.2.1. Nguồn từ ngân sách Nhà nước
* Vai trò của nguồn NSNN cho Giáo dục - Đào tạo
Chi NSNN cho giáo dục đại học là quá trình phân phối sử dụng một
phần vốn tiền tệ từ quỹ NSNN để duy trì, phát triển giáo dục đại học theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.

13


Vai trò của chi NSNN không chỉ đơn thuần là cung cấp tiềm lực tài
chính để duy trì, củng cố các hoạt động Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) mà
còn có tác dụng định hướng điều chỉnh các hoạt động giáo dục phát triển theo

đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chi NSNN cho GD&ĐT là
khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội nhằm góp phần đảm bảo, duy trì
cho phát triển kinh tế- xã hội thông qua việc sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước dưới hình thức không hoàn trả trực tiếp. Tuy nhiên về mặt tác
dụng lâu dài chi NSNN cho GD&ĐT là khoản chi có tính chất tích lũy bởi
khoản chi này là nhân tố quyết định đến việc tăng trưởng nền kinh tế trong
tương lai.
Mặc dù nguồn tài chính từ NSNN đầu tư vào các trường đại học còn
hạn hẹp, nhưng nó vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển giáo
dục đại học ở Việt Nam.
Điều đó được thể hiện ở trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, NSNN luôn là nguồn cung cấp tài chính cơ bản để duy trì,
định hướng sự phát triển của hệ thống GD&ĐT quốc dân theo đúng đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, chi NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và nâng
cao số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên. Toàn bộ số tiền chi cho đội
ngũ giảng viên và công tác giảng dạy của các trường đại học, cao đẳng công
lập thường do NSNN đảm bảo là chính. Trong các khoản chi cho con người ở
lĩnh vực hành chính sự nghiệp thì chi cho giảng viên được ưu tiên có hệ số
lương cao hơn các ngành hành chính khác, cũng như các hệ số phụ cấp khác
(mức phụ cấp thấp nhất là 20% và mức cao nhất là 70% tiền lương). Điều đó
từng bước tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên ổn định đời sống, tập trung
thời gian và công sức cho việc học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên

14


môn. Đồng thời, hàng năm việc bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cử người đi
học trong và ngoài nước cũng được NSNN đảm bảo.
Thứ ba, cơ cấu, định mức ngân sách cho giáo dục đại học có tác dụng

điều chỉnh cơ cấu, quy mô giáo dục trong toàn ngành. Trong điều kiện da
dạng hoá GD&ĐT như hiện nay, thì vai trò định hướng của nhà nước thông
qua chi ngân sách để điều phối quy mô, cơ cấu giữa các ngành dọc, giữa các
vùng là hết sức quan trọng, đảm bảo cho đào tạo phát triển cân đối, theo đúng
đường lối của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, đầu tư của nhà nước cho xây dựng cơ sở vật chất của nhà
trường, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập tạo điều kiện ban đầu để
khuyến khích các tầng lớp nhân dân đóng góp, thu hút nguồn lực từ lao động
sản xuất, hợp đồng nghiên cứu ứng dụng khoa học của nhà trường, đóng góp
của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp đào tạo”.
Mặt khác, trong điều kiện các tổ chức cá nhân chưa đủ tiềm lực đầu tư độc
lập cho các dự án GD&ĐT thì sự đầu tư vốn của NSNN là nguồn quan trọng
để huy động các nguồn tài chính khác cùng đầu tư cho GD&ĐT. Vốn đầu tư
của nhà nước vào cơ sở vật chất của nhà trường và một phần kinh phí hỗ trợ
đối với các trường bán công, trường dân lập đã có tác dụng mạnh mẽ phong
trào xã hội hoá GD&ĐT về mặt tài chính.
Như vậy, mức độ đầu tư tài chính từ NSNN cho giáo dục đại học được
coi là một trong các yếu tố tác động có tính chất quyết định đối với việc hình
thành, mở rộng và phát triển hệ thống các trường đại học trong toàn quốc.
* Nội dung và yêu cầu sử dụng nguồn tài chính từ NSNN
Nguồn tài chính từ NSNN cho giáo dục đại học được sử dụng cho các
nội dung sau:

15


Một là, NSNN cấp cho chi thường xuyên của các trường. Nguồn này
được dùng để chi trả tiền lương và những khoản có tính chất lương cho cán bộ,
giảng viên, công nhân viên của các trường; chi trả học bổng cho sinh viên; chi

công tác phí cho cán bộ, giảng viên nhà trường đi công tác, chi cho các hội nghị,
chi phí hành chính, chi phí nghiệp vụ (chi trực tiếp cho giảng dạy - học tập).
Hai là, NSNN cấp kinh phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật,
mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định của nhà trường.
Ba là, cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Vì các trường
đại học vừa là cơ sở đào tạo, vừa là cơ sở nghiên cứu khoa học. Do vậy hàng
năm, NSNN cấp nguồn kinh phí này để duy trì và phát triển các hoạt động
nghiên cứu khoa học cho các trường đại học.
Bốn là, chi đầu tư chiều sâu cho các trường đại học. Khoản chi phí này
được cấp theo các mục tiêu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia cho
GD&ĐT như xây dựng và hoàn thiện mục tiêu, chương trình, nội dung đào
tạo, đầu tư xây dựng cơ bản cho nghiên cứu khoa học như trang bị cho các
thư viện, các phòng thí nghiệm, các viện và trung tâm nghiên cứu trong các
nhà trường; đầu tư để bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên
và cán bộ quản lý nhà trường.
Ngoài ra, nguồn từ ngân sách còn cấp cho các khoản chi thường xuyên
khác.
* Yêu cầu quản lý và sử dụng nguồn NSNN cấp cho GD&ĐT
Một là, nguồn tài chính này được hình thành theo kế hoạch của nhà
nước. Hàng năm, nhà nước xây dựng kế hoạch ngân sách cho toàn ngành. Kế
hoạch này dựa trên hai căn cứ: một mặt, là nhu cầu chi tiêu thường xuyên cho
đào tạo trong năm; các nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sửa
chữa, bổ sung tài sản cố định, nhu cầu phát triển hoạt động nghiên cứu, nhu

16


cầu về đầu tư và các nhu cầu khác từ các trường; mặt khác là dựa vào khả năng
của NSNN. Trên cơ sở đó, nhà nước phê duyệt ngân sách cấp cho ngành giáo
dục nói chung, tiếp đó phân bổ ngân sách cho mỗi cơ sở đại học nói riêng.

Bộ Tài chính phối hợp Bộ GD&ĐT xây dựng kế hoạch ngân sách cho
toàn ngành giáo dục, trong đó có ngân sách cho đào tạo đại học.
Hai là, nguồn tài chính từ NSNN chịu sự quản lý và sử dụng một cách
thống nhất, chi tiêu theo quy định tài chính của nhà nước.
1.2.2.2. Nguồn thu ngoài ngân sáh nhà nước cho đào tạo
* Vai trò của nguồn ngoài NSNN
Vai trò của nguồn tài chính ngoài NSNN được thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, tăng đầu tư cho đào tạo để nâng cấp các cơ sở đào tạo, cải thiện
đời sống cán bộ giảng dạy và sinh viên nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng
giảng dạy và học tập.
Hai là, thực hiện quan điểm “xã hội hoá trong đào tạo” khai thác tiềm
năng của các thành phần, các tổ chức kinh tế đóng góp kinh phí cho đào tạo
trong khi nguồn NSNN còn hạn hẹp.
Ba là, bản thân ngành giáo dục đại học cũng cần phát huy tính năng
động của mình trong việc huy động các nguồn tài chính.
* Nội dung nguồn thu ngoài NSNN cho đào tạo
Nguồn tài chính ngoài NSNN bao gồm:
- Nguồn thu từ học phí và lệ phí. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung,
với sự tồn tại của nền kinh tế đơn sở hữu là sở hữu xã hội chủ nghĩa, người đi
học là học tập cho nhà nước, làm việc cho nhà nước và chịu sự phân công của
nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế, người đi học bây giờ không phải chỉ làm việc cho Nhà
nước, mà làm việc cho mọi thành phần kinh tế. Mặt khác GD&ĐT mang lại

17


lợi ích cho cả người học và xã hội. Vì vậy, chủ trương xã hội hoá giáo dục và
việc người đi học phải đóng góp với các cơ sở đào tạo là tất yếu. Từ đó hình
thành lên nguồn đầu tư cho giáo dục đại học từ học phí, lệ phí của người đi

học. Nếu người đi học là người lao động làm việc cho các doanh nghiệp
ngoài Nhà nước, làm việc cho các tổ chức phi chính phủ ... thì người đi học
phải chi trả học phí. Người đi học còn sống phụ thuộc vào cha me thì phụ
huynh học sinh phải chi trả học phí cho các cơ sở đào tạo.
- Thu từ các hoạt động hợp đồng nghiên cứu khoa học, lao động sản
xuất và các dịch vụ trong các trường đại học và cao đẳng. Như đã nói, các
trường đại học vừa là cơ sở đào tạo, vừa là cơ sở nghiên cứu. Họ có khả năng
cung cấp cho xã hội những sản phẩm khoa học công nghệ, những phát minh,
sáng chế. Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh
trên thị trường luôn cần đến việc ứng dụng, đưa vào sản xuất những thành tựu
của khoa học và công nghệ tiên tiến nhất, hiện đại nhất. Chính vì vậy, các
trường đại học có cơ hội ứng dụng kết quả nghiên cứu của mình vào thực tiễn
sản xuất và có được nguồn thu từ hợp đồng nghiên cứu khoa học công nghệ
và lao động sản xuất.
- Nguồn thu viện trợ và quà biếu. Nguồn thu này được hình thành từ
các nguồn viện trợ, quà biếu của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân từ nước
ngoài hoặc trong nước. Luật giáo dục nước ta ghi rõ: “Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đóng góp, tài trợ cho giáo dục,
đào tạo”.
- Các khoản thu khác (quỹ khuyến học, quỹ khuyến khích tài năng...)
* Đặc điểm hình thành và yêu cầu sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN
Một là, nguồn thu này mang tính thoả thuận, tự nguyện giữa các cơ sở
đào tạo và người được cung cấp dịch vụ đào tạo, hoặc các tổ chức cá nhân có
lòng hảo tâm, từ thiện.
18


Hai là, quy mô nguồn tài chính này tuỳ thuộc vào nhu cầu xã hội trong
mỗi thời kỳ, vào tiềm lực đội ngũ và khả năng phục vụ xã hội, mối quan hệ,
uy tín... của các trường. Chính vì vậy, trong mỗi thời kỳ phát triển, nguồn tài

chính này ở các trường có sự khác nhau.
Ba là, Nhà nước hướng dẫn việc thu chi đối với nguồn thu ngoài NSNN.
Những phân tích trên cho thấy, nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục đại
học có mối quan hệ chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực trong hệ thống tài chính
của nước ta. Trong đó, tài chính nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong
việc hình thành nguồn đầu tư tài chính cho giáo dục đại học. Bên cạnh đó,
theo xu hướng xã hội hoá GD&ĐT, các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục
đại học được xây dựng trên hai phần: tài chính Nhà nước và tài chính ngoài
Nhà nước, bao gồm tài chính hộ gia đình, tài chính doanh nghiệp, tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp, tài chính ở các tổ chức tài chính và tài chính
quốc tế.
Chi phí giáo dục được xem xét như một khoản đầu tư của cá nhân hoặc
xã hộị để hình thành vốn con người hay đầu tư cho GD&ĐT là đầu tư để hình
thành nguồn vốn con người- nguồn vốn quan trọng nhất của quá trình phát
triển mỗi quốc gia. Vốn con người (Human Capital) được hiểu là: a) những
kỹ năng và kiến thức bao hàm trong lực lượng lao động (Labourforce); và b)
khi nói vốn con người ngụ ý nhấn mạnh đến kỹ năng và kiến thức, và nó hàm
ý là cái đó có được là do quá trình đầu tư. Nguồn vốn đó chính là lực lượng
lao động mới, có tri thức khoa học kỹ thuật cao, có tay nghề vững vàng, có
nhiều nhân tài nòng cốt ở mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội. Muốn vậy, phải tập
trung mọi điều kiện, khả năng để phát triễn hệ thống các trường đại học, phải
đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuât cho nhà trường, có chế độ ưu
đãi xứng đáng với người thầy và thu hút được nhiều học sinh xuất sắc.

19


1.2.3. Quản lý tài chính trong cơ sở đào tạo
1.2.3.1. Khái niệm quản lý tài chính trong giáo dục và đào tạo
Tài chính cho giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ mọi

khoản chi phí cho giáo dục lấy từ NSNN, các nguồn thu từ các hoạt động,
dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ, tài trợ,
viện trợ và các nguồn đóng góp của xã hội. NSNN cho giáo dục là bộ phận
quan trọng trong các nguồn thu của hệ thống giáo dục nói chung và các cơ sở
giáo dục công lập nói riêng.
Như vậy, dù khai thác từ bât kỳ nguồn nào nhưng với một mục đích
thống nhất là cung cấp tài chính cho các hoạt động giáo dục như việc trả
lương cho người dạy, chi hỗ trợ cho người học, xây dựng chương trình, bài
giảng, xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ đào tạo... đều được hiểu là tài chính
cho giáo dục.
Để hiểu rõ quản lý tài chính trong GD&ĐT, trước hết chúng ta cần
làm rõ được khái niệm quản lý. Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý,
nhưng tựu chung thì quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có
chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát
triển tới mục tiêu đã định.
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy khái niệm quản lý có những đặc điểm
sau:
- Quản lý là thuộc tính bất biến của mọi quá trình hoạt động xã hội loài
người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người
tồn tại, vận hành và phát triển.
- Yếu tố con người, trong đó chủ yếu bao gồm người quản lý và người bị
quản lý giữ vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.

20


Thông qua khái niệm và sự phân tích trên ta thấy quản lý tài chính nói
chung và quản lý tài chính trong trường đại học nói riêng không thể tách rời
khỏi những đặc điểm cơ bản trên. Tuy nhiên, quản lý tài chính trong GD&ĐT

được tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ có được những nội dung khác nhau.
Tiếp cận quản lý tài chính dưới góc độ chính sách: Bao gồm các hoạt
động xây dựng, ban hành, đánh giá và điều chỉnh các chính sách: chính sách
mở rộng nguồn thu, chính sách trong phân bổ sử dụng, chính sách công bằng,
chính sách tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục, ...
Tiếp cận quản lý tài chính theo quá trình quản lý: Với các chức năng
lập kế hoạch tài chính, phân bổ tài chính, theo dõi giám sát việc thực hiện kế
hoạch, điều chỉnh, bổ sung tài chính trong quá trình thực hiện, quyết toán và
đánh giá hiệu quả của việc đầu tư tài chính cho giáo dục.
Tiếp cận quản lý tài chính theo hoạt động: Là quản lý các hoạt động
thu, thu đúng, thu đủ với các nguồn thu từ NSNN, từ các nguồn đóng góp của
người học, thu từ NCKH và dịch vụ của nhà trường. Quản lý các hoạt động
chi trong đó có thể phân thành chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu tư cơ
bản, chi phục vụ đào tạo và NCKH. Quản lý các hoạt động chi theo đúng quy
định hiện hành về công tác tài chính, tránh thất thoát, lãng phí. Quản lý tài
chính cần đảm bảo công khai, minh bạch quá trình thu, chi trong mỗi cơ sở
và toàn bộ hệ thống giáo dục.
Quản lý tài chính trong giáo dục đào tạo là quản lý các nguồn thu hợp
pháp, lập kế hoạch phân bổ cho các hoạt động đào tạo, phục vụ đào tạo,
NCKH, phát triển nhà trường, tổ chức thực hiện và theo dõi, giám sát việc
thực hiện đầu tư tài chính theo đúng các quy định và chế độ tài chính của Nhà
nước và quy chế chi tiêu nội bộ của nhà trường.
1.2.3.2. Các chức năng cơ bản của quản lý tài chính trong cơ sở đào tạo
Nội dung của quản lý tài chính trong nhà trường là quản lý sự thực

21


hiện một cách thống nhất hai vấn đề đó là: Vấn đề kinh tế- xã hội của quá
trình đào tạo và vấn đề tổ chức- sư phạm của quá trình đào tạo.

Sử dụng và quản lý tài chính trong phát triển giáo dục- đào tạo chính là
thực hiện các quy định của quá trình quản lý tài chính nhằm đảm bảo cho
công tác đào tạo trong nhà trường thông qua bốn chức năng quản lý sau:
Khâu lập kế hoạch: Khi lập kế hoạch tài chính cho đào tạo phải dựa
vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dụcđào tạo. Nắm đầy đủ số liệu về biên chế, học sinh, sinh viên, cơ sở vật chất
của nhà trường để có cơ sở dự kiến cho kế hoạch năm. Đánh giá hết những
nguồn thu có thể có và cân đối giữa khả năng và nhu cầu về nguồn lực tài
chính. Khó khăn nhất của khâu lập kế hoạch là lựa chọn các hoạt động được
ưu tiên trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Khâu điều hành, thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các
khoản chi tiêu kịp thời theo kế hoạch để đảm bảo cho các hoạt động
thường xuyên cho nhà trường. Thực hiện thu đúng, thu đủ các khoản thu
đã dự kiến và khai thác, tìm kiếm thêm các nguồn thu phục vụ cho hoạt
động đào tạo và NCKH của trường.
Khâu kiểm tra: Giám sát việc điều hành chi tiêu trong các bộ phận đảm
bảo đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả. Việc thực hiện kế hoạch
không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến, nên đòi hỏi phải có sự kiểm tra
thường xuyên để nắm tình hình và có những điêù chỉnh cần thiết, bao gồm cả
việc phân bổ bổ sung nguồn lực tài chính cho những hoạt động trọng tâm
phục vụ cho đào tạo.
Khâu quyết toán kinh phí: Là khâu cuối cùng của việc sử dụng kinh
phí, nhằm phản ánh đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách
theo đúng chế độ quy định của Luật ngân sách và Pháp lệnh kế toán thống kê
về biểu mẫu, thời gian, nội dung các khoản thu và chi tiêu. Trên cơ sở báo
cáo quyết toán để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu và chi

22


tiêu cho công tác đào tạo, rút ra được những ưu, nhược điểm trong quá trình

quản lý, đồng thời làm cơ sở cho việc lập kế hoạch năm sau sát thực hơn.
Để quản lý nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo ở cấp vĩ mô, Nhà nước
xây dựng các định mức chi. Các định mức chi này do Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch- Đầu tư và Bộ Giáo dục- Đào tạo quyết định và xem xét hàng năm đối
với giáo dục- đào tạo. Các định mức chi được xác định trên cơ sở số lượng học
sinh, sinh viên. Thông qua định mức chi ngân sách hàng năm cho sự nghiệp đào
tạo đã góp phần định hướng, sắp xếp cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo.
Tài chính là công cụ mạnh trong quản lý trường đại học, nhất là trong
nền kinh tế thị trường. Nhà nước thông qua việc cấp NSNN có thể khuyến
khích các trường cạnh tranh trong việc nâng cao chất lượng lượng đào tạo.
Các trường đại học sử dụng việc phân phối theo lao động để khuyến khích
giảng viên nâng cao năng lực hay phân bổ ưu tiên cho những hoạt động (bao
gồm cả các điêù kiện vật chất cho những hoạt động đó) nhằm nâng cao chất
lượng dạy học và NCKH. Thực chất của phân bổ tài chính là phân bổ các
nguồn lực (nhân lực, vật lực). Các nguồn lực được tập trung hoặc ưu tiên cho
mỗi giai đoạn phát triến của mỗi cơ sở đào tạo và ưu tiên cho các hoạt động
có tính quyết định tới chất lượng đào tạo. Tài chính tác động đến chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng là phải thông qua các thành tố của chất lượng đào tạo.
Đây là vấn đề cần nắm vững trong quản lý tài chính của giáo dục, nhất là ở
giai đoạn phân bổ tài chính.
1.3. Quản lý tài chính với việc tăng nguồn thu của các cơ sở đào tạo cán
bộ, công chức
1.3.1. Vai trò của tăng nguồn tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Như phần trên đã trình bầy về nguồn tài chính đối với với các cơ sở
đào tạo nói chung, đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

23



×