Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.33 MB, 98 trang )

B Ả N G C Á C T Ừ V IẾ T T Ắ T

BLDS

Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 199&

Luật Thương mại

Luật Thương mại Việt Nam năm 1997

PICC

Nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế



*





i

(Principles o f International Commercial Contracts)
HĐMBHH

Hợp đổng mua bán hàng hoá

HĐMBHHQT


Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế


M ỤC LỤC

P h ầ n m ở đ ầ u ...................................................................................................................................... 1

P hần n ội d u n g ....................................................................................................................... 4
Chương 1: Lý luận chung về Hợp đổng muabán hàng hoá quốc t ế .........................4
1.1 K hái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá...................... .................................. 4
1.1.1 Định nghĩa..................................................................................................................... 4
1.1.2 Đặc điểm .........................................................................................................................5
1.1.3 M ột số nguyên tắc cơ bản của HĐMBHH..............................................................8
1.2 K hái niệm

về H Đ M BH H Q T.................................................................................... 11

1.2.1 Tên gọi..........................................................................................................................11
1.2.2 Định nghĩa................................................................................................................... 11
1.2.3 Đặc điểm ......................................................................................................................13
1.3 M ột số nguyên tắc cơ bản của H Đ M B H H Q T ................................................ 15
1.3.1 Nguyên tắc phù hợp với pháp luật của các nước có liên quan......................15
1.3.2 Nguyên tắc phù hợp pháp luật và tập quán quốc tế có liên quan...... ..........16
1.4 Vai trò và ý nghĩa của H Đ M B H H Q T ........ ..... ...................... ........................... 16
1.4.1 HĐMBHHQT thể hiện ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng......17
1.4.2 HĐMBHHQT là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các bên.............................................................................................................................17
1.4.3 HĐMBHHQT giúp quốc gia kiểm soát hoạt động kinh doanh mua bán
hàng hoá................................................................. ................................................................18
1.5 N guồn luật điểu chỉnh H Đ M B H H Q T .................................................................. 18


Chương 2: Các điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc t ế .....22
2 .1 K hái niệm ...................................................................................................................... 22
2. 2 Các điều kiện hiệu lực của H Đ M B H H Q T ......................................................... 22
2.2.1 Chủ thể...................................................... ................................................................... 22
2.2.2 Đ ối tượng, nội dung chủ yếu.................................................................................. 27
2.2.3. Sự tự nguyện giao dịch............................................................................................. 31
2.2.4 Hình thức.......7.............................................................................................................34


Chương 3: Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ..................36
3. 1 Giao kết hợp đồn g..................................................................................................... 36
3.1.1 Chào hàng...................................... .............................................................................36
3.1.2 Chấp nhận chào hàng................................................................................................42
3.1.3. Thời điểm giao kết hợp đồng.................................................................................. 49
3. 2 Thực hiện hợp đồng...................................................................................................52
3.2.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đổng...........................................................................52
3.2.2 Thời gian và địa điểm giao hàng..........................................................................54
3.2.3 Chuyển giaọ quyền sở hữu và rủi ro....................................................................... 58
3.2.4 Về vấn đề thanh toán......................................................................................... .

60

3.2.5 Các điều khoản khác liên quan đêh thực hiện hợp đồng...................................63
3. 3 Những quy định về không thực hiện hợp đồng................................................ 64
3.3.1 Những quy định chung..............................................................................................64
3.3.2 Thực hiện đúng hợp đồng.........................................................................................69
3.3.3 Huỷ hợp đồng.............................................................................................................. 73
3.3.4 Buộc bồi thường thiệt hại và phạt hợp đổng..................................................... 76


Chương 4: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và một
số giải giải pháp đề xuất......................................................................................................82

4.1 Thực trạng pháp luật...............................................................................82
4. 2 Các giải pháp đề xuất................................................................................................ 89

Phần kết luận ......... .......................................................................................................... 93
Tài liệu tham khảo................................................................................................................ 94


PHẦ N M Ở ĐẦU

1. Tính cấp thiết của để tài.
Xu hướng toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Yêu
cầu này được đặt ra với mọi nước trên thế giới mà khồng có sự phân biệt. Nghị sĩ
Roland BLƯM của Pháp đã nỏu vấn đề này trong Báo cáo về toàn cầu hoá của
u ỷ ban đối ngoại vào tháng 11 nám 1999. Trong Báo cáo tại phần kết luận có
nêu : “ Quả thực là toàn cầu hoá có làm hạn chế ở một mức độ nhất định chủ
quyền kinh tế. Rõ ràng đó là cái giá phải trả để trở nên thịnh vượng hơn”. Đối
diện với hoàn cảnh tất yếu này thì mọi quốc gia không thể nằm ngoài sự vận
động của nó. Sự tham gia vào đó dần tới sự tăng trưởng nhanh chống những hoạt
động trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước. Tỉ trọng của hoạt động dịch vụ
đã tăng một cách nhanh chóng so với thời gian trước khi toàn cầu hoá. Tuy
nhiên, mọi hoạt động dịch vụ đểu trực tiếp hoặc gián tiếp tạo điều kiện cho việc
ĩrao đổi hàng hóa. Vì vậy, việc trao đổi hàng hoá luôn chiếm vị trí quan trọng
trong thương mại quốc tế. Nền tảng pháp lý của trao đổi hàng hoá có yếu tố nước
ngoai chính là HĐMBHHQT.
Chính sách thương mại phù hợp đã tạo điều kiện cho kinh tế Việt Nam
phát triển nhanh chóng. Xuất khẩu tăng bình quân khoảng 23% trong thời gian
từ năm 1990 đến năm 2000 [13, tr 50]. Từ hoạt động kinh tế phát triển khá

nhanh chóng này mà dẫn tới thu nhập giữa hộ gia đình giàu nhất và hộ gia đình
nghèo nhất là 12,5 lần [21].
Nhưng những quy định của pháp luật so với thực tế còn rất nhiều điều
không phù hợp, tạo nên sự cản trở những hoạt động thực tế. Những quy định
không phù hợp đó tổn tại bằng câu chữ trên aiấy mà không trở thành hành vi ứng
xử của những người cần áp đụng. Theo Bộ trưởng Bộ Thương mại cho rằng cần
sửa đổi Luật Thương mại hiện hành để có thể theo kịp quá trình tăng trưởng cũng
như hội nhập vào nển kinh tế thế giới hiện nay [22,tr 10]. Luật Thương mại cần
sửa đổi cho phù hợp với vị trí thành viên của Việt Nam trong khuôn khổ Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á (AFTA), Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, cùng nỗ
lực để Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm
2005.
Nhu cầu sửa đổi Luật Thương mại, trong đó có chế định HĐMBHHQT đã
và đang được đặt lên bàn soạn thảo. Việc sửa dổi một số chế định của Luật
Thương mại đã khó thực hiện được bởi sự bất cập và mối liên hệ với nhau trong
luật nên khó có thể sửa một phần mà không ảnh hưởng tới phần khác. Vì vậy,
yêu cầu sửa đổi toàn diện Luật Thương mại, gồm cả chế định HĐMBHHQT đã
được Chính phủ chấp nhận [38].
Pháp luật về HĐMBHHQT là cơ chế pháp lý điều chinh trực tiếp hoạt
động mua bán hàng hoá quốc tế. Hoạt động của mua bán hàng hoá quốc tế này
thuận lợi hay không thuận lợi hoằn toàn phụ thuộc vào sự phù hợp của cơ chế
pháp lý này. Ngoài việc tạo điểu kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán hàng hoá

1


thì HĐMBHHQT còn là cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bốn tham gia hợp đồng.
Vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu chế định trên là cần thiết để xác định được
những điều bất cập và mâu thuẫn nội tại của chế định, cũng như những điều

khoản còn chưa phù hợp với các quy định của một số văn bản khác cần tham
khảo. Từ những bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp này nhằm đưa ra những đẻ
xuất nhằm sửa đổi, bổ sung những quy định của chế định HĐMBHHQT phù hợp
với thực tế và một sô' văn bản cần tham khảo.

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu này nhằm tìm hiểu những quy định của
Luật Thương mại hiện hành về HĐMBHHQT. Việc tìm hiểu này được đặt trong
tương quan so sánh với những quy định của pháp luật một số nước có quan hệ
mua bán hàng hoá lớn với Việt Nam và các quy định quốc tế nhằm rút ra những
vấn đề bất cập. Từ những vấn đề bất cập này mà đề xuất một vài giải pháp sửa
đổi, bổ sung chế đinh này cho phù hợp hơn.
Đ ối tượng nghiên cứu của đề tài sẽ thu hẹp trong những quy định của chế
định HĐMBHHQT. Viộc nghiên cứu sẽ dựa trên cơ sở định nghĩa hàng hoá theo
nghĩa hẹp là theo luật học mà không theo định nghĩa của triết học.
Phạm vi nghiên cứu của để tài sẽ thể hiện bằng việc đi sâuvà phân tích
ch ế định hợp đổng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, hay còn gọi
là hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế của Luật Thương mại. Bên cạnh việc
phân tích đó thì bản luận văn đồng thời nghiên cứu chế định này của pháp luật
một số nước như Mỹ và Pháp. Đây là hai nước có tiềm năng lớn cũng như quan
hệ thương mại quan trọng đối với Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu tiếp đó là
Công ước Viên năm 1980. Đây là điều ước quốc tế quan trọng mà khi nhắc tới
hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế khờng thể không đề cập. Ngoài ra, còn có
một văn kiộn quan trọng của tổ chức UNIDROIT (Viện thống nhất Tư pháp quốc
tế) là Nguyên tắc hợp đổng thương mại quốc tế. Đây là vãn kiện có phạm vi điều
chỉnh rộng hơn so với Cồng ước Viên năm 1980, vì điều chỉnh hoạt động thương
mại quốc tế nói chung, trong đó có bao gồm hoạt đông mua bán hàng hoá. Văn
kiện này có những quy định chi tiết dễ áp dụng đối với các bên khi hoạt động
thương mại quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn không đi sâu tìm hiểu cơ chế giải quyết

tranh chấp hay những chế định liên quan khác, mà chỉ tập trung nghiên cứu khái
niệm, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao kết và thực hiện hợp đổng.

3. Phương pháp nghiên cứuTrong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng tổng hợp các phương pháp:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp. phương pháp so sánh.

2


4. Những đóng góp mới của luận văn.
Một số đóng góp mới và nhỏ của luận văn được thể hiện qua khái niệm về
HĐMBHHQT, vể các điểu kiện hiệu lực của HĐMBHHQT được tìm hiểu, phân
tích kỹ. Những vấn đề này được tìm hiểu thông qua việc so sánh cùng chế định
này với luật pháp của một số nước có giao dịch thương mại lớn với Việt Nam,
với Công ước Viên năm 1980 và đặc biệt là với Nguyên tắc hợp đồng thương mại
quốc tế của Viện thống nhất Tư pháp quốc tế.
Qua sự phân tích và so sánh đó mà luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp ban đầu đối với chế định này vể các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, về giao kết và thực hiện hợp đồng.

5. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì phần nội dung của luận văn bao
gồm bốn chương:
Chương 1: Lý luận chung về Hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chương 2: Các điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Chương 3 : Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chương 4: Thực trạng pháp luật về hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế và
một số giải giải pháp đề xuất.


3


P H Ầ N

N Ộ I D Ư N G

CHƯƠNG

1

LÝ LU Ậ N C H U N G
H Ợ P Đ Ồ N G

M Ư A BÁ N H À N G

VỂ
H O Á

Q U Ố C T Ế

HĐMBHHQT là chế định quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế.
Đ ể hiểu rõ chế địrih này trước tiên luận văn sẽ tìm hiểu khái niệm HĐMBHH. Từ
đó, luận văn sẽ đề cập tới khái niệm HĐMBHHQT, định nghĩa và các đặc điểm.
Các mục tiếp theo của luận văn sẽ trình bày vể các nguyên tắc cơ bản, vai trò, ý
nghĩa và một vài nguồn luật khác điều chỉnh HĐM BHHQT này.

1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá.
ỊJL d M n h .ữ g tiĩa
Mua bán là hoạt động được diễn ra trên mọi nơi, với thời gian từ nhiều

ngàn năm nay. Hoạt động giao dịch với hình thức đầu tiên là đồ vật đổi đồ vật,
khi xuất hiện đồng tiền thì vật đổi tiền trở thành hình thức trung gian cơ bản.
Đồng tiên xuất hiện cũng không thống nhất mà mỗi một dân tộc, một vùng lại có
hình thức đổng tiền khác nhau. Khi sản phẩm ngày càng nhiều và trở thành hàng
hoá thì việc mưa bán hàng hoá trở nên phát triển. Mua bán là động lực cho phát
triển kinh tế của địa phương đó. Đến nay, mua bán trở thành hình thức không thể
thiếu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong giao dịch thương mạikinh tế.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì có ba văn bản luật liên quan tới
HĐMBHH đang được điểu chỉnh. Theo trình tự thời gian thì trong các văn bản
luật định nghĩa HĐMBHH được nêu như sau:
Theo Pháp lệnh Hợp đổng kinh tế năm 1989 thì khái niệm hợp đồng kinh
tế được định nghĩa như sau: “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài
liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công viộc sản xuất, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận
khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyển và nghĩa vụ của
mỗi bên để xây dựng và thực hiện k ế hoạch của mình” [6, Điều 1].
BLDS năm 1996 định nghĩa : “Hợp đổng dân sự là sự thoả thuận giữa các
bèn về việc xác lập, thay đổi hoặc chất dứt quyển, nghĩa vụ dân sự” [4, Điểu
394]. Từ định nghĩa này hợp đồng mua bán tài sản được hiểu là sự thoả thuận
giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản và chuyển quyền sở hữu
4


tài sản đó cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả
tiền cho bên bán [4, Điều 421],
Theo định nghĩa của Luật Thương mại thì mua bán hàng hoá là hành vi
thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hoá cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người
bấn và nhận hàng hoá theo thoả thuận của hai bên [5, Điều 46].
Theo định nghĩa «á» trên thì người bán có các nghĩa vụ giao hàng, chuyển

quyền sở hữu hàng hoá và cuối cùng là nghĩa vụ nhận tiền. Người mua có các
nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng. Tất cả các nghĩa vụ trên được thực
hiện theo thoả thuận của các bên. Ngoại trừ những điều luật cấm thì thoả thuận
đã được thống nhất của các bên được tôn trọng vói ưu tiên cao nhất. Thoa thuận
đã được thống nhất là “luật” của các bèn trong quan hệ mua bán hàng hoá đó.
Quan niệm về HĐMBHH của Việt Nam và Pháp có nhiều nét tương đổng
giống nhau. Điều này cũng xuất phát từ truyền thống pháp luật của hai nước theo
dân luật Với lý do đó nên phần khái niệm cơ bản về HĐMBHH của Pháp sẽ
không cần trình bày.
Quan niệm pháp luật của Mỹ về hợp đồng cũng như về HĐMBHH có
nhiều điểm khác với pháp luật của Việt Nam. Điều này cơ bản xuất phát từ
truyền thống pháp luật của hai nước khác nhau2.

L L Ẳ M cM iẩ ũ h
ỉ. 1.2.1 Về chủ thể.

HĐMBHH là một thoả thuận quan trọng mang tính nền tảng pháp lý cho
giao dịch mua bán hàng hoá. Chủ thể tham gia quan hộ mua bán hàng hoá là
thương nhân với thương nhân hoặc một bên tham gia là thương nhàn. Thương
nhân có thể bao gồm là cá nhân hoặc tổ chức.
Đối với cá nhân, mặc dù có những quy định cụ thể khác nhau, nhưng nhìn
chung khi đề cập đến việc xác định tư cách thương nhân của cá nhân trong quan
hệ HĐMBHHQT, luật pháp của hầu hết các nước đều dựa trên hai tiêu chuẩn
pháp lý liên quan trực tiếp. Đó là tiẽu chuẩn đối với các điểu kiện vể nhân thân
và tiêu chuẩn dối với các điều kiện về nghề nghiệp của cá nhân.
Thứ nhất về điều kiện nhân thân, việc xem xét điều kiện nhân thân của
một người để trở thành thương nhân sẽ căn cứ vào năng lực pháp luật và năng lực
hành vi của người đó. Trên thực tế để xem xét năng lực pháp luật và năng lực
hành vi của một cá nhân, người ta thường dựa vào các tiêu chí: tuổi tác, tình
trạng sức khoẻ, tình trạng tư pháp.


1 Với iợi th ế xây dựng pháp luật sau ihì pháp luật V iệt N am đã tham khảo pháp luật của nhiểu nước (chác để xây
dưníĩ cho m inh, tiong đó có nước Pháp. Vì vây, pháp luật vé hợp đổng của hai nước cơ bàn là giống nhau.
2 Xem cụ thể hơn vé khái niệm và các điéu kiổn của hợp đổisg theo hồ thống thông luật qua tài liêu [16], [20],
[28].

5


v ề tuổi tác, pháp luật của hầu hết các nước đều quy định một người muốn
trở thành thương nhân phải ở một độ tuổi nhất định. Với một độ tuổi như vậy con
người mới có thể phát triển được đầy đủ và về thể lực lẫn trí lực để thực hiện
những hành vi mà minh mong muốn.
Theo quy định của Luật Thương mại thì cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có thể
trở thành thương nhân nếu thoả mãn một số điều kiện nhất định [5, Điều 17]. Cá
nhân đó phải được cấp giấy chứng nhận đãng ký kinh doanh để trở thành thương
nhân. Để cấp giấy chứng nhận thì cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, có đủ điều kiện để kinh đoanh thương mại theo quy định của pháp luật,
và có yêu cầu hoạt động thương mại.
Bên cạnh việc đưa ra tiêu chuẩn về tuổi tác, pháp luật của hầu hết các nước
còn đưa ra các tiêu chuẩn về tình trạng sức khoẻ để làm cơ sở pháp lý xác định tư
cách thương nhân của cá nhân. Những người mạc dù đủ tiêu chuẩn về độ tuổi
nhưng tình trạng sức khoẻ không bình thường cũng không được phép tham gia
vào các hoạt động mua bán hàng hoá với tư cách là thương nhân. Những người
này có thể vì bị thương tật hoặc bệnh tật vé tinh thần ... mà không thể hiện được
đầy đủ ý chí một cách độc lập. Việc pháp luật quy định về điều kiện sức khoẻ là
để loại trừ những người thiếu năng lực hành vi hoặc hạn chế răng lực hành vi
tham gia vào HĐMBHHQT.
Tinh trạng tư pháp của một ngưctì là một điều kiện pháp lý bắt buộc cẩn
phải được xem xét để xác định người đó có đủ tư cách là thương nhân hay

không. Về vấh đề này pháp luật cùa các nước đều quy định: những người đang bị
phạt tù, bị Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấm tham gia các hoạt
động thương mại sẽ không thể trở thành thương nhân.
Liên quan tới thương nhân là cá nhân, Điều 18 Luật Thương mại quy định
ba trường hợp không được cổng nhận trở thành thương nhân. Đầu tiên là những
người không có nãng lực hành vi đân sự đầy đủ, người bị mất nầng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trường hợp thứ hai là người
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù.
Trường hợp cuối cùng liên quan đến những ngưòi bị toà án hạn chế những ngành
nghề về kinh doanh. Những người đó bị toà án tước quyền về hành nghề vì phạm
các tội buôn lậu, đầu cơ, buồn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng giả,
kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai về điều kiện về nghề nghiệp, theo quy định của pháp luật các
nước, đặc biệt là các nước châu Âu thì những người đang làm một số nghề nhất
định sẽ không thể trở thành thương nhân. V í dụ, theo Luật Thương mại Pháp thì
những người đang là công chức, luật sư, bác sỹ, công chứng viên ... sẽ không
được tham gia vào các hoạt động thương mại với tư cách là thương nhân.
Pháp luật Việt Nam khỏng quy định trường hợp cụ thể những nghề không
được đồng thời làm thương nhân. Chỉ liên quan đến trường họp là công chức, cán
bộ thì Pháp lệnh cán bộ, công chức không cho phép đồng thời thực hiện những
hành vi kinh doanh của thương nhân.

6


Đối với tổ chức là thương nhân thì tổ chức đó có thể là pháp nhân, tổ hợp
tác, hộ gia đình. Các tổ chức này phải hội đủ các điều kiộn pháp lý theo quy định
của pháp luật. Pháp nhân là thương nhân được tồn tại dưới nhiều hình thức như
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... . Việc phân loại này tuỳ thuộc

vào quy định của mỗi nước mà có các tiêu chuẩn khác nhau vể mặt pháp lý đối
với từng loại hình.
Nhìn chung, các quy định về tiêu chuẩn pháp lý để xác định tư cách
thương nhân của cá nhân trong HĐMBHHQT chỉ được áp dụng cho các công
dân mang quốc tịch của quốc gia nước sở tại. Trên thực tế việc các tiêu chuẩn
pháp lý này có được áp dụng cho những người có quốc tịch nước ngoài hoặc
những người không có quốc tịch tại quốc gia nước sở tại hay không, còn phụ
thuộc vào pháp luật của từng quốc gia tuỳ theo từng trường hợp.

ỉ. 1.2.2 V ề đối tượng.

Đối tượng của hợp đổng mua bán là hàng hoá. Theo từ điển tiếng Việt thì
hàng hoá là “sản phẩm do lao động làm ra dùng để buôn bán trên thị trường”.
Với định nghĩa trên thì những gì được coi là hàng hoá nếu thoả mãn hai điều
kiện cùng lúc:
- Thứ nhất, sản phẩm do lao động làm ra.
- Thứ hai, được dùng buôn bán trên thị trường.
Như vậy, với cách định nghĩa như trên thì hàng hoá có thể bao gồm hữu
hình hoặc vô hình. Đó có thể là các quyền tài sản, có thể là nhiều loại động sản
khác nhau, có thể là bất động sản.
Luật Thương mại Việt Nam lại không đưa một khái niệm hàng hoá cụ thể
- đối tượng của HĐMBHH mà chỉ liệt kê hàng hoá tại Điều 5 gồm:
- máy móc,
- thiết bị,
- nhiên liệu,
- hàng tiêu dùng,
- vật liệu,
- các động sản khác được lưu thông trên thị trường,
- nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán.
Đối chiếu định nghĩa trong từ điển tiếng Việt và định nghĩa của Luật

Thương mại thì hàng hoá theo Luật Thương mại được hiểu hẹp hơn so với từ
điển. Đối tượng điểu chỉnh của Luật Thương mại sẽ loại trừ nhiểu loại hàng hoá
được coi như bất động sản và nhiều loại hàng hoá vô hình, quyền tài sản khác.
Đó có thể là tàu thuyền, máy bay, cổ phiếu, trái phiếu, chứng từ có giá trị khác,
bí quyết v .v ... .

7


1.1.3 M ột s ố nguyên [ắc cơ bản của HĐMBHH.

Nguyên tắc cơ bản của HĐMBHH là những tư tưởng chủ đạo có tính chất
bắt buộc chung đối với các chủ thể trong quan hệ HĐMBHH. Các nguyên tắc
này được ghi nhận trong các quy phạm của pháp luật thương mại và được thừa
nhận trong tập quán quốc tế. Theo pháp luật và thực tiễn, có rất nhiều các
nguyên tắc trong HĐMBHH. Sau đây là một vài nguyên tắc cơ bản trong việc ký
kết và thực hiện HĐMBHH.

L ỉ .3. ỉ N guyên tắc tự do giao k ế t hợp đồng.

Đây là nguyên tắc chung nhất cho tất cả các hợp đồng thương mại, trong
đó có HĐMBHH. Nội dung của nguyên tắc này được đề cập các bên chủ thể
trong hợp đồng được tự do giao kết hợp đồng và quy định nội dung hợp đồng.
Quyền tự đo giao kết hợp đổng là quyền của tất cả các thương nhân trong hợp
đồng thương mại nói chung và HĐMBHH nói riêng. Các thương nhân có quyền
tự do quyết định ai là người họ sẽ bán hàng và ai là người họ sẽ mua hàng. Cũng
từ lý do này mà sau khi ỉựa chọn các thương nhân có thể tự do thoả thuận nội
dung trong từng hoạt động mua bán cụ thể. Tuy nhiên, sự tự do này không phải
là vô hạn mà nó bị giới hạn hay phụ thuộc vào tính hơp pháp của sự thoả thuận
trên. Tính hợp pháp này được xem xét dựa trên các quy định của pháp luật mà

các bên lựa chọn hoặc hợp pháp đối với từng chủ thể thoả thuận. Trong Luật
Thương mại không nêu cụ thể nội dung nguyên tắc này nhưng tinh thần chung
có thể được tìm thấy theo nguyên tắc cùa BLDS về hợp đồng. Với tư cách luật
chuyên ngành nên Luật Thương mại không cần đề cập lại vấn đề này đã được
nêu trong BLDS.
Theo PICC thì vấn đề này được quy định rất rõ ràng. Trong PICC tại Điều
1.1 của chương đầu tiên quy định ngay vể vấn đề tự do hợp đồng. Quyền tự do
hợp đồng là một trong những nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hợp đồng nói
chung và trong phạm vi thương mại quốc tế nói riêng. Sự tự do trong hợp đồng là
yếu tố cơ bản, then chốt cho một nền kinh tế thị trường, ở đó, sự tự do của mọi
người trong kinh doanh được đặt lên hàng đầu. Đồng thời với một nền kinh tế thị
trường thì đây cũng là yếu tố cơ bản cho một thị trường cạnh tranh lành mạnh,
thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Không chỉ quy định về sự tự do hợp đổng mà
PICC còn quy định về sự tự đo quy định nội dung của hợp đồng. Các bên tham
gia hợp đổng được toàn quyền quy định cho mình về những quyền mình được
làm và những nghĩa vụ minh thực hiện. Nhưng không phải là không có những
ngoại lệ của cả hai vấn đề. Sự tự do hợp đồng thường bị ràng buộc do liên quan
đến các khu vực kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Cũng tương tự như vậy,
việc quy định nội dung hợp đồng là do sự thoả thuận của các bên, nhưng các
thoả thuận này sẽ không được trái những truyền thống đạo đức của đất nước đó
và không được trái pháp luật của Nhà nước quy định.

8


/. 1.3.2 N guyên tắc bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Nội dung của nguyên tắc này là thoả thuận MBHH các bên phải đảm bảo
sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng được lợi ích của các bên
trong nội dung của hợp đồng. Tính bình đẳng trong HĐMBHHQT không phụ

thuộc vào quan hệ chính trị - ngoại giao của các quốc gia mà các chủ thể mang
quốc tịch. Bất kỳ chủ thể này hay chủ thể khác thuộc quốc gia giàu hay nghèo,
phát triển hay không phát triển, châu Âu hay châu Phi khi giao kết
HĐMBHHQT đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Các bên cùng có
lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm hợp đồng đã ký
kết. Sẽ là không hợp lý nếu một HĐMBHH chỉ mang lại lợi ích cho một bên
hoặc chi có một bên có quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ.
Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, chủ thể của HĐMBHHQT rất đa
dạng, việc tuân thủ nguyên tắc này là yêu cầu cần thiết và quan trọng trong hợp
đổng mua bán hàng hoá quốc tế. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự
kinh doanh lành mạnh, binh đẳng trong quan hệ kinh doanh. Nguyên tắc này đã
được nêu tại khoản 2 Điều 395 BLDS.
Theo PICC tại điều 3.10 đã thể hiện các bên giao kết hợp đồng cần phải
được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng. Sự bất bình đẳng có thể dẫn tới hợp
đồng hoặc một số điều khoản bị vô hiệu hoặc bị sửa.

ĩ. 1 .3 .3 N guyên tắc thiện c h í và trung thực.

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện việc các bên tham gia giao kết hợp
đồng với tinh thần hợp tác mà cố gắng không gây thiệt hại đến lợi ích của nhau.
Tinh thần thiện chí thể hiện các bên phải tạo điều kiện cho nhau, giúp đỡ lẫn
nhau thực hiên tốt những nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận. Tinh thần thiện chí
giúp các bên giao kết hợp đổng nhằm hướng tới sự cùng tồn tại, cùng phát triển.
Thông qua giao kết hợp đồng mà không nhằm tới sự phát triển của bên này là sự
triệt tiêu của bên kia. Không thể có được sự thiện chí và trung thực khi các bên
tham gia hợp đồng không tuân thủ triệt để nguyên tắc này.
Trong hoạt động thương mại nói chung và trong HĐMBHH nói riêng, để
đảm bảo được quyền và lợi ích cả các bên đồng thời tạo được niềm tin và sự yên
tâm giữa các chủ thể thì các bên không được loại bỏ hay hạn chế nguyên tắc
thiện chí và trung thực. Hơn thế, các bên có thể thoả thuận những nghĩa vụ đối

với nhau trẻn mức yêu cầu cùa nguyên tắc này nhằm quan hệ giữa các bên thân
thiện và kết quả tốt hơn. Nguyên tắc này đã được nêu tại khoản 2 Điều 395
BLDS.
Trong PICC khống nêu trực tiếp về nội dung của nguyên tắc này nhưng
toàn bộ chương 3 của PICC đều thể hiện tinh thần hướng tới nội đung nguyên tắc
này. Toàn bộ các quy định của chương này đểu hướng tới tiêu chuẩn công bằng
và hợp lý trong thương mại.
9


ỉ. 1.3.4 N guyên tắc đảm bảo theo cam kết.

Các nội dung được thoả thuận trong HĐMBHH là kết quả của sự tự do
giao kết, của sự bình đẳng giữa các bên. Quyết định những điều khoản trong hợp
đồng là do sự lựa chọn độc lập của các bên. Các bên tự đảm bảo rằng lựa chọn
đó được quyết định trong hoàn cảnh làm chủ được minh. Các bên tự chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn đó. Khi các bên đã thống nhất các điều khoản trong hợp
đồng thì nó có giá trị ràng buộc các bên. Hiệu lực của thoả thuận này không dễ
bị thay đổi hoặc bị huỷ bỏ bởi ý chí đơn phương của một bên. Cam kết giữa các
bên cần được tôn trọng nhằm tránh thiệt hại cho bên còn lại khi thực hiện theo
thoả thuận đó.
Nguyên tắc đảm bảo theo cam kết còn hướng tới sự ổn định trong quan hệ
kinh doanh cũng như trong quan hệ xã hội. Nguyên tắc hướng tới sự vận động
bình thường, có kiểm soát, có thể lường trước được những hoạt động kinh doanh
thương mại. Luật Thương mại và BLDS không nêu cụ thể nguyên tắc này nhưng
tinh thần của các nguyên tắc và các điều luật đều hướng tới nội dung của nguyên
tắc này.
Sau khi ký kết hợp đồng thì các điều khoản trong hợp đổng trở thành sự
ràng buộc đối với các bên. Điều này cũng được khẳng định trong PICC tại Điểu
1.3. Điều này quy định sau khi giao kết thì hợp đổng sẽ có hiệu lực ràng buộc

các bên trong hợp đồng. Các bên có nghĩa vụ tôn trọng các điều khoản của hợp
đổng. Mọi sự thay đổi của các bên đều phải căn cứ vào các điều khoản của hợp
đồng, căn cứ vào sự thoả thuận hoặc bằng các cách thức khác mà được PICC quy
định. Nếu các bên không tôn trọng các điều khoản, khồng tôn trọng các nghĩa vụ
trong hợp đồng thì bên đối tác có quyền phạt hợp đồng, có quyền yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại.

ỉ. 1 .3 .5 N guyên tắc không xàm phạm đến ỉợ i ích hợp phấp khác.

Đây là nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ các lợi ích hợp khác khi các
bên giao kết hợp đổng. Việc giao kết hợp đồng là sự tự do lựa chọn của các bên.
Tuy nhiên, trong mối liên hệ xã hội thì không có hoạt đông nào lại không ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy, việc ảnh
hưởng khó có thể tránh khỏi tới những quan hệ xã hội khác. Những ảnh hưcmg
này có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Vấn đề đặt ra phải bảo vệ ở mức độ nào và
làm rõ giới hạn nào. Những lợi ích của các bên trong hợp đổng sẽ có ảnh hưởng
tới lợi ích của người khác, của công cộng, của Nhà nước. Nhằm bảo vệ những lợi
khác ngoài các bên trong hợp đồng thì những lợi ích này được quy định trong
pháp luật và được pháp luật đưa một cơ chế xác định để bảo vệ. Đặc biệt là lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước được chú ưọng hơn quyền và lợi ích họp
pháp của người khác. Điểu này là dễ hiểu bởi các lợi ích trên có tác động lớn tới
cộng đồng. N ội dung của nguyên tắc này được thể hiện tại khoản 1 Điều 395
10


BLDS. Việc giao kết hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội nhằm bảo
vệ các loại quan hệ xã hội này.

1.2 Khái niệm vê HĐMBHHQT.
ỉ .2.1 Tên gọi.


Nguồn gốc xuất xứ hàng hoá không được xét đến để xác định loại hợp
đổng đó có phải là HĐMBHHQT không. Chủ thể của hợp đồng được xác định
theo yếu tố nước ngoài dựa trên sự lệ thuộc các nước khác nhau của các bên
tham gia hợp đồng, với căn cứ là theo quốc tịch của chủ thể đó. Quốc tịch của
thương nhàn theo pháp luật Việt Nam thì được xác định theo nước mà thương
nhân đó đăng ký kinh doanh. Còn theo những nguồn luật của các nước hoặc các
tổ chức khác thì việc xác định thương nhân thuộc các nước lại dựa trên những
tiêu chí khác nhau. V í đụ, Công ước Viên năm 1980 xác định các thương nhân
thuộc các nước khác nhau theo trụ sở của thương nhân đó mà không phải theo
nước mà thương nhân mang quốc tịch, hoặc đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, đó là những cách gọi khác nhau về cùng một ỉoại hợp đồng,
việc nêu tên khác nhau đó mang tính chất nhấn mạnh về một đặc điểm của hợp
đổng mà không mang tính phân biệt là các loại hợp đồng có bản chất khác nhau.
V ì vậy, để thống nhất trong bản luận văn này thì loại hợp đổng trên được gọi là
HĐMBHHQT.

L2,2M ũhM ghĩSL
Khi Luật Thương mại chưa được ban hành, HĐMBHH với thương nhân
nước ngoài được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương. Bộ Thương nghiệp (nay
là Bộ Thương mại) đã định nghĩa loại hợp đổng này trong Quy chế tạm thời
hướng dẫn ky kết hợp đồng mua bán ngoạỉ thương số 4794'TN-XNK . Hợp đổng
mua bán ngoại thương là HĐMBHH có tính quốc tế. Quy chế này cũng đã đưa ra
ba tiêu chuẩn cơ bản để xác định một hợp đồng mua bán được gọi là hợp đổng
mua bán ngoại thương là: chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác
nhau; hàng hoá là đối tượng của hợp đồng thường được đi chuyển từ nước này
sang nước khác; đổng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên ký
kết hợp đồng.
Phù hợp với xu thế hội nhập, Luật Thương mại Việt Nam đã được ra đời
năm 1997 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01.01.1998. Luật này đã đánh dấu

một phát triển lớn của ngành luật thương mại để tạo khuôn khổ hoạt động cho
các giao dịch thương mại ở nước ta. Xu hưcmg của luật này nhằm điều chỉnh các
quan hệ thương mại trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường theo định
hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà nước. Luật Thương mại năm 1997 còn tạo
ra khung pháp lý dể phát triển các quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các

11


nước khác trên thế giới. Luật này góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế đối ngoại với các nước.
Tại Điều 80 Luạt Thương mại quy định HĐMBHH với thương nhân nước
ngoài là HĐMBHH được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một
bôn là thương nhân nước ngoài. Từ định nghĩa trên cho thấy pháp luật chỉ xem
xét đến yếu tố “thương nhân nước ngoài” để xác định một hợp đồng có phải là
một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hay không. Yếu tố thương nhân nước
ngoài được xác định dựa trên cơ sở pháp !ý của nước mà thương nhân mang quốc
tịch.
Như vậy, những đặc điểm mà khái niệm HĐMBHH với thương nhân nước
ngoài, theo quy định của Luật Thương mại đã mở rộng hơn, so với khái niệm này
mà Quy ch ế tạm thời hướng dẫn việc ký kết HĐMBHH ngoại thương số 4794TN-XNK đã quy định.
Về định nghĩa HĐMBHHQT, theo Luật Thương mại, thì trước hết là một
Hợp đồng mua bán hàng hoá có nhân tố nước ngoài. Một số công ước cũng đã
định nghĩa về HĐMBHHQT. V í dụ như tại Điều 1 Công ước Lahay năm 1964
định nghĩa : “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là Hợp đổng mua bán hàng
hoá trong đó các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được
chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết Hợp đổng
giữa các bên được thiết lập ở các nước khác nhau”. Công ước Viên năm 1980
quy định : “áp dụng với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các
bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau”.

Thực tế thì yếu tố nước ngoài được xem xét ở nhiều khía cạnh hơn đối với
loại hợp đồng này. Những khía cạnh trên của các văn bản luật trong nước hoặc
quốc tế là nhằm xác định phạm vi điều chỉnh của văn bản đó, mà không phải là
những tiêu chí áp đặt đối với mọi loại hợp đổng để xác định có yếu tố nước
ngoài. Yếu tố nước ngoài có thể được xem xét ở một trong các khía cạnh sau:
- Hợp đồng được giao kết và thực hiện bởi các bên không cùng quốc tịch hoặc
không cùng nơi cư trú (với thể nhân) hoặc không cùng nơi đóng trụ sở (đối với
pháp nhân),
- Hợp đồng được giao kết ở một nước thứ ba và được thực hiện tại nước của một
trong hai bên hoặc tại nước giao kết hoặc tại một nước thứ ba khác,
- Đối tượng của hợp đồng là tài sản ở nước ngoài (đối với trường hợp các bên chủ
thể ký kết có cùng quốc tịch, mặc dù hợp đồng được giao kết trong nước) [15,
tri 86].
Như vậy, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất
vể ý chí giữa các bên có nhân tố nước ngoài trong quan hệ mua bán hàng hoá mà
thông qua đó thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý
giữa các chủ thể đó với nhau.
Trước hết, vì đây là một quan hệ hợp đồng nên phải trở lại nguồn gốc ban
đầu của hợp đồng. Đó là thoả thuận được thống nhất của các bên mà qua thoả
thuận này nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyển và nghĩa vụ. Cụ thể
hơn trong trong quan hệ này là mua bán hàng hoá. Các quyền và nghĩa vụ được
12


xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt đó liên quan đến việc mua bán hàng hoá. Một
bên tham gia hợp đổng sẽ là bên nước ngoài đối với bên còn lại. Bên có nhân tố
nước ngoài ở đây được hiểu là thương nhân không thuộc cùng một nước vcd bên
còn lại. Việc quy định các điều kiện để xác định thương nhan thuộc các nước
khác nhau sẽ do pháp luật của từng nước hoặc theo các công ước khác nhau.


1.2.3 Đ ặc điểm .
1.2.3. ỉ V ề chủ thể.

Chủ thể tham gia trong Họp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương
nhân. Dấu hiệu đầu tiên trong Hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế chủ thể tham
gia là các thương nhân. Luật Thương mại quy định : “thương nhân gồm cá nhân,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đãng ký kinh doanh hoạt đông thương mại
một cách độc lập, thường xuyên” [5, Điều 5], Quốc tịch của thương nhân theo
quy định của pháp luật Việt Nam là căn cứ theo nước mà thương nhân đó có
đăng ký kinh doanh. Vì vậy, thương nhân nước ngoài là thương nhân đó có đăng
ký kinh doanh không trên lãnh thổ Viột Nam. Tư cách của thương nhân được xác
định theo pháp luật của quốc gia hay lãnh thổ mà thương nhân đó đăng ký kinh
doanh. Như vậy, nếu một trong các bên tham gia hợp đồng khổng cùng đăng ký
kinh doanh tại Việt Nam thì dược coi là HĐMBHHQT.
Trên nguyên tắc tự do kinh doanh, pháp luật của hầu hết các nước cho
phép m ọi thương nhân khi có đầy đủ điểu kiện tham gia hoạt động mua bán hàng
hoá quốc tế. Tuy nhiên, đo tính phức tạp của HĐMBHHQT mà pháp luật của
một số nước còn có những điều kiện bổ sung đối với pháp nhân của mình để có
thể trở thành chủ thể của HĐMBHHQT. V í dụ, theo quy định của pháp luật Viột
Nam tại Nghị định 57/1998/NĐ-CP ban hành ngày 31.7.1998 trong mục kinh
doanh xuất nhập khẩu đã nêu rõ: “thương nhản là các Doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất
nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghể đã đãng ký kinh doanh trong giấy chứng
nhận kinh doanh”.
Như vậy, để trở thành chủ thể của HĐMBHHQT các bên tham gia phải là
các thương nhân. Bên cạnh đó một dấu hiệu cũng hết sức quan trọng để các
thương nhân trở thành chủ thể của HĐMBHHQT đo là: các thương nhân phải có
quốc tịch khác nhau hoăc có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau. Đây
là dấu hiệu hết sức quan trọng bởi chính dấu hiộu này tạo nên tính quốc tế của
một HĐMBHHQT.

Tóm lại, để trở thành chủ thể trong HĐMBHHQT phải đáp ứng được hai
điều kiện. Thứ nhất, chủ thể phải là các thương nhân. Thứ hai, các thương nhân
đó phải thuộc các nước khác nhau, có thể là có quốc tịch khác nhau, theo pháp
luật Việt Nam hoặc có trụ sở thương mại đóng tại các nước khác nhau, theo
Cổng ước Viên nãm 1980.

13


1.2.3.2 Về dối tượng.

Như trên đã trình bày hàng hoá là đối tượng của HĐMBHHQT theo Luật
Thương mại gồm những vật có thực và chỉ bao gồm các động sản được phép lưu
thông.
Tại Điều 2 Công ước Viên năm 1980 cũng không đưa ra một định nghĩa
cụ thể về hàng hoá mà sử dụng phương pháp loại trừ. Như vậy, hàng hoá theo
Công ước Viên năm 1980 là vật tham gia vào hoạt động mua bán không nhằm:
- Mục đích tiêu dùng,
- Bán đấu giá,
- Đ ể thi hành luật hoặc uỷ thác văn kiện,
- Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, chứng từ lưu thông hoặc tiền
tệ,
- Tàu thuỷ, máy bay và các tàu chạy trên đệm không khít
- Điộn năng.
Dưới các góc độ khác nhau có nhiều cách hiểu về hàng hoá, nhưng khái
quát lại có thể hiểu hàng hoá là vật tồn tại dưới hình thức hữu hình hoặc vô hình
và có thể tham gia vào giao dịch buôn bán.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính quốc tế trong HĐMBHHQT thì không phải
bất kỳ hàng hoá nào cũng có thể là đối tượng của HĐMBHHQT. Môt đặc điểm
về đối tượng của HĐMBHHQT là đối tượng trong hợp đồng thông thường được

dịch chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Vì vậy, các chả thể khi tham
gia vào quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế cần phải tìm hiểu xem hàng hoá định
mua hoặc bán có phải là hàng hoá được phép kinh doanh không tại các nước của
đối tác không. Cụ thể, hàng hoá đó có phải là hàng hoá bị cấm hoặc hàng kinh
doanh có điều kiện hay không. Căn cứ để xác định loại hàng hoá cấm mua hoặc
mua bán có điều kiện là theo luật của quốc gia xuất hoặc nhập hàng hoá đó. Việc
cấm hay hạn chế một số loại hàng hoá nhất định xuất phát từ chính sách quốc
phòng của các quốc gia hoặc vấn đề độc quyền kinh tế, vấn đề không chuyển
giao công nghệ tiên tiến cho các nước khác.
Tóm lại, hàng hoá cẩn phải đảm bảo được các yếu tố thông thương thì mới
có thể được coi là đối tượng của HĐMBHHQT.

1.2.3.3 Đ ồng tiền thãnh toán.

Đổng tiền được dùng thanh toán trong HĐMBHHQT rất đa dạng. Đồng
tiền phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp đổng. HĐMBHHQT
thông thường sẽ có thoả thuận quy định cụ thể về vấn đề đổng tiền chanh toán
được dùng cho hợp đồng đó. Trong một quan hộ mua bán hàng hoá quốc tế, chủ
thể có thể thoả thuận đồng tiền thanh toán trong hợp đổng là đồng tiền của một

14


trong các bên tham gia hoặc có thể dùng đồng tiền của một quốc gia thứ ba.
Đồng tiến này có thể được sử dụng trong khu vực hay loại đồng tiền được sử
dụng Ihông đụng trên thế giới.
Đ ồng tiền được sử dụng có thể đồng tiền là vàng. Hiện nay đồng tiền
thanh toán là vàng không được sử dụng nhiều. Đồng tiền thanh toán có thể là các
đồng tiền thuộc cộng đồng thống nhất như đồng Euro. Đồng tiền cũng có thể là
tiền quốc gia. Các chủ thể thống nhất sử dạng tiền của một quốc gia nhất định để

thanh toán hợp đồng, ví dụ như VND, USD, FRS .,.
Hình thức thanh toán có thể là dùng tiền mặt hoặc dùng hình thức chuyển
khoản, hoặc có thể dùng hối phiếu, séc. Việc dùng tiền mặt để thanh toán thông
thường được sử dụng đối với buôn bán hàng hoá theo con đường tiểu ngạch.
V iệc sử dụng đồng tiền thanh toán trong hợp đổng phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố. Điều này có thể phụ thuộc vào quan hộ của các bên trong hợp đồng hoặc
có thể phụ thuộc vào tập quán của các bên khi đã có quan hệ nhiếu lần.
Có một thực tế trong HĐMBHHQT là các bên đa phần muốn sử dụng
đồng tiền trong hợp đồng là của nước mình. Bởi khi dùng đồng tiền của nước
minh thì việc thanh toán có thể tránh được rủi ro tỷ giá gây ra bất lợi. Hơn thế
nữa, khi phải chuyển đổi một số lượng tiền lớn sang ngoại tệ thì phải mất chi phí
chuyển đổi. Tất cả những phụ trội đó sẽ tạo nên chi phí tăng cao trong giá mua
hàng.
Với những lý do vừa được trình bày trên đây, đồng tiền dùng để thanh toán
chứng minh là một đặc điểm quan trọng của HĐMBHHQT.

1.3 Một số nguyên tác cơ bản của HĐMBHHQT.
Trước hết, các nguyên tắc cơ bản của HĐMBHHQT cũng là các nguyên
tắc cơ bản của HĐMBHH. Với đặc thù là có yếu tố nước ngoài nên mộĩ vài
nguyên tắc cần được cụ thể hoá đối với trường hợp cá biệt là HĐMBHHQT.

U .- l.N g ụ ỵ ệ n iẩ £ p h ù .h ợ p ..v ớip h ấ p ju ậ t ợ m .c ạ c .n ư ứ c c ó J iệ ji q ụ m ..

V iệc tham chiếu pháp luật của các nước là điểu cẩn thiết, trong đó có pháp
luật của nước có bên đối tác. Đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn
cầu. Pháp luật của các nước, trong đó liên quan đến thương mại đã mang những
đặc điểm chung giống nhau hơn. Nhưng không phải vì thế mà pháp luật của
nước đối tác lại không cần xem xét tới.
Viộc tham khảo và đối chiếu pháp luật của nước có bẻn đối tác sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến hợp đổng kinh doanh của mình. Ví dụ như liên quan đến hoạt

động kinh doanh bán phá giá hoặc kinh doanh độc quyền. Vấn đề này Việt Nam
đã gặp phải qua vụ bị kiộn bán phá giá cá basa với Mỹ. Việc tham khảo pháp
luật của nước có đối tác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh. Hàng hoá

15


là đối lượng của hợp đổng sẽ cần được xem xét có thể được pháp luật các nước
cho mua bán được không. Việc bán có vi phạm chống phá giá hoặc vi phạm pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng. Việc mua bán có vi phạm pháp luật liên quan đến
bảo vệ môi trường theo pháp luật của nước sở tại không.
Không chỉ liên quan đến pháp luật của nước bên đối tác mà các bên có thể
phải tham khảo pháp luật của một nước thứ ba. Điều này cần thiết trong nhiều
trường hợp khác nhau khi các bên ỉựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng của mình.
Đặc biệt khi các bên mua bán hàng hoá mà vận chuyển qua hàng hải. Việc áp
dụng pháp luật của nước Anh được đa phần các bên liên quan đến hàng hải đưa
vào trong hợp đồng. Các bên trong hợp đồng cần phải tìm hiểu pháp luật của
nước có bên đối tác cũng như pháp luật của nước thứ ba, mà các bên sẽ vận dụng
trong hợp đổng của mình.
V ì vậy, các bên nên chuẩn bị tốt để mua bán thuận lợi, chống bị kiện hoặc
cũng như có thể kiện. Các bên cần tham chiếu pháp luật của nước đối tác, của
nước thứ ba có ỉiên quan là điều kiện rất cần thiết của các bên trong
HĐMBHHQT.

lJ J M ^ m ê ũ J Ắ c ^ ô M M M Ẩ u M ĩ± ầ M ỉ2 £ M ũ M ũ đ Q j£ c  J jm .g i^
Không chỉ pháp luật quốc gia mà các điều ước quốc tế cũng có vai trò lớn
tham gia điều chỉnh HĐMBHHQT. Đã có rất nhiều công ước đa quốc gia hoặc
song phương điều chỉnh loại hợp đồng này. Điển hình loại công ước này là Công
ước Viên năm 1980 được giới thiệu trong luận văn này. Không chỉ liên quan đến
công ước mà các tập quán quốc tế cũng có vai trò quan trọng trong điều chỉnh

loại quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá này. Điển hình cho loại tập quán này là
Incoterms 1 do phòng thương mại và công nghiệp Pari ấn hành.
N goài các công ước và tập quán quốc tế thì các văn bản quốc tế do một
nhóm hoặc một tổ chức quốc tế soạn thảo cũng mang ý nghĩa lán. Các bên hoàn
toàn có thể dùng các văn bản này làm cơ sở pháp lý cho các bên để hình thành
hợp đồng. V í dụ cho loại văn bản này là Nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc
tế được giới thiệu ở trên và tiếp theo đây.
Khi các bên tham gia ký kết, khi tham gia thực hiện hợp đổng hoặc khi
tranh chấp hợp đồng thì việc am hiểu pháp luật và tập quán quốc tế là điều rất
quan trọng cho các bên hoàn thành tốt hợp đồng của mình.

1.4 Vai trò và ý nghĩa của HĐMBHHQT.
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thì nhu cầu giao lưu hàng
hoá ngày càng cao. So với các lĩnh vực sản xuất và địch vụ, hoạt động mua bán
hàng hoá luôn chiếm một tv trọng lớn trong nền kinh tế quốc tế. Song hành với
1 Incoterm s các nâm 1936; 1953; 1967; 1980; 1990; 2000-

16


hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế là sự góp mặt của HĐMBHHQT. Đặc biệt
là trong điều kiện hiện nay xu hướng hội nhập khư vực và xu thế toàn cầu hoá
nền kinh tế thế giới đang là mối quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của các
quốc gia. Chính vì vây mà vai trò của hoạt động trao đổi hàng hoá cũng như vai
trò của HĐMBHHQT đã và đang trở nên quan trọng.

1.4.1 H Đ M B ỈỈH O T th ổ h iện Ý ch íc ủ ạ cắc hên tham gia giao k ế t hợp
đầũểU

HĐMBHHQT là kết quả của sự tự do thoả thuận giữa các bên chủ thể

trong hợp đổng. Nó thể hiện sự tự nguyện của các bên tham gia giao kết. Đây là
căn cứ cơ bản nhằm đảm bảo một nguyên tắc cơ bản của hợp đồng. Ý chí của
các bên trong HĐMBHHQT được thể hiện thông qua các nội dung mà các bên
đã cùng nhau xây dựng trong hợp đồng. Các điểu mà các bên thoả thuận trong
HĐMBHHQT chỉ có hiệu lực khi nó thực sự thể hiện sự thống nhất ý chí của các
bên. HĐMBHHQT sẽ bị vô hiệu nếu có sự lừa dối, mua chuộc, đe doạ.
Như vậy, ý nghĩa quan trọng của HĐMBHHQT là ghi nhận sự tự do thể
hiện ý chí của các bên trong hợp đồng.

i.

4 2 H D M B H H Q T J à ç ô n g ç u p h á p Ịý đ ể b ầ o y ệ q ư ỵ ề n Y ầ .M J c h jQ Ỉm h

đ ắ ũ g jm s á & J 3 ề ỉL

HĐMBHHQT có ý nghĩa thiết thực là công cụ pháp lý để bảo vệ quyển và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đổng. Quan hệ mua bán hàng hoá
quốc tế là quan hệ tiền hàng song vụ. Các bên có quyển thoả thuận về quyển và
nghĩa vụ của minh và của đối tác với mục đích đảm bảo quyền và lợi ích của
mình. Theo đó, một bên có quyền nhận hàng hoá theo đúng thoả thuận và một
bên có quyền nhận tiền sau khi đã hoàn thành trách nhiẻm của mình theo thoả
thuận. Các bên đều có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ.
HĐMBHHQT là cân cứ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyển và nghĩa vụ
của các bên. Vì vậy, pháp luật của nhiểu quốc gia trên thế giới yêu cầu hình thức
của HĐMBHHQT phải được lập thành vân bản. Bởi văn bản là hình thức vật
chất, công cụ biểu hiên cụ thể sự thoả thuận của các bên và nếu như có một bên
vi phạm thì đó là công cụ để bảo vệ hữu hiộu quyền và lợi ích của bên kia. Qua
văn bản là HĐMBHHQT mà Nhà nước có thể xác định ý chí thực của các bên
vào thời điểm giao kết hợp đồng. Qua hợp đồng mà Nhà nước có thể giải thích
được ý chí của các bên trong hợp đồng, nhằm giải quyết những bất đồng của các

bên liên quan đến hợp đồng. Qua họp đồng mà cơ quan tài phán có thể xác định
được lỗi của các bên, xác định được vi phạm và từ đó có những chế tài thích hợp
nhằm đảm bảo công bằng và lợi ích cho bên bị vi phạm.


1.4.3 I/Đ M B /U /O T .dúp quốc gia kiểm soát ììOcìt dộng kin h doanh num
bấũM ũgM oL
Ngoài vai trò đảm bảo quyển và lợi ích của các chủ thể tham gia
HĐMBHHQT nêu trên, HĐMBHHQT còn là công cụ giúp các cơ quan chức
năng của quốc gia kiểm soát được hoạt động kinh doanh khi xuất nhập khẩu.
Thông qua các hoạt động kiểm tra hoạt động kinh doanh của các thương nhân,
thông qua kiểm tra các hợp đổng, các giao dịch của các chủ thể mà các quốc gia
có thể nắm được hoạt động kinh doanh của các thương nhân. Từ hoạt động kiểm
tra, nắm số liệu thương mại quốc tế này mà Nhà nước có thể kịp thời điều chỉnh
các chính sách thương mại quốc tế.
Qua kiểm tra mà Nhà nước có thể phát hiện các sai phạm của các thương
nhân mắc phải trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Đổng thời qua công
tác kiểm tra các HĐMBHHQT của các thương nhân mà các cơ quan Nhà nước
có thể ban hành mái, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với
tình hình thực tiễn của các thương nhân. Những thay đổi phù hợp sẽ rạo điều
kiện để thương nhân nước mình có thể giao kết thuận lợi và bảo vệ tốt hơn với
các thương nhân nước khác. Những thay đổi này góp phần thúc đẩy nền kinh tế
quốc gia phát triển.

1.5 Nguồn luật điều chỉnh H Đ M BH H Q T.

Trên đây đã giới thiệu hai nguyên tắc là tham khảo pháp luật của các nước
có đối tác và công ước hoặc văn bản soạn thảo bởi các tổ chức quốc tế. Vì vậy,
sự giới thiệu pháp luật của một số nước có quan hệ thương mại lớn với Việt Nam
và công ước thường xuyên áp dụng là điều hữu ích cho hợp đổng thương mại

quốc tế.
Cộng hoà Pháp là nước đã tham gia và phê chuẩn Cồng ước Viên năm
1980. Công ước trên đã được đưa lên công báo của nước Pháp ngày 27.12.1987
bằng nghị định số 87-1034 ngày 22.12.1987. Công ước trên đã có hiệu lực tại
nước Pháp ngay vào ngày đầu tiên công ước đó có hiệu lực, ngày 01.01.1988.
Công ước trên đã được áp dụng rộng rãi ở nước Pháp khi các thương nhân Pháp
ký kết HĐMBHHQT với bèn nước ngoài.
Mỹ là một nhà nước liên bang với tất cả gồm 50 bang. Mỗi bang của Mỹ
lại có thẩm quyền ban hành pháp luật riêng cho mình. Vì vậy, trên nguyên tắc thì
pháp luật của Mỹ không thống nhất. Đối với pháp luật về hợp đồng là lĩnh vực
pháp luật được ban hành theo các bang khác nhau. Vì vậy, chỉ có pháp luật hợp
đổng của các bang mà không có pháp luật hợp đồng chung cho cả nước Mỹ.
Luật hợp đồng được ban hành dựa trên các phán quyết của các toà án khác nhau
thuộc các bang khác nhau, v ề lĩnh vực mua bán và cho thuê hàng hoá trong
nước thì hầu hết các bang đều ban hành Luật Thương mại dựa trên Bộ luật
Thương mại thống nhất (UCC). Trong hệ thống pháp luật Mỹ không tổn tại hệ
thống các khái niệm và quy định pháp luật chung vể hợp đổng một cách tổng thể
18


hoặc cụ thể. Cũng tương tự như vậy thì Mỹ không tồn tại một học thuyết hoặc
quy định chung thống nhất để có thể áp dụng chung cho các quan hệ trong và
ngoài hợp đồng.
Khi giao dịch với đối tác nước ngoài mà nước đó đã phê chuẩn Công ước
Viên năm 1980 thì người Mỹ áp dụng công ước này [ 16, tr 48].
Việc nêu rằng luật của Mỹ ở trên hoặc dưới đây chỉ mang tính chất mang
nêu theo đa số quy định của các bang, mà không thể hiểu là một quy định được
áp dụng chung cho tất cả.
Vì sự phát triển kinh tế đến mức toàn cầu hoá nên nhu cầu thống nhất luật
thương mại là một việc hoàn toàn dễ hiểu. Nhằm thống nhất luật thương mại, đặc

biệt là pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế, các quốc gia và các tổ chức
quốc tế đã có nhiều nỗ lực để nhằm đạt được mục tiêu này. Xu hướng chủ đạo
của sự thống nhất này đi theo hai hướng. Thứ nhất là tạo ra các văn bản luật mẫu.
Thứ hai là tạo ra các nguyên tắc cơ bản và không mang tính bắt buộc.
Xu hướng thứ hai đã chiếm ưu thế và được phát triển mạnh. Điểu này được
thể hiện qua hai văn kiện quốc tế quan trọng trong hoạt động thương mại quốc
tế. Thứ nhất ỉà Công ước về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Liên hiệp
quốc hay còn gọi là Công ước Viên 1980 (The United Nations Convention on
Contracts for The International Sale o f Goods : Công ước Viên năm 1980). Thứ
hai là Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế (Principles o f International
Commercial Contracts : PICC) năm 1994.
Để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế không thể khổng nhắc
đến Công ước Viên 1980 về HĐMBHHQT của Liên hiệp quốc. Công ước Viên
năm 1980 là công ước quốc tế đa phương được ký ngày 11.4.1980 tại Viên và có
hiệu lực từ ngày 01.01.1988. Hiện nay Công ước này có 62 nước thành viên [30].
Nội dung của Công ước này là quy định các vấn để cơ bản về HĐMBHHQT.
Mục đích của cỏ n g ước là nhằm tiến tới nhất thể hoá luật quốc tế về mua bán
hàng hoá quốc tế. Công ước Viên năm 1980 hướng tới sự loại bỏ những cản trở
do quy định quá khác nhau trong hộ thống pháp luật của các quốc gia. Những
quy định của công ước nhằm hạn chế các xung đột pháp luật trong mua bán quốc
tế. Chính vì vậy, Công ước Viên năm 1980 còn được coi là một luật thống nhất
về hợp đồng áp dụng đối với HĐMBHHQT, Phần lớn các hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế được điều chỉnh theo Cồng ước Viên 1980. Điều này xuất phát
một phần từ quy định áp dụng một cách cởi mở của công ước. Kể cả trường hợp
các bên không phải là thành viên của Công ước Viên 1980 cũng có thể thoả
thuận áp dạng Công ước trong các HĐMBHHQT của mình. Bởi theo quy định
phạm vi áp dụng cổng ước tại Điều 1 thì không được xem xét tới quốc tịch, đặc
trưng dần sự hoặc thương mại của các bên khi các bén áp dụng công ước này.
Theo qưy định của Công ước năm Viên 1980 thì HĐMBHHQT có thể
được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng được coi là hợp pháp. Công ước

Viên năm 1980 không yêu cầu hợp đồng mua bán phải tuân thủ một yêu cầu nào
đó về mặt hình thức. HĐMBHHQT khong yêu cầu phải được ký hoặc được xác
nhận bằng văn bản. Các bên có thể dùng bất kỳ phương tiện nào kể cả lời khai
của nhân chứng để chứng minh sự tồn tại [1, Điều 11]. Quy định trên là một quy

19


định hết sức rộng mở nhằm mục đích íạo điểu kiện thuận lợi nhất cho các chủ
thể khi tham gia giao kết HĐMBHHQT. Quy định này xuất phát từ thực tế của
hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế ngày nay đã và đang diễn ra hết sức sôi
động. Chính vì vậy đòi hỏi các chủ thể trong quá trình thoả thuận, giao kết hợp
đồng phải tiến hành một cách hết sức khẩn trương. Để làm được điều này các
bên tham gia giao kết cần tránh các hình thức giao kết phức tạp. Nếu hình thức
hợp đổng yêu cầu phức tạp thì sẽ dẫn tới mất nhiều thời gian, công sức của các
bôn. Điều này cũng đồng nghĩa các bên sẽ mất đi nhiểu cơ hội kinh doanh. Bên
cạnh đó việc quy định hình thức hợp đồng thông thoáng như vậy tạo nên sự
thuận lợi trong giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như chứng minh hợp đồng khi
tranh chấp giữa các bên. Có thể nói quy định về hình thức của hợp đồng theo
cỏ n g ước đã mang tính đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong hợp
đổng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tuy nhiên, căn cứ theo truyền thống pháp luật thì còn nhiều quốc gia vẫn
quy định bắt buộc hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản. VI vậy, với mục đích nhất thể hoá luật về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế và tạo điều kiện để nhiều quốc gia có thể tham gia Công ước
nên đã có những quy định mở. Theo quy định của công ước thì hình thức của hợp
đổng cũng cần được lập thành văn bản [1, Đ iểu 96]. Trường hợp này được áp
dụng nếu pháp luật của một bên tham gia hợp đồng có quốc gia mình là thành
viên của công ước quy định như vậy. Đây là một quy định đáng lưu ý để các chủ
thể khi ký kết hợp đồng buộc phải tôn trọng. Bửi vì nếu không tôn trọng quy

định này thì hợp đổng sẽ bị coi là vô hiệu và hậu quả là những thiệt hại mà các
bên khó tránh khỏi.
Ngoài hình thức của hợp đồng được “bỏ ngỏ” để dành cho quy định của
mỗi quốc gia thì Công ước Viên năm 1980 còn để ngỏ những vấn để sau. Đ ó là
cơ sở pháp lý của hợp đổng, năng lực hành vi của các bên tham gia hợp đồng,
quyền khiếu nại của người thứ ba và trách nhiệm gây thiệt hại vể thân thổ hoặc tử
vong cho một người nào đó [26, tr. 808]. Những váh đề trên được dành cho pháp
luật của m ỗi quốc gia tự giải quyết, bởi những quy định về các vấn đề đó rất
khác biệt theo mỗi quốc gia khác nhau mà khó có thể tìm được những quy định
chung. Vì vậy, việc không đưa những quy định đó vào trong Công ước Viên năm
1980 nhằm tránh mâu thuẫn với các chủ thể phê chuẩn công ước.
Về Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, hay gọi tắt là PICC, được
soạn thảo bởi Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế (Institut International pour
I’Unification des Droits Privés) là một tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành
lập tờ năm 1929, đặt trụ sở tại Roma. Ngay từ năm 1971, Viện đã đặt vấn đề
thống nhất hợp đổng mua bán hàng hoá quốc tế vào chương trình làm việc. Viện
dã lập một uỷ ban chuyên trách gồm các giáo sư của các nước Anh, Pháp,
Rumani đại diện cho ba trường phái luật học lớn: luật dân sự (Continental Law),
luật thông dụng (Common Law) và luật xã hội chủ nghĩa (Socialist Systems).
Tuy nhiên, tới năm 1980 một nhóm công tác đặc biệt mới được Viện thành lập
để soạn thảo cụ thể. Nhóm này gồm các chuyên gia hàng đầu về luật hợp đổng
và luật thương mại quốc ĩế của các hệ thống luật trên thế giới. Sau một thời gian
dài soạn thảo, Viện đã cho ra mắt PICC vào tháng 5 năm 1994. PICC điều chỉnh
20


về các hợp đồng thương mại quốc tế nói chung mà không riêng hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Phạm vi điều chỉnh của PICC rộng hơn so với Công ước
Viên năm 1980.
Phần lớn các điều luật trong PICC được kế thừa từ các hệ thống luật trên

thế giới. Đồng thời, PICC cũng được soạn thảo nhằm được sử dụng một cách tốt
nhất cho các hoạt động thương mại trên thế giới. Vì vậy, PICC cố gắng đưa ra
những giải pháp tốt nhất cho các vấn đề đặt ra, mặc dù những giải pháp này có
thể chưa pho biến.
PICC có mục đích giải quyết công bằng chung cho một vấn đề. Sự công
bằng này cố gắng đạt được dù xem xét từ bất cứ góc độ nào của hệ thống luật
pháp, kinh tế hay chính trị nào trên thế giới, c ả hai mặt hình thức và nội dung
của PICC đều the hiện điều này.
Về hình thức, PICC dùng những từ ngữ chung nhất cho mọi hệ thống luật
pháp. Trong PICC, chỉ những vấn đề giống với Công ước Viên năm 1980 mới
được nêu nguồn gốc, còn lại những vấn đề khác không được nêu nguồn gốc từ
các quốc gia nào hay từ hệ thống luật pháp nào.
Vẻ nôi dung, PICC được soạn thảo với sự nhìn trước về sự thay đổi của tập
quán giao dịch thương mại quốc tế do sự phát triển của kinh tế, kỹ thuật và công
nghệ. PICC cũng đồng thời quy định rõ nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
nhằm đảm bảo công bằng trong quan hệ thương mại quốc tế. Sự rõ ràng về nghĩa
vụ của các bên giúp cho trong một quan hệ hợp đổng cụ thể sẽ tránh được sự
thúc ép từ một bên chiếm ưu thế hơn bên đối tác. Các nghĩa vụ của các bên được
quy định theo nguyên tắc thiện chí và trung thực, theo những tiêu chuẩn của cư
xử đúng mực.
Vẻ phạm vi điều chỉnh thì PICC có mục đích nhằm điều chỉnh những quan
hệ thương mại quốc tế mà các bên tham gia là thương nhân hoặc bản chất của
giao dịch là thương mại. Quan niệm “thương mại” củâ PICC nên được hiểu theo
nghĩa rộng nhất có thể được. Điều này có nghĩa thương mại không chỉ bao gồm
các cuộc giao dịch thương mại nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay
dịchvụ, mà còn bao gổm các loại hình giao dịch kinh tế khác, như hợp đổng đầu
tư, hợp đồng cung cấp các dịch vụ chuyên m ôn... .

21



CHƯƠNG 2

C Á C Đ IỂ U K IÊ N H IỆ U L Ự C C Ủ A
H Ợ P Đ Ổ N G M UA BÁN H À N G H O Á Q U Ố C TẾ

2 . 1 K h á i n iệ m .

Các điều kiện hiệu lực của một giao dịch là các điều kiện để giao dịch đó
được pháp luật công nhận. Hay nói cách khác là một giao dịch nếu thiếu một
trong các điều kiện hiệu ỉực thì giao dịch đó bị coi ỉà vô hiệu. Việc vô hiệu này
có thể ỉà vô hiệu hình thức hoặc nội đung, hay vô hiệu tương đối hoặc tuyệt đối.
Các giao dịch thương mại là một dạng cụ thể của giao địch dân sự. Vì vậy,
một giao địch thương mại có hiệu lực thì cũng phải thoả mãn các điều kiện hiệu
lực của một giao địch dân sự. Tại Điều 131 Bộ luật Dân sự (BLDS) nêu bốn điều
kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực. Thứ nhất là người tham gia giao dịch
có năng lực hành vi dân sự. Thứ hai là mục đích và nội dung của giao dịch không
trái pháp luật, đạo đức xã hội. Thứ ba ỉà người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện. Cuối cùng là hình thớc giao dịch phù hợp với quy đinh của pháp luật.
Các điều kiện hiệu lực của HĐMBHH với thương nhân nước ngoài là các
điều kiện để pháp luật công nhận hợp đồng đố có giá trị pháp l ý . Tại Điều 81
Luật Thương mại quy định cụ thể về bốn điều kiện để một hợp đồng trên có hiệu
lực. Thứ nhất là chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách
pháp lý. Thứ hai là hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo
quy định của nước bên mua và nước bên bán. Thứ ba là hợp đồng phải có các nội
dung chủ yếu theo quy định tại Điều 50 Luật Thưcmg mại. Cuối cùng là hợp
đổng phải được lập thành văn bản. Như vậy, những quy định của Điều 81 Luật
Thương mại cự thể hoá các điều kiện hiệu lực của Điều 131 BLDS đối với
HĐMBHH với thương nhân nước ngoài.
So sánh những điều kiện của các quy định trên, có thể tổng hợp các điểu

kiện hiệu lực của HĐMBHH với thương nhân nước ngoài gổm bốn yếu tố. Thứ
nhất là chủ thể phải có đủ tư cách pháp lý. Thứ hai là mục đích và nội dung của
giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong yếu tố này, việc quy định
nội dung của giao dịch không trái pháp luật đã bao gồm hàng hoá của hợp đổng
phải được phép và phải bao gồm các nội dung của Điều 50 Luật Thương mại.
Thứ ba là người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyên. Cuối cùng là giao dịch
phải được lập thành văn bản.

2 . 2 C á c đ iể u k iệ n h iệ u lự c c ủ a H Đ M B H H Q T .

22


×