Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.69 KB, 19 trang )

Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện
tại Việt Nam
Phạm Thị Huyền

Học viện Ngân hàng- Phân viện Bắc Ninh

Thực tiễn cho thấy, các thành tựu về công nghệ số và Fintech là động lực
quan trọng và cũng là phương tiện để đạt được những kết quả đột phá về
tài chính toàn diện ở nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Thông qua
Fintech, các tổ chức tài chính có thể phát triển các kênh cung ứng dịch vụ
ngân hàng điện tử, xóa đi rào cản về không gian cũng như thời gian, cho
phép cung cấp các dịch vụ tài chính với chi phí rẻ hơn, từ đó tạo điều kiện
cho người nghèo, người ở khu vực vùng xâu, vùng xa có thể tiếp cận với
các dịch vụ ngân hàng mọi lúc, mọi nơi. Hiện nay, ở Việt Nam mức độ tiếp
cận tài chính còn ở tỷ lệ thấp, theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018),
có khoảng 90% giao dịch của người dân vẫn là giao dịch tiền mặt, chỉ có
39,8% người trưởng thành có tài khoản tại các tổ chức tài chính. Đặc biệt,
69% dân số ở khu vực nông thôn vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận tài chính. Trong khi đó, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại di động
thông minh khá là cao (55%), là cơ hội để người dân dễ dàng tiếp cận được
với các dịch vụ tài chính hơn. Do đó, bài nghiên cứu này sẽ tập trung tìm

The application of Fintech in promoting financial conclusion in Vietnam

Abstract: In practice, digital and Fintech achievements are an important driving force and a means to achieve
breakthrough financial results in many countries in recent years. Through Fintech, financial institutions can
develop e-banking service supply channels, remove spatial and temporal barriers, allowing financial services
supply to be cheaper, thereby creating conditions for the poor people in remote areas to access to banking
services anytime, anywhere. Currently, in Vietnam the level of financial inclusion is still low, according to the
State Bank of Vietnam (2018), about 90% of people’s transactions are still cash transactions, only 39.8 % of
adults have accounts at financial institutions. In particular, 69% of the population in rural areas still face with


difficulties in accessing financial services. Meanwhile, the percentage of people using smart mobile phones
is quite high (55%), which is an opportunity for people to easily access to financial services. Therefore, this
research paper will focus on researching the status of Fintech development, from which to introduce some
solutions to apply Fintech in promoting financial inclusion in Vietnam.
Keywords: Financial inclusion, Fintech, Fintech enterprise.
Huyen Thi Pham, M.Ec
Email:
Banking Academy of VietNam, Bacninh Campus
Ngày nhận: 13/09/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 209- Tháng 10. 2019

Ngày nhận bản sửa: 30/09/2019

36

Ngày duyệt đăng: 21/10/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X


PHẠM THỊ HUYỀN

hiểu thực trạng phát triển Fintech, để từ đó đưa ra những giải pháp ứng
dụng Fintech nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam.
Từ khóa: tài chính toàn diện, Fintech, doanh nghiệp Fintech
1. Khái quát về Fintech và tài chính
toàn diện

Khái niệm Fintech
Fintech- viết tắt của từ Financial
Technology- có nghĩa là Công nghệ tài
chính. Fintech đề cập đến việc tận dụng
sáng tạo công nghệ trong các hoạt động
vào dịch vụ tài chính. Ở phương diện
đầy đủ hơn, theo Wikipedia trích dẫn từ
Huffington Post (2017) Fintech được định
nghĩa là một ngành công nghiệp tài chính
mới áp dụng công nghệ để nâng cao hiệu
quả hoạt động tài chính. Có thể đưa ra
khái niệm về Fintech như sau: Fintech là
áp dụng công nghệ đổi mới, sáng tạo và
hiện đại vào lĩnh vực tài chính- ngân hàng
(ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…).
Theo đó, đặc trưng của Fintech là việc
cung ứng các sản phẩm dịch vụ dựa trên
công nghệ thông qua các ứng dụng (phần
mềm), được người sử dụng dễ dàng tải về
cài đặt trên các thiết bị thông minh. Như
vậy, để áp dụng các giải pháp và dịch vụ
thông minh trong cung ứng các dịch vụ
với mức chi phi thấp hơn, hiệu quả và
thuận tiện hơn các dịch vụ truyền thống,
thì xu hướng hợp tác giữa các công ty
Fintech và các tổ chức tài chính là tất yếu.
Theo Lê Huyền Ngọc (2018), khác với
thị trường tài chính truyền thống gồm
hai đối tượng, các định chế tài chính
(ngân hàng, công ty tài chính, đầu tư, bảo

hiểm, chứng khoán…) và khách hàng,
đối tượng của Fintech gồm 3 bên là các
định chế tài chính, các doanh nghiệp
Fintech, và khách hàng tác động qua lại

lẫn nhau. Qua đó, ngoài những dịch vụ
thông thường như thanh toán, cho vay,
chuyển tiền, Fintech còn cung cấp các
dịch vụ tài chính trải rộng hơn như gọi
vốn cộng đồng (crowd-funding), cho vay
ngang hàng (peer to peer lending), tư
vấn tài chính cá nhân (Personal Finance),
công nghệ bảo hiểm (Insur-Tech), tiền tệ
số (Crypto Blockchain), quản trị dữ liệu
(Data Management)… Như vậy, có thể
thấy các ứng dụng đa dạng của Fintech
đang tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực
hoạt động của ngành tài chính như tiền gửi
thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, thanh toán,
bảo hiểm, chứng khoán, tín dụng, quản
trị rủi ro. Không những thế, Fintech cũng
tác động đến cơ cấu thị trường, cơ cấu sản
phẩm, chiến lược phát triển và mọi mặt
kinh doanh của cả hệ thống tài chính ngân
hàng.
Khái quát về tài chính toàn diện
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(2017), tài chính toàn diện hay còn gọi là
tài chính bao trùm (financial inclusion)
là việc mọi người dân và doanh nghiệp

được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm,
dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù
hợp nhu cầu với chi phí hợp lý do các tổ
chức tài chính cung cấp một cách có trách
nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng
đến nhóm người nghèo, người thu nhập
thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ.
Theo Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Lê
Thảo Hương, Chu Nhật Anh (2019), khi
đo lường tài chính toàn diện của một quốc

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

37


Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam

gia cần xem xét trên 2 nhóm chỉ số sau:
- Sở hữu và sử dụng tài khoản là một trong
các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tiếp
cận tài chính của một quốc gia vì hầu hết
các dịch vụ tài chính đều bắt nguồn từ việc
sở hữu tài khoản. Hơn thế, tỷ lệ phần trăm
người trưởng thành sở hữu thẻ ghi nợ và
tín dụng cũng được sử dụng để đánh giá
mức độ phổ biến của tài khoản. Do vậy, 3
chỉ số để đo lường mức độ tiếp cận của tài
khoản là: Tài khoản (tài khoản, % tuổi từ

15 trở lên), thẻ ghi nợ (sở hữu thẻ ghi nợ,
% tuổi từ 15 trở lên) và thẻ tín dụng (sở
hữu thẻ tín dụng, % tuổi từ 15 trở lên).
- Tiết kiệm và vay tiền từ các tổ chức tài
chính chính thức đóng vai trò thiết yếu
trong việc phổ biến tài chính toàn diện. Để
đo lường mức độ tiếp cận tài chính từ tiết
kiệm và vay tiền cần xem xét các nhóm
chỉ tiêu sau: Vay tiền (vay từ tổ chức tài
chính, % tuổi từ 15 trở lên) và tiết kiệm
(gửi tiền tại tổ chức tài chính, % tuổi từ 15
trở lên).
Theo Dự thảo về Chiến lược tài chính toàn
diện quốc gia đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030 (NHNN, 2018), Việt Nam
được xếp vào nhóm quốc gia có mức độ
tiếp cận đến các dịch vụ tài chính ở mức
thấp. Điều này được thể hiện thông qua
số liệu do cơ sở dữ liệu Global Findex
(World Bank, 2017) cung cấp, cụ thể là
tỷ lệ người trưởng thành tại Việt Nam
có tài khoản chỉ là 30,8%, cao hơn Lào
(29,1%), Campuchia (21,7%) và Myanmar
(26,0%) nhưng thấp so với Indonesia
(49%) và thấp hơn nhiều so với Trung
Quốc (80,2%), Malaysia (85,3%), Thái
Lan (81,6%). Khu vực nông thôn Việt
Nam có 1.806 xã có ngân hàng, chi nhánh
ngân hàng và quỹ tín dụng nhân dân đang
hoạt động, chiếm 20,1% tổng số xã; tỷ lệ


38

người dân mở và sử dụng tài khoản ngân
hàng ở khu vực nông thôn còn thấp, đạt
25,2%, trong khi con số này ở Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Ấn Độ lần lượt là
80,7%, 81,1%, 40,7% và 79,3% (World
Bank, 2017). Từ những chỉ tiêu này cho
thấy, mức độ tiếp cận các dịch vụ tài chính
của Việt Nam còn thấp, đặc biệt là khu
vực nông thôn Việt Nam.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vai
trò của tài chính toàn diện nhưng theo
Nguyễn Thị Hòa (2017), tài chính toàn
diện có vai trò đối với các cấu phần của
nền kinh tế bao gồm:
- Về phía cầu, tài chính toàn diện giúp
gia tăng sự giàu có và ổn định cuộc sống
bằng cách tăng cường quản lý tài chính cá
nhân, từ đó gia tăng tiết kiệm cho người
dân. Đồng thời tài chính toàn diện còn
góp phần thực hiện thanh toán, chuyển
tiền an toàn, tiện lợi và đặc biệt là tiếp cận
tín dụng một cách chủ động trong các kế
hoạch chi tiêu và đầu tư. Điều này hoàn
toàn đúng cho cả cá nhân và các tổ chức
kinh tế.
- Về phía cung, tài chính toàn diện giúp
tăng lợi nhuận, giảm bớt rủi ro và phát triển

bền vững. Khi tài chính toàn diện phát triển
sẽ giúp các tổ chức cung ứng dịch vụ tài
chính mở rộng được thị trường, đa dạng
hóa được cơ cấu khách hàng và sản phẩm
dịch vụ, đặc biệt là giảm bớt rủi ro.
- Đối với nền kinh tế, thúc đẩy tài chính
toàn diện giúp thúc đẩy tăng trưởng GDP
của mỗi quốc gia, từ đó thúc đẩy tăng
trưởng việc làm và các hoạt động kinh tế.
Khi yếu tố kinh tế được đảm bảo thì yếu
tố xã hội cũng được quan tâm nhiều hơn,
điển hình là chênh lệch giàu nghèo trong
xã hội được giảm bớt.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


PHẠM THỊ HUYỀN

Vai trò của Fintech trong thúc đẩy tài
chính toàn diện

Với những ưu thế về đổi mới sáng tạo và
khả năng ứng dụng công nghệ linh hoạt và
hiệu quả, Fintech không những giúp giảm
chi phí mà còn mở rộng khả năng tiếp
cận nguồn tài chính cho nhiều đối tượng
khách hàng, bên cạnh các mô hình ngân
hàng truyền thống.
Theo Nguyễn Thị Hoà (2017), có 55 quốc

gia đã cam kết thực hiện tài chính toàn
diện. Khi cam kết thực hiện tài chính toàn
diện, các quốc gia sẽ kỳ vọng đẩy nhanh
tốc độ và động lực cải cách, tạo ra một
môi trường chính sách phù hợp và khuyến
khích sự cạnh tranh cho phép các ngân
hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng
đổi mới và mở rộng cung cấp dịch vụ. Đặc
biệt, tài chính toàn diện dựa trên Fintech
sẽ có các lợi ích sau: (i) Gia tăng tiếp cận
dịch vụ qua kênh giao dịch điện tử; (ii) Bổ
sung các dịch vụ tài chính phù hợp với các
nhu cầu của khách hàng trên nền tảng giao
dịch số; (iii) Giảm chi phí (cả phía nhà
cung cấp cũng như người sử dụng); (iv)
Giảm rủi ro mất mát, trộm cắp như trong
các giao dịch tiền mặt.
Tại Việt Nam, theo Dự thảo về chiến
lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm
2015, định hướng đến năm 2030 (NHNN,
2018), mục tiêu của tài chính toàn diện là
đảm bảo mọi cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế có thể tiếp cận và sử dụng dịch vụ
tài chính phù hợp với chi phí hợp lý; đặc
biệt chú trọng tới nhóm dân cư hiện chưa
được tiếp cận dịch vụ như người nghèo,
người dân sống ở vùng nông thôn, vùng
sâu vùng xa, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, tài chính toàn diện còn hướng
tới nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút

và thúc đẩy các nhóm cá nhân, doanh

nghiệp đã tiếp cận dịch vụ tài chính có thể
sử dụng nhiều dịch vụ hơn, đáp ứng đầy
đủ nhu cầu.
Để đạt được mục tiêu của tài chính toàn
diện, Fintech đóng một vai trò hết sức to
lớn nhờ vào việc giải quyết được những
khó khăn hiện nay trong việc thúc đẩy tài
chính toàn diện. Cụ thể: (i) Fintech giúp
đổi mới và khả năng đột phá về công nghệ
từ đó giúp các doanh nghiệp Fintech cũng
như các tổ chức tài chính đưa ra những
sản phẩm, dịch vụ nhanh hơn, tiếp cận
được với nhiều đối tượng hơn; (ii) giảm
bớt chi phí và rút ngắn thời gian giao dịch
làm cho khách hàng hài lòng hơn khi sử
dụng sản phẩm dịch vụ; (iii) đa dạng hóa
các loại sản phẩm dịch vụ cho khách hàng
để thiết kế ra những sản phẩm dịch vụ phù
hợp với nhu cầu của khách hàng hơn; (iv)
nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
2. Thực trạng phát triển Fintech tại
Việt Nam- cơ hội và thách thức
2.1. Thực trạng phát triển Fintech tại
Việt Nam
Theo Trịnh Ngọc Lan (2019), Fintech tại
Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn
khởi đầu nhưng phát triển nhanh chóng, số
lượng các công ty Fintech đã tăng gần gấp

bốn lần, từ khoảng 40 công ty vào cuối
năm 2016 lên đến gần 150 công ty tính
đến tháng 6/2019, hoạt động tại các phân
khúc khác nhau bao gồm thanh toán, cho
vay, blockchain và sinh trắc học. Nếu như
năm 2016, Fintech mới chỉ tập trung vào
lĩnh vực thanh toán thì đến nay, các doanh
nghiệp Fintech đã mở rộng hoạt động sang
các lĩnh vực khác. Và các doanh nghiệp
Fintech trong không gian thanh toán kỹ
thuật số nói riêng, đã phát triển về số
lượng và chất lượng tại Việt Nam. Hiện

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

39


Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam

tại chúng chiếm 47% tổng số khởi nghiệp
Fintech và có khoảng 78 startup Fintech
đang được các nhà đầu tư trong và ngoài
nước rót vốn, và dự kiến sẽ còn tăng theo
đà phát triển của Fintech. Có khoảng 72%
số công ty Fintech lựa chọn hợp tác với
ngân hàng để cùng kinh doanh, cung ứng
dịch vụ.
Mặc dù Fintech đã phát triển sang nhiều
phân khúc khác nhau nhưng thanh toán

vẫn là lĩnh vực chủ đạo và chiếm phần
lớn. Theo Trịnh Ngọc Lan (2019), tính
đến tháng 6/2019, có 30 tổ chức không
phải ngân hàng (bao gồm công ty Fintech
và tổ chức tài chính không phải ngân
hàng) đã được NHNN cấp giấy phép hoạt
động cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán (trong đó có 27 tổ chức cung ứng
dịch vụ Ví điện tử). Đặc biệt, trong thời kỳ
cách mạng công nghiệp 4.0, thanh toán di
động đã trở thành xu hướng với các công
nghệ như mã QR, tiếp xúc trường gần
NFC, số hóa thông tin thẻ, ví điện tử…
Trong tổng số 35 NHTM thì có 16 ngân
hàng triển khai dịch vụ thanh toán QR với
hơn 50.000 điểm chấp nhận thanh toán QR
code. Và có 76 tổ chức triển khai dịch vụ
thanh toán qua Internet, 44 tổ chức triển
khai dịch vụ thanh toán điện thoại di động
NHNN (2018). Về số lượng giao dịch và
giá trị giao dịch được thể hiện qua Bảng 1.

Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của làn
sóng Fintech trên thế giới và Việt Nam,
NHNN đã chủ động đối thoại với các

doanh nghiệp trong lĩnh vực Fintech để tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp này gia
nhập thị trường Fintech. Ngày 16/3/2017,
Thống đốc NHNN đã ký Quyết định

328/QĐ- NHNN thành lập Ban Chỉ đạo
Fintech. Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo này
là hoàn thiện hệ sinh thái Fintech tại Việt
Nam, bao gồm hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý cho việc hình thành và hoạt động của các
công ty Fintech trong lĩnh vực ngân hàng
tại Việt Nam. Theo Báo cáo kế hoạch hoạt
động của Ban chỉ đạo Fintech (NHNN,
2018; và NHNN, 2019), Ban chỉ đạo đã
có nhiều hoạt động, như năm 2018 đã tổ
chức cuộc thi sáng tạo Fintech Việt Nam,
tổ chức các chuyên đề nghiên cứu chuyên
sâu. Nhiệm vụ trọng tâm năm 2019 của
Ban chỉ đạo là nghiên cứu, hoàn thiện Đề
án xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm
hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng
(Relulatory Sandbox) tại Việt Nam.
Theo báo cáo của Solidiance (2018), dòng
vốn đổ vào thị trường Fintech Việt Nam
năm 2016 chỉ là 129 triệu USD thì sang
năm 2017 là 150 tỷ USD. Chính sự phát
triển mạnh mẽ này đã làm cho các chuyên
gia trong Ngành tin rằng sự phát triển của
Fintech có thể mang lại những cơ hội nhất
định đối với sự phát triển của các doanh
nghiệp Fintech.
2.2. Cơ hội để phát triển Fintech nhằm
thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam
Việt Nam đang hưởng lợi rất nhiều từ cơ


Bảng 1. Số lượng và giá trị giao dịch qua Internet và điện thoại di động năm 2018
Số lượng giao
dịch 2018 (triệu
giao dịch)

So sánh Giá trị giao dịch So sánh
năm 2017 năm 2018 (nghìn năm 2017
tỷ đồng)

256

+34%

16.188

+20%

Thông qua kênh điện thoại di động 185

+41%

1.860

+170%

Thông qua kênh Internet

Nguồn: NHNN (2018)

40


Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


PHẠM THỊ HUYỀN

cấu dân số vàng, theo báo cáo của Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội (2019), Việt
Nam với trên 95 triệu dân thì có 64,9%
dân số dưới 35 tuổi, đây là nhóm tuổi
thích nghi nhanh với những giải pháp công
nghệ. Khoảng 67% dân số sinh sống ở khu
vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và đa
phần không có tài khoản ngân hàng và khó
khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ
tài chính- ngân hàng. Điều này cho thấy
khoảng trống trong thị trường cung ứng
các sản phẩm, dịch vụ tài chính ở khu vực
nông thôn Việt nam còn rất lớn.
Một cơ hội nữa để thị trường Fintech phát
triển đó là cơ sở hạ tầng viễn thông ngày
càng được đầu tư, phát triển hoàn thiện.
Mạng điện thoại di động 3G/4G phủ khắp
cả nước với ba nhà mạng lớn là Viettel,
Mobiphone và Vinanphone. Ngoài ra, theo
Báo cáo về hoàn thiện hệ sinh thái Fintech
tại Việt Nam (NHNN, 2018), Việt Nam
có khoảng 51 triệu người sử dụng điện
thoại thông minh (chiếm 55% dân số), và
có khoảng 50 triệu người sử dụng Internet

(chiếm khoảng 52% dân số). Như vậy, với
dân số trẻ và tỷ lệ dùng điện thoại di động,
internet cao, Việt Nam là mảnh đất màu
mỡ cho cuộc cách mạng Fintech.
Với tỷ lệ sử dụng điện thoại smartphone

khá là cao (chiếm 55% dân số) nhưng tỷ
lệ người dân sử dụng các ứng dụng ngân
hàng trên điện thoại lại thấp (Vietnam
digital landcape, 2019). Hình 2 thể hiện
tỷ lệ sử dụng các ứng dụng trên điện thoại
thông minh tại Việt Nam, qua đó cho thấy
tỷ lệ sử dụng ứng dụng ngân hàng là thấp
nhất trong số các ứng dụng được thống kê.
Một cơ hội để Fintech phát triển nữa là
khoảng trống thị trường còn rất rộng.
Điều này được thể hiện qua tỷ lệ người
dân trên 15 tuổi sử dụng các dịch vụ ngân
hàng. Theo báo cáo của Vietnam digital
landscape (2019), tỷ lệ người dân có tài
khoản ngân hàng là 31%, nhưng các tỷ lệ
khác là rất thấp như tỷ lệ có thẻ tín dụng
chỉ là 4,1%, tỷ lệ sử dụng chuyển và nhận
tiền qua điện thoại mới chỉ là 3,5%, tỷ lệ
mua hàng trực tuyến và thực hiện thanh
toán hóa đơn trực tuyến là 21%, tỷ lệ nữ
giới thực hiện thanh toán qua internet là
21%, đối với nam giới là 20% (Hình 2).
Theo báo cáo của Solidiance (2018), Việt
Nam có 59% dân số người trưởng thành

sở hữu tài khoản ngân hàng, nhưng so với
các nước khác trong khu vực thì tỷ lệ này
vẫn thấp hơn. Cụ thể, như ở Thái lan thì
tỷ lệ này chiếm 86% và Malaysia thì tỷ
lệ này là 92%. Hơn thế nữa, số lượng chi

Hình 1. Tỷ lệ sử dụng các ứng dụng trên điện thoại thông minh năm 2018

Nguồn: Vietnam digital landscape, 2019
Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

41


Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam

Hình 2. Tỷ lệ người dân trên 15 tuổi sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng năm 2018

Nguồn: Vietnam digital landscape, 2019

Bảng 2. Số lượng chi nhánh ngân hàng thương mại tại một số quốc gia năm 2018
Nước

Số lượng
CN NHTM

Số lượng CN NHTM/100.000
người trưởng thành

Số lượng chi nhánh

NHTM/1.000km2

Đức

9.407

13,46

27,72

Hàn Quốc

7.136

16,26

73,80

Nhật Bản

37.591

34,10

104,43

Malaysia

2.654


11,49

8,22

Ấn Độ

133.491

14,06

44,95

Trung Quốc

99.462

8,78

10,61

Philippines

6.195

8,87

20,92

Indonesia


32.730

17,39

18,13

96

3,04

0,59

Thái Lan

6.986

12,37

13,73

Việt Nam

2.719

3,87

8,91

Lào


Nguồn: IMF(2018)

nhánh NHTM tại Việt Nam cũng thấp nhất
(Bảng 2). Như vậy, thị trường vẫn còn một
khoảng trống lớn để các công ty Fintech
cũng như các tổ chức tài chính phát triển.
Ngoài ra, Fintech tại Việt Nam còn tương
đối non trẻ, vì vậy có rất nhiều cơ hội để
phát triển. Theo Solidiance (2018), thị
trường Fintech Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD
vào năm 2017 và sẽ đạt 7,8 tỷ USD vào
năm 2020. Đặc biệt, các doanh nghiệp
Fintech hiện nay mới chủ yếu tập trung
vào một số ít ngành nhất định, còn nhiều

42

ngành khác còn chưa có sự đầu tư như kêu
gọi vốn cộng đồng, tín dụng.
Từ những phân tích trên cho thấy thị
trường Fintech tại Việt Nam có tiềm năng
lớn để phát triển, do khoảng trống trong
thị trường rất lớn. Đây chính là cơ hội để
Việt Nam tận dụng Fintech nhằm thúc đẩy
tài chính toàn diện bằng cách giải quyết
bài toán về thủ tục xét duyệt xét duyệt và
tính năng tiện dụng. Khi áp dụng công
nghệ để tăng thêm những tiện ích, tính
năng cho những sản phẩm tài chính thì


Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


PHẠM THỊ HUYỀN

người dùng sẽ cảm thấy thỏa mãn hơn
vì những tiện ích mà sản phẩm tài chính
mang lại, từ đó thu hút thêm được nhiều
người dùng, đặc biệt là ứng dụng fintech
trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền
mặt. Ngoài ra, liên quan đến các khoản
vay, thì khi ứng dụng fintech, các tổ chức
tín dụng sẽ rút ngắn được thời gian xét
duyệt, đa dạng hóa hình thức cho vay từ
đó mở rộng được đối tượng tiếp cận với
sản phẩm tín dụng.
2.3. Thách thức để phát triển Fintech
nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện tại
Việt Nam

Cơ hội để phát triển Fintech tại Việt Nam
là rất lớn, tuy nhiên thách thức đối với
Fintech tại thị trường Việt Nam cũng
không hề ít. Theo NHNN (2018), các
thách thức để phát triển Fintech như:
- Khuôn khổ pháp lý chưa đầy đủ và đồng
bộ cho Fintech phát triển: Các chính sách
phát triển Fintech thông qua các Chương
trình, Đề án rất quan trọng đối với phát
triển nền kinh tế nói chung và phát triển

Fintech nói riêng. Tuy vậy, khuôn khổ
pháp lý về cơ bản mới chỉ đáp ứng được
một phần cho lĩnh vực công nghệ tài chính
trong thanh toán, chưa đầy đủ và đồng bộ
với các lĩnh vực tài chính khác. Cụ thể,
thể chế quản lý hoạt động Fintech chưa
được đề cập tại bất kỳ văn bản pháp lý
cụ thể nào; chưa có quy định về đơn vị
chuyên trách hỗ trợ, xử lý các vấn đề liên
quan tới hoạt động Fintech; các quy định
pháp lý hiện hành liên quan tới hoạt động
nghiệp vụ của các TCTD chưa cho phép
việc áp dụng các giải pháp công nghệ hiện
đại, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán.
- Số lượng ít các doanh nghiệp tham gia
vào Fintech: Các doanh nghiệp Fintech

tại Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn đầu.
Hoạt động của Fintech chủ yếu là hoạt
động thanh toán; các dịch vụ quản lý tài
sản, quản lý thanh khoản, quản lý danh
tính, quản lý đầu tư, quản lý rủi ro, quản
lý kinh doanh; bảo hiểm, bảo lãnh phát
hành; dịch vụ tư vấn tài chính tự động,...
cần được phát triển để đáp ứng yêu cầu
phát triển trong thời gian tới.
- Chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các chủ
thể bao gồm cơ quan quản lý, các định
chế tài chính, doanh nghiệp Fintech và
các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động

Fintech.
- Đặc biệt là ý thức người tiêu dùng sản
phẩm Fintech còn hạn chế cả về thói quen
cũng như hiểu biết. Thói quen dùng tiền
mặt đã ăn sâu vào trong tiềm thức mỗi
người dân nên việc thay đổi thói quen
này là cả một khó khăn đối với các doanh
nghiệp Fintech. Hơn thế nữa, người dân
lại chưa có ý thức bảo mật những thông
tin của cá nhân trong quá trình sử dụng
dịch vụ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến
khách hàng cũng như các tổ chức tài chính.
Dù ngành Tài chính ngân hàng luôn được
đánh giá là một trong những ngành được
quan tâm đầu tư cho hệ thống công nghệ
thông tin, có năng lực tốt về bảo mật dữ
liệu người dùng, đảm bảo an ninh, an
toàn cho hệ thống. Tuy nhiên, đây vẫn là
những thách thức thường trực đối với các
tổ chức tài chính là vấn đề bảo mật thông
tin cá nhân và an ninh mạng. Sản phẩm,
dịch vụ ngày càng số hóa, người dùng
ngày càng sử dụng thiết bị số, kết nối liên
tục, đa kênh, đa phương tiện chính là môi
trường thuận lợi để tội phạm sử dụng công
nghệ cao, tin tặc (hackers), kẻ xấu khai
thác các yếu điểm để gian lận, trục lợi từ
người dùng và xâm nhập hệ thống.

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng


43


Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam

3. Đề xuất giải pháp thúc đẩy ứng dụng
Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn
diện tại Việt Nam

Fintech có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tài chính toàn diện ở các quốc
gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển như Việt Nam. Trên cơ sở phân
tích cơ hội, thách thức và thực trạng phát
triển Fintech ở Việt Nam, tác giả xin đưa
ra một số giải pháp để ứng dụng Fintech
nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
đối với hoạt động của các công ty Fintech.
Mặc dù NHNN đã ban hành nhiều văn
bản pháp quy liên quan đến hoạt động
Fintech, tuy nhiên, hiện nay, ngoại trừ
khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực thanh
toán của Fintech, các lĩnh vực khác của
Fintech như gọi vốn, cho vay, quản lý dữ
liệu… chưa có khuôn khổ pháp lý hoàn
chỉnh. Xuất phát từ những thách thức để
phát triển Fintech thì hiện nay mới chỉ có

Ban chỉ đạo Fintech và QĐ 999/QĐ-TTg
của Chính phủ đã giao cho NHNN thành
lập cơ chế quản lý thử nghiệm Sandbox
cho hoạt động Fintech là khuôn khổ pháp
lý cho những doanh nghiệp Fintech hoạt
động. Do đó, NHNN cần phải hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý để giúp cho các doanh
nghiệp Fintech phát triển, ví dụ như quy
định cơ quan nào cấp giấy phép cho các
doanh nghiệp Fintech. Nếu như các doanh
nghiệp Fintech có giấy phép hoạt động
thì họ sẽ hoạt động hiệu quả hơn là hoạt
động cầm chừng khi chưa có giấy phép.
Khi công ty Fintech phát triển cũng mang
lại nhiều cơ hội hơn cho các chủ thể trong
nền kinh tế, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn và ở vùng xâu, vùng xa có thể tiếp
cận được các dịch vụ tài chính qua các
trung gian cung cấp chính thức.

44

Thứ hai, các doanh nghiệp Fintech cần
tìm ra mô hình kinh doanh khả thi hơn
bằng các tìm kiếm các giải pháp mới và
mạnh mẽ hơn. Có 6 mô hình kinh doanh
của Fintech là thanh toán, quản lý tài sản,
huy động vốn từ cộng đồng, cho vay, thị
trường tài chính, và dịch vụ bảo hiểm
nhưng hiện nay các doanh nghiệp fintech

mới tập chung chủ yếu vào hoạt động
thanh toán trong khi nhu cầu thị trường về
những sản phẩm dịch vụ khác còn rất lớn.
Chẳng hạn như các doanh nghiệp Fintech
có thể ứng dụng công nghệ blockchain và
trí tuệ nhân tạo vào để xây dựng nền tảng
cho vay để từ đó rút ngắn thời gian xét
duyệt khoản vay, mở rộng được với những
khách hàng không có lịch sử tín dụng,
khách hàng ở vùng sâu, vùng xa nhưng có
sử dụng điện thoại di động hay mạng xã
hội, từ đó tăng được mức độ tiếp cận các
sản phẩm, dịch vụ tài chính hơn. Nhưng
có những rào cản nhất định để các doanh
nghiệp fintech mở rộng mô hình kinh
doanh đó là vấn đề pháp lý và hệ sinh thái
chưa hoàn thiện.
Thứ ba, các công ty Fintech và các tổ chức
tín dụng có thể đưa ra những ứng dụng về
công nghệ trong lĩnh vực tài chính nông
nghiệp. Các hộ nông dân nhỏ có vai trò
vô cùng quan trọng nhưng họ lại thường
gặp khó khăn là thiếu vốn để đầu tư vào
trang trại để nâng cao năng suất. Fintech
trong nông nghiệp nhằm cung cấp những
công cụ có thể giải quyết những khó khăn
về nhu cầu sản phẩm tài chính mà các hộ
nông dân gặp phải hàng ngày, đó là khó
khăn khi tiếp cận những nguồn vốn vay và
những sản phẩm thanh toán. Khi ứng dụng

Fintech sẽ cung cấp được các giải pháp
mà cách cung ứng sản phẩm truyền thống
chưa thỏa mãn được nhu cầu trong lĩnh
vực nông nghiệp. Ứng dụng Fintech trong
lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là cung ứng

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


PHẠM THỊ HUYỀN

sản phẩm tiết kiệm, vay vốn, bảo hiểm và
thanh toán thông qua các kênh số như điện
thoại di động, máy tính bảng… từ đó sẽ
làm tăng các yếu tố như tốc độ nhanh, tiếp
cận 24/7, an toàn và minh bạch.
Thứ tư, xây dựng và triển khai những biện
pháp tổng thể để tăng cường kiến thức, kỹ
năng quản lý tài chính, nâng cao hiểu biết
về sản phẩm, dịch vụ tài chính của người
dân. Vì thực tế, nhận thức và hiểu biết tài
chính của người dân còn hạn chế nhưng
lại có nhu cầu sử dụng các sản phẩm tài
chính trong khi cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đã và đang ảnh hưởng tới mọi

lĩnh vực của đời sống. Như vậy, thực hiện
giáo dục tài chính để tăng nhận thức và
các kỹ năng là vô cùng cần thiết. Từ đó sẽ
tăng khả năng sử dụng, đánh giá lợi ích,

rủi ro của các sản phẩm, dịch vụ tài chính
do các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính
chính thức để người tiêu dùng tài chính
sáng suốt lựa chọn các sản phẩm dịch vụ
tài chính phù hợp với nhu cầu thực tế của
cá nhân 

Tài liệu tham khảo
1. Bộ Lao động- Thương binh và xã hội (2019), Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam: thực trạng và giải pháp, Hội
nghị “Cải thiện năng suất lao động quốc gia”
2. Ban chỉ đạo Fintech- Ngân hàng nhà nước Việt Nam(2018), Báo cáo hoàn thiện hệ sinh thái Fintech Việt Nam
3. Ban chỉ đạo Fintech- Ngân hàng nhà nước Việt Nam( (2018, 2019), Báo cáo kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo
Fintech Việt Nam
4. IMF (2018), Financial access surveys 2018, />5. Nguyên Hà (2017), Fintech- Hướng phát triển mới hay nhất thời tại Việt Nam, />6. Nguyên Hà (2018), Nhận định về tương lai của Fintech, />7. Nguyễn Thị Hòa (2017), Tổng quan về tài chính toàn diện, vai trò của công nghệ số trong thúc đẩy tài chính toàn
diện tại Việt Nam, Hội thảo Banking Vietnam 2017
8. Trịnh Ngọc Lan (2019), Phát triển hệ sinh thái Fintech: bài học kinh nghiệm và đề xuất hướng tới phát triển bền
vững tại Việt Nam, />9. Lê Huyền Ngọc (2018), Tác động của Fintech đối với hoạt động ngân hàng và một số đề xuất đề ngân hàngFintech cùng phát triển tại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Tương lai của Fintech và Ngân hàng: Phát triển và đổi mới”,
trang 147-156
10.Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Lê Thảo Hương, Chu Nhật Anh (2019), Xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn
diện, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số tháng 7/2019
11.Nghiêm Thanh Sơn (2019), Fintech tại Việt Nam: Nắm bắt xu hướng để “chuyển mình” phát triển, http://
thoibaonganhang.vn/fintech-tai-viet-nam-nam-bat-xu-huong-de-chuyen-minh-phat-trien-84199.html
12.Nguyễn Văn Tâm (2018), Phát triển công nghệ tài chính tại Việt Nam- cơ hội và thách thức, http://tapchitaichinh.
vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/phat-trien-cong-nghe-tai-chinh-tai-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc-142310.
html
13.Solidiance (2018), Unlocking VietNam’growth potential, />14.Viện chiến lược Ngân hàng- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2017), Sơ lược về tài chính toàn diện
15.Viện chiến lược Ngân hàng- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Dự thảo về chiến lược tài chính toàn diện quốc
gia đến năm 2015, định hướng đến năm 2030
16.We are social Singgapore, Vietnam digital landscape 2019 report, />17.World Bank (2017), Cơ sở dữ liệu Global Findex, />files/2018-04/2017%20Findex%20full%20report_indicator%20table.pdf


Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

45


Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh
tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ
Trần Thị Xuân Anh

Nguyễn Thị Lâm Anh

Trần Anh Tuấn

Ngô Thị Hằng

Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng

Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng

Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng

Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng

Việt Nam hiện đã xác định tăng trưởng xanh là một chiến lược để phát triển
bền vững, đặc biệt trong bối cảnh đang là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ
thiên tai và biến đổi khí hậu. Để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, đòi
hỏi một nguồn vốn lớn tập trung cho các dự án xanh. Cùng với hệ thống
ngân hàng, thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng là
những kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án xanh, từ đó dần hình
thành nên hệ thống tài chính xanh phục vụ cho mục tiêu chiến lược quốc gia

về tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này phân tích thực trạng tài chính xanh
phục vụ cho yêu cầu tăng trưởng kinh tế xanh trên cơ sở hệ thống các công
Green finace for Vietnam economic development- the problems need to improve

Abstract: Green growth  has been recently identified as a strategy for sustainable development in Vietnam,
particularly in the context of being a country heavily affected by natural disasters and climate change. In order
to implement a green growth strategy, a large capital source is required for green projects. In addition with
the banking system, the capital market in general and the bond market in particular, are important capital
mobilization channels for green projects, thereby gradually forming a green financial system to serve the
national strategic targets. This article analyses the current state of green finance used for the requirements
of green economic growth, based on the system of green financial instruments, green financial institutions,
and green financial markets. Thence, the authors assess the positive aspects as well as the shortcomings and
limitation in the development of green finance to serve the green economic growth in Vietnam.
Keywords: green growth, green finance, green credit, green bonds.
Anh Thi Xuan Tran, Ph.D
Email:

Anh Thi Lam Nguyen, Ph.D
Email:
Tuan Anh Tran, M.Ec
Email:

Hang Thi Ngo, M.Ec
Email:

Organization of all: Finance faculty, Banking Academy of Vietnam
Ngày nhận: 13/05/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 209- Tháng 10. 2019


Ngày nhận bản sửa: 10/07/2019

46

Ngày duyệt đăng: 22/07/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X


TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG

cụ tài chính xanh, định chế tài chính xanh và thị trường tài chính xanh. Từ
đó đánh giá những mặt tích cực cũng như những điểm còn bất cập, hạn chế
trong việc phát triển tài chính xanh phục vụ cho tăng trưởng kinh tế xanh
ở Việt Nam hiện nay.
Từ khoá: Tăng trưởng xanh, Tài chính xanh, Tín dụng xanh, Trái phiếu
xanh
1. Đặt vấn đề
Tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu
lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để
thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu
tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính,
đồng thời giảm phát thải khí nhà kính,
khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên
nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm
sự mất công bằng trong xã hội (UNEP,
2016). Đây cũng được xem là phương
thức thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững

dựa trên những yếu tố bền vững, đồng thời
gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Tài chính xanh là tài chính phục vụ cho
tăng trưởng kinh tế xanh nhằm hướng tới
sự phát triển bền vững của toàn xã hội.
Tài chính xanh bao gồm các dịch vụ tài
chính, thể chế, các sáng kiến và chính sách
quốc gia, và các sản phẩm tài chính (nợ,
vốn chủ sở hữu, bảo hiểm, và tài sản đảm
bảo); được thiết kế để thúc đẩy các hoạt
động bảo vệ môi trường, giảm thiểu và
thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao
hiệu quả trong bảo tồn nguồn vốn tự nhiên
và huy động các nguồn lực (ADB- Mehta,
2017). Với quan điểm này, tài chính xanh:
- Gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững
của xã hội, cụ thể với mục tiêu phát triển
nền kinh tế với hàm lượng phát thải carborn
thấp- nền kinh tế tăng trưởng xanh.
- Góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao

tính khả thi, hiệu quả của các dự án kinh
tế về phát triển xanh ở các giai đoạn khác
nhau của quá trình thực hiện mục tiêu tăng
trưởng xanh với những nhu cầu khác nhau
(Dawson, 2015).
Trên thực tế, các nguồn tài chính phục vụ
cho phát triển kinh tế xanh rất đa dạng, tuy
nhiên tựu chung lại tài chính xanh được

huy động từ hai nguồn chính gồm nguồn
vốn nhà nước và nguồn vốn tư nhân. Sau
đó nguồn tài chính này được giải ngân
thông qua nhiều trung gian/ kênh tài chính
và sử dụng nhiều loại công cụ tài chính
khác nhau. Các công cụ tài chính được sử
dụng sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố như rủi ro, lợi nhuận kỳ vọng, mức độ
thanh khoản, hình thức pháp lý và các kịch
bản đầu tư khác nhau (Bảng 1).
Tại Việt Nam, cùng với việc phê duyệt
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm
2050 ngày 25/9/2012, giải pháp “Huy
động nguồn lực thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh” cũng được Thủ tướng Chính
phủ quy định, trong đó chỉ rõ “Ban hành
cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ
chức tài chính, các doanh nghiệp, nhất
là DNNVV triển khai các hoạt động sản
xuất kinh doanh theo tiêu chí tăng trưởng
xanh”. Ngày 20/3/2014, “Kế hoạch hành
động quốc gia về tăng trưởng xanh giai
đoạn 2014- 2020” chính thức được Thủ
tướng Chính phủ ban hành kèm theo
Quyết định 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014,

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

47



Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ

trong đó quy định về các nguồn vốn thực
hiện các hoạt động gồm:
- Nguồn tài chính công cho tăng trưởng
xanh: Nguồn tài chính nhà nước (quy định
trong Luật Ngân sách Nhà nước và Luật
Bảo vệ môi trường); Nguồn tài chính hỗ
trợ từ phía Nhà nước thông qua chính sách
ưu đãi thuế, đất đai đối với doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh hàng hoá thân thiện
với môi trường; Nguồn vốn tín dụng thông
qua hai hình thức: Tín dụng nhà nước
thông qua các chương trình hỗ trợ, ưu đãi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thân
thiện với môi trường và nguồn vốn tín
dụng được thực hiện thông qua nghiệp vụ
kinh doanh của tổ chức tín dụng (TCTD).
- Nguồn tài chính tư nhân cho phát triển
kinh tế xanh: Nguồn tài chính doanh
nghiệp phục vụ cho mục tiêu phát triển
kinh tế xanh; nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, các khoản viện trợ phục vụ cho
hoạt động bảo vệ môi trường, hỗ trợ hoạt
động sản xuất xanh, thân thiện với môi
trường; nguồn vốn từ thị trường tài chính
(thị trường cổ phiếu xanh, thị trường trái
phiếu xanh và các thị trường xanh khác).

Trên cơ sở hai nguồn lực chính, hệ thống
tài chính xanh tại Việt Nam bước đầu
được xây dựng và phát triển, đến nay đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ,
song vẫn còn những thách thức, khó khăn
cần tháo gỡ, phần tiếp theo sẽ phân tích cụ
thể những nội dung này.
2. Thực trạng tài chính xanh tại Việt Nam
2.1. Các công cụ tài chính xanh
Về mặt lý thuyết, các công cụ tài chính
xanh bao gồm công cụ nợ, công cụ vốn,
công cụ phái sinh, bảo hiểm. Thực tế tại

48

Việt Nam hiện nay, công cụ nợ được xây
dựng và phát triển mạnh nhất trong hệ
thống các công cụ tài chính, trong đó gồm
trái phiếu xanh, tín dụng xanh.
○○ Trái phiếu xanh: Việt Nam đã bắt đầu
phát hành thí điểm trái phiếu xanh từ năm
2016 thông qua dự án phối hợp giữa Bộ
Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) cùng với Cơ quan Hợp tác
quốc tế của Đức (GIZ) và Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (HNX) với hai chủ
thể phát hành là Thành phố Hồ Chí Minh
(TP. HCM) và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Năm 2016, TP. HCM phát hành 523,5
tỷ đồng (tương đương 24 triệu USD) trái

phiếu kỳ hạn 15 năm để tài trợ cho 11 dự
án xanh, chính quyền tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu huy động 80 tỷ đồng (tương đương
3,7 triệu USD) trái phiếu kỳ hạn 5 năm
để tài trợ cho một dự án về quản lý nguồn
nước (Bộ Tài chính, 2019).
Việc công cụ trái phiếu xanh đã bắt đầu
được sử dụng, đem lại một kênh huy động
vốn hiệu quả cho các chính quyền địa
phương trong việc tài trợ cho các dự án
xanh. Tuy nhiên, giá trị phát hành của trái
phiếu xanh so với quy mô thị trường trái
phiếu Việt Nam khoảng 51 tỷ USD trong
năm 2018 là quá nhỏ bé và không đáng kể.
Cụ thể, năm 2010, tổng giá trị trái phiếu
lưu hành khoảng gần 300 nghìn tỷ đồng,
giá trị này đã tăng gần 4 lần, lên mức
1.180 nghìn tỷ đồng vào năm 2018, tốc độ
tăng bình quân 18,7%/năm (ADB, 2019).
Xét về mặt cơ cấu, trái phiếu xanh ở Việt
Nam hiện nay chủ yếu là trái phiếu chính
quyền địa phương tài trợ cho các dự án
xanh, gần như hệ thống các doanh nghiệp
chưa tham gia phát hành trái phiếu xanh
để huy động vốn. Đây cũng là đặc thù
riêng trên thị trường trái phiếu Việt Nam

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019



TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG

Bảng 1. Nguồn tài chính, trung gian thực hiện và công cụ tài chính xanh

Nguồn: Mehta, 2017

với tỷ trọng trái phiếu chính phủ chiếm
đa số, duy trì tại mức trên 90% trong giai
đoạn từ 2010- 2018 (ADB, 2019).
So sánh với các nước trong khu vực Đông
Nam Á, tổng giá trị trái phiếu xanh nói
riêng và trái phiếu nói chung tại Việt Nam
còn khá khiêm tốn:
- Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam
và Indonesia là hai quốc gia có quy mô
vay nợ trên thị trường trái phiếu thấp nhất
so với các quốc gia còn lại (Biểu đồ 1).
Hai quốc gia có điểm xuất phát tương
đồng ở mức khoảng 14% GDP vào năm
2010, cho đến năm 2018, tốc độ tăng của
Việt Nam cao hơn, quy mô thị trường trái
phiếu Việt Nam chiếm 21,1% GDP trong

khi Indonesia chỉ đạt 19,6%. Malaysia và
Singapore là hai quốc gia có quy mô thị
trường trái phiếu lớn nhất: Malaysia duy
trì tỷ lệ khoảng 97% GDP trong giai đoạn
nghiên cứu, còn quy mô của thị trường
Singapore liên tục tăng ổn định từ 96,9%
năm 2010 cho tới 116,3% vào năm 2018.

Tốc độ tăng trưởng ổn định cũng có thể
được thấy tại thị trường Thái Lan, trong
khi thị trường Philippines có xu hướng
giảm nhẹ theo thời gian (ADB, 2019).
- Tính đến hết tháng 11/2018, quy mô
thị trường trái phiếu xanh Đông Nam Á
khoảng 5 tỷ USD bao gồm 6 quốc gia
trong khu vực với 19 nhà phát hành. Xét
theo tiêu chí về tiền tệ phát hành, trái
phiếu được niêm yết bằng USD chiếm gần

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

49


Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ

50%, theo sau là đồng nội tệ Myanmar và
Singapore chiếm tỷ lệ 20% cho mỗi quốc
gia, phần còn lại là đồng tiền nội tệ của
các quốc gia khác. Xét theo tiêu chí về
tiêu chuẩn xanh của các dự án, Indonesia,
Malaysia và Philippines là những quốc
gia đi đầu trong việc chuẩn hóa các tiêu
chuẩn xanh theo tiêu chuẩn thế giới, có
sự thẩm định của tổ chức độc lập hoặc dự
án có chứng chỉ an toàn với biến đổi khí
hậu. Thái Lan và Việt Nam là hai quốc gia
có phát hành trái phiếu xanh, tuy nhiên

các dự án “xanh” này chưa được sự kiểm
chứng, công nhận của tổ chức quốc tế
chuyên nghiệp về loại hình dịch vụ này
(ADB, 2019).
- Tính đến hết năm 2018, Indonesia là
quốc gia đạt được giá trị phát hành trái
phiếu xanh lớn nhất với quy mô khoảng
gần 2 tỷ USD, theo sau là Singapore và
Myanmar với trị giá tương ứng là 1,76
tỷ USD và 979 triệu USD (Biểu đồ 2);
Việt Nam, Thái Lan và Philippines mới
dừng lại ở quy mô phát hành khá khiêm
tốn, trong khi Việt Nam là 27 triệu USD
thì Thái Lan và Philippines lần lượt là 60
triệu và 226 triệu USD (Climate Bonds
Initiative, 2018).
Với cơ cấu và quy mô trái phiếu xanh nêu
trên, giá trị huy động vốn từ trái phiếu
xanh tại Việt Nam không những thấp so
với khu vực mà cũng vô cùng khiêm tốn
so với nhu cầu tài trợ cho các dự án tăng
trưởng xanh hàng năm của quốc gia, dự
kiến để thúc đẩy kinh tế phát triển bền
vững, Việt Nam sẽ cần khoảng 30,7 tỷ
USD tới năm 2020 và 21,2 tỷ USD cho 10
năm tiếp theo (GIZ, 2018), đây là một nhu
cầu vốn rất lớn so với khả năng hiện có từ
việc thu hút qua kênh trái phiếu xanh. Mặt
khác, việc phát hành trái phiếu xanh của
các chính quyền địa phương nhằm tài trợ


50

các dự án xanh đang thiếu những tổ chức
kiểm định để xác định dự án có thực sự
“xanh”, chẳng hạn dự án có thực sự hiệu
quả trong việc làm giảm khí thải độc hại
ra môi trường, vốn vay của dự án có thực
sự được dùng cho mục đích môi trường…
Chính vì vậy, các cơ quan quản lý cần tạo
ra bộ tiêu chuẩn môi trường rõ ràng và có
cơ chế giám sát cụ thể để xác định dự án
“xanh” theo các chuẩn mực tiên tiến trên
thế giới hiện nay, chỉ có như thế, các dự
án tại Việt Nam mới có khả năng thu hút
thêm dòng vốn ngoại.
○○ Tín dụng xanh: Để đạt được mục tiêu
chiến lược về tăng trưởng xanh, Việt
Nam đang có những bước đi cơ bản nhằm
hoàn thiện khung chính sách để thúc đẩy
các hoạt động liên quan tới kinh tế xanh.
Trong đó, ngành ngân hàng được đánh giá
là ngành tiên phong về chính sách, quy
trình và sản phẩm dịch vụ tài chính xanh.
Bước đầu, các chính sách thúc đẩy phát
triển tín dụng xanh của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) tập trung định
hướng dòng tín dụng vào phục vụ nông
nghiệp nông thôn, nông nghiệp xanh,
dự án thân thiện môi trường và tiết kiệm

năng lượng (Nghị định số 41/2010/NĐCP, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, Quyết
định 1050/QĐ-NHNN). Gần đây nhất,
Chính phủ ra Nghị quyết số 30/NQ-CP
ngày 07/3/2017 về việc triển khai gói tín
dụng khuyến khích phát triển nông nghiệp
công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Theo
đó, ngày 24/4/2017, NHNN đã ban hành
Quyết định số 813/QĐ-NHNN chỉ đạo các
NHTM triển khai chương trình cho vay
khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Gói tín dụng cho nông nghiệp công nghệ
cao có sự tham gia của 8 ngân hàng, trong
đó có các ngân hàng lớn như Agribank

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG

Biểu đồ 1. Quy mô thị trường trái phiếu so với GDP của một số quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á

Nguồn: ADB, 2019

Biểu đồ 2. Quy mô phát hành trái phiếu xanh tại một số quốc gia trong khu vực

Nguồn: Climate Bonds Initiative, 2018

(triển khai gói cho vay 50.000 tỷ đồng) và

Vietcombank (10.000 tỷ đồng).
Năm 2018, NHNN ra Quyết định số 1604/
QĐ-NHNN về việc phê duyệt Đề án phát
triển ngân hàng xanh tại Việt Nam hướng
đến từng bước tăng tỷ trọng vốn tín dụng
cho các ngành, lĩnh vực xanh cần ưu tiên
hỗ trợ trong Danh mục dự án xanh do
NHNN ban hành; đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ đi cùng với xây dựng thói quen
thân thiện với môi trường cho khách hàng
trong khuôn khổ các hoạt động ngân hàng;
phát triển mạnh các kênh giao dịch điện
tử, các dịch vụ, phương thức thanh toán
mới trên nền tảng công nghệ hiện đại.
Theo đó, mục tiêu cụ thể tới năm 2025,
100% ngân hàng xây dựng được quy định
nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã
hội trong hoạt động cấp tín dụng; 100%

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

51


Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ

Bảng 1. Các chính sách thúc đẩy phát triển tín dụng xanh

1


Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục
vụ phát triển nông nghiệp
Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phát
triển nông nghiệp, nông thôn (thay thế NĐ số 41/2010/NĐ-CP)

2

Quyết định 1050/QĐ-NHNN năm 2014 của Thống đốc NHNN về chương trình cho vay thí
điểm phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn; bao gồm các chương trình thí điểm cho
vay theo mô hình chuỗi sản xuất trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp, mô hình ứng dụng
khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, mô hình liên kết chuỗi sản xuất
sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu.

3

Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ về triển khai gói tín dụng
khuyến khích phát triển nông thôn công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Quyết định 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 của Thống đốc NHNN về chương trình cho vay
khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo NQ
30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ.

4

Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24/3/2014 của Thống đốc NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.

5

Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt

Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ NHNN

Bảng 2. Tổng dư nợ tín dụng xanh 2015- 2018
Quý

Tổng dư nợ tín dụng

Dư nợ tín dụng xanh

Đơn vị: tỷ VNĐ, %
Tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh

IV/2015

4.655.890

73.334

1,6%

IV/2016

5.505.406

87.781

1,6%

IV/2017


6.512.018

180.121

2,8%

III/2018

6.985.654

235.717

3,4%
Nguồn: NHNN, tác giả tổng hợp

các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro
môi trường xã hội trong hoạt động cấp
tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn về môi
trường cho các dự án được ngân hàng
cấp vốn vay, kết hợp đánh giá rủi ro môi
trường như một phần trong đánh giá rủi
ro tín dụng của ngân hàng; ít nhất 10- 12
ngân hàng có đơn vị/bộ phận chuyên trách
về quản lý rủi ro môi trường và xã hội;
60% ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn
xanh và triển khai cho vay các dự án tín
dụng xanh.
Trên cơ sở khung pháp lý nêu trên, tín


52

dụng xanh không ngừng được mở rộng về
quy mô và chất lượng. Theo thống kê của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến
hết quý III/2018, dư nợ tín dụng xanh đạt
235.717 tỷ đồng, chiếm 3,4% tổng dư nợ
tín dụng của toàn nền kinh tế. Có thể thấy
tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh trên tổng dư
nợ tín dụng trong năm 2018 đã tăng lên
đáng kể so với các năm trước, so với năm
2015 tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh năm
2018 đã tăng lên gấp 2 lần (Bảng 2).
Mặc dù quy mô tín dụng xanh trong nền
kinh tế còn khiêm tốn, nhưng tín dụng

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019


TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG

Biểu đồ 3. Dư nợ tín dụng và tín dụng xanh 2015-2018

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

Biểu đồ 4. Quy mô đầu tư vào các dự án năng lượng sạch (2011- 2017)

Nguồn: Climatescope, 2018

xanh đang tăng trưởng rất nhanh, đạt

19,7% trong năm 2016, 105,2% trong năm
2017 và 30,9% tính tới hết quý III/2018.
Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng của

toàn bộ nền kinh tế đạt khoảng 18% trong
năm 2016, 2017 và 7,27% tính tới hết
quý III/2018. Theo NHNN, tính tới tháng
6/2017, số ngân hàng có báo cáo tài chính

Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

53


Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ

Biểu đồ 5. Quy mô đầu tư các dự án sạch trong khu vực Đông Nam Á

Đơn vị: Triệu USD

Nguồn: Climatescope, 2018

xanh là 20 và số ngân hàng có báo cáo
đánh giá rủi ro Môi trường và xã hội là 20.
○○ Cổ phiếu xanh
Mặc dù Việt Nam có một thị trường chứng
khoán (TTCK) tương đối phát triển với
gần 1.000 cổ phiếu niêm yết trên 2 sở
giao dịch chứng khoán và lượng vốn hoá
ở mức hơn 183 tỷ USD, chiếm khoảng

82% GDP (UBCKNN, 2018), song nhóm
cổ phiếu xanh chỉ chiếm tỷ trọng không
đáng kể. Tuy nhiên, những biến động trên
thị trường gần đây cho thấy cổ phiếu của
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực năng lượng tái tạo, theo tiêu chí xanh,
bền vững đang được nhà đầu tư, đặc biệt
là các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài quan
tâm thông qua quỹ đầu tư. Báo cáo của
UBCKNN (2018) cho thấy giá trị đầu tư
của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK
Việt Nam đạt gần 33 tỉ USD. Trong đó,
có không ít nguồn tiền đến từ các quỹ đầu
tư dựa trên tiêu chí xanh, phát triển bền
vững. Cụ thể trong giai đoạn 2011- 2017,
khoảng 75% vốn đầu tư nước ngoài hỗ
trợ cho chiến lược tăng trưởng xanh trên
TTCK tập trung vào các dự án năng lượng

54

sạch. Biểu đồ 6 cho thấy quy mô đầu tư
vào các dự án năng lượng sạch biến động
rất mạnh theo thời gian, chẳng hạn năm
2016 quy mô đầu tư đạt giá trị lớn nhất là
714,5 triệu USD, ngay lập tức giảm xuống
chỉ còn 197,6 triệu USD trong năm 2017.
Biểu đồ 5 chỉ ra, không chỉ ở Việt Nam,
quy mô đầu tư vào các dự án năng lượng
sạch trong khu vực Đông Nam Á cũng liên

tục biến động mạnh theo thời gian. Trong
khu vực, Thái Lan và Philippines là những
quốc gia thu hút được lượng vốn đầu tư lớn
vào các dự án năng lượng sạch. Trong toàn
bộ giai đoạn 5 năm từ 2012- 2017, giá trị
đầu tư tại Thái Lan dẫn đầu với mức 8,3 tỷ
USD, theo sau là Philippines và Indonesia
với giá trị lần lượt là 6,9 tỷ và 5,3 tỷ USD.
Việt Nam và Malaysia thu hút được lượng
vốn tương đương nhau ở mức khoảng 1,8
tỷ USD. Như vậy, với khẩu vị đầu tư của
một số quỹ đầu tư cũng như nhà đầu tư
nước ngoài hiện nay, nếu Việt Nam nhanh
chóng thúc đẩy phát triển thị trường vốn
xanh, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu xanh,
thì sẽ sớm thu hút được nhiều hơn dòng
vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư nước ngoài
đầu tư theo các tiêu chí xanh và bền vững.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019

Còn nữa (xem tiếp kỳ sau)



×