+-BỆNH QUAI BỊ
PGS.TS Trịnh Thị Minh Liên
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này, người học phải có khả năng:
1. Chẩn đoán được bệnh quai bị
2. Điều trị được bệnh quai bị
NỘI DUNG
1. Đại cương
- Bệnh quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch do virus quai bị
gây sưng đau tuyến nước bọt, ngoài ra còn gây viêm tuyến sinh dục, viêm
màng não, viêm tuỵ và một số cơ quan khác.
- Bệnh quai bị nói chung lành tính, tự khỏi và thường gây miễn dịch vĩnh
viễn.
2. Tác nhân gây bệnh
- Virus quai bị thuộc nhóm Paramyxovirus được Johnson và Goodpasture
phân lập từ nước bọt năm 1934.
- Virus có kích thước 120-200 nm, có thể từ 100-700 nm, gồm một số sợi
mảnh ARN ở trung tâm hình xoắn, ngoài có vỏ bọc bằng lipid và protein.
- Virus có hai kháng nguyên:
+ Loại lớn: gây bệnh, ngưng kết hồng cầu, có mặt trong nước phôi bào
bị nhiễm (loại V).
+ Loại nhỏ: không gây bệnh, không ngưng kết hồng cầu. Là kháng
nguyên hoà tan, có nhiều trong tổ chức bị nhiễm (loại S).
- Virus tồn tại khá lâu ngoài cơ thể
+ Ở nhiệt độ 15
0
-20
0
C sống được 50-90 ngày;
+ Ở 37
0
C sống được 8 ngày;
+ Chịu lạnh ở -25
0
C hoặc -70
0
C sống được hơn 1 năm, bất hoạt
+ Ở 50
0
-60
0
C sống được 20 phút;
+ Ở formol 0,1%, lysol 1%, cồn và ête sống được 3-5 phút;
+ Bị tia cực tím huỷ trong vài giây.
- Có thể phân lập virus quai bị trong giai đoạn cấp tính của bệnh, ở máu, nước
bọt, tuyến tuỵ, tinh hoàn, dịch não tuỷ và cả trong nước tiểu, sữa. Cấy được
trên phôi gà, gây bệnh thực nghiệm cho khỉ, mèo, chuột lang, chuột bạch.
1
3. Dịch tễ học
- Nguồn bệnh thường là người mắc thể viêm tuyến nước bọt điển hình. Bệnh
lan truyền theo đường hô hấp, qua các bụi nước của hơi thở, truyền trực tiếp
từ người bệnh sang người lành. Virus quai bị bám vào niêm mạc mũi, miệng,
kết mạc, xâm nhập vào nội tạng qua đường máu.
- Bệnh phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, thường mang tính chất lưu hành ở
các thành phố, bùng lên thành dịch ở nông thôn, hoặc ở những nơi tập trung
đông người (nhà trẻ, công trường, trại tân binh...).
- Mùa cao điểm của bệnh là mùa đông xuân.
- Hay gặp ở trẻ từ 3-14 tuổi (chủ yếu từ 5-9 tuổi) và thanh niên từ 18-20 tuổi,
ở nam nhiều hơn nữ, hiếm gặp ở trẻ dưới 2 tuổi, rất ít ở người già.
- Dịch không rầm rộ như sởi, thuỷ đậu mà lan dần từ người này sang người
khác, cách nhau 15-20 ngày, phát triển từng đợt với đỉnh cao có thể ở tuần thứ
6-10 sau trường hợp mắc bệnh đầu tiên.
- Miễn dịch sau khi mắc khá bền vững. Tỷ lệ tái phát hiếm gặp (dưới 2-3%).
Khoảng 80-90% người lớn có huyết thanh dương tính với bệnh (do mắc thể
ẩn từ nhỏ). Miễn dịch do mẹ truyền cho con chỉ tồn lưu 6 tháng.
4. Sinh bệnh học
- Virus quai bị gây bệnh bằng cách xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp. Trong
thời gian nung bệnh, virus có thể nhân lên ở niêm mạc miệng, kết mạc, từ đó
vào máu (gây nhiễm virus huyết) rồi toả đi xâm nhập, phát triển gây viêm ở
các cơ quan như màng não, tuỵ, tuyến sinh dục, vú, tuyến giáp trạng, tim, gan,
thận và hệ thần kinh trung ương.
- Đáp ứng miễn dịch dịch thể là hình thức chủ yếu trong đáp ứng miễn dịch
của vật chủ. Sự đáp ứng miễn dịch với nhiễm quai bị tự nhiên và vắc-xin đã
được xác định. Sau khi nhiễm, các kháng thể trung hoà duy trì ở nồng độ thấp
nhưng có tác dụng bảo vệ. Hầu hết ở người chỉ có biểu hiện lâm sàng của
bệnh quai bị một lần trong suốt cuộc đời.
5. Giải phẫu bệnh
- Virus quai bị gây viêm mô kẽ làm huyết quản giãn, phù nề, gây xuất huyết
nhỏ quanh huyết quản các ống dẫn và quanh tuyến nước bọt. Ống nước bọt
thường bị viêm, còn mô tuyến ít bị tổn thương hơn.
- Viêm tuyến tuỵ: có thể gặp viêm cả hệ thống nội và ngoại tiết. Có thể tuỵ bị
teo dẫn tới đái tháo đường.
- Tinh hoàn: Mô kẽ bị viêm nhiễm với nhiều mức độ, biểu mô các ống dẫn
tinh thoái hoá. Nếu tinh hoàn bị teo một nửa, nhiều ống không dẫn được tinh
trùng, người bệnh sẽ bị thiểu năng sinh dục, hoặc vô tinh, nặng hơn có thể trở
thành vô sinh. Ở nữ tổn thương phần phụ cũng tương tự: thường gặp viêm
2
thoái hoá biểu mô ống dẫn trứng, rất hiếm khi viêm, teo buồng trứng. Tổn
thương thần kinh trung ương thường gặp là viêm màng não. Màng não bị
thâm nhiễm xuất tiết nhưng hiễm khi dính vào não. Não bị sung huyết, phù
nề, tiết thanh dịch-tơ huyết quanh huyết quản. Viêm não có thể thành ổ hoặc
lan toả.
6. Lâm sàng
6.1. Viêm tuyến nước bọt mang tai: là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất
của bệnh quai bị.
6.1.1. Thời kỳ nung bệnh:
- Trung bình 14-24 ngày.
- Không có biểu hiện gì đặc biệt, nhưng từ ngày thứ 15 của bệnh virus quai bị
đã có thể bài xuất ra ngoài làm lây bệnh, chính vì vậy mà dịch quai bị tồn tại
dai dẳng khó dập tắt.
6.1.2. Thời kỳ khởi phát:
- Mang tính chất cấp tính, sốt 38
0
-39
0
C hoặc cao hơn, kèm nhức đầu, mệt mỏi,
đau nhức xương khớp, ăn ngủ kém.
- Biểu hiện đầu tiên là đau, xuất hiện ở quanh ống tai ngoài, sau lan ra xung
quanh gây khó nói, khó nuốt, khó há miệng. Hai tác giả Rilliet và Barthez lưu
ý 3 điểm đau có tính chất gợi ý đến viêm tuyến nước bọt mang tai, đó là:
• Điểm khớp thái dương hàm
• Điểm mỏm chũm
• Điểm hạch dưới hàm
6.1.3. Thời kỳ toàn phát:
- Tuyến mang tai:
+ Sưng to, lan ra vùng trước tai, mỏm chũm, lan xuống dưới hàm và
làm mất rãnh dưới hàm.
+ Tuyến sưng to làm vành tai bị đẩy ra ngoài và lên trên.
+ Khi tuyến mang tai sưng to làm biến dạng khuôn mặt.
+ Da vùng sưng có màu sắc bình thường, không nóng đỏ, có tính đàn
hồi.
+ Thường sưng cả 2 bên tuyến mang tai, bên này sau bên kia vài giờ tới
vài ngày. Tỷ lệ số các trường hợp sưng cả 2 bên so với 1 bên là 6/1.
- Tuyến dưới hàm và dưới lưỡi cũng có thể sưng to nhưng hiếm gặp. Có khi
vùng sưng lan ra trước ngực gây phù trước xương ức. Lưỡi gà sưng to làm
khó thở, có trường hợp phải mở khí quản cấp cứu.
- Bệnh nhân vẫn còn sốt 38
0
-39
0
C, đau đầu, chán ăn, khó nuốt, khó nói.
3
- Thăm khám thấy lỗ ống Sténon phù nề, đỏ tấy nhưng không bao giờ có mủ
chảy ra.
6.1.4. Thời kỳ hồi phục:
- Sau 1 tuần, tuyến mang tai giảm đau và nhỏ dần, bệnh nhân hết sốt, các triệu
chứng khác cũng lui dần và khỏi hẳn.
6.2. Các biểu hiện ngoài tuyến mang tai:
6.2.1. Viêm tinh hoàn:
- Thường gặp ở tuổi dậy thì, chiếm 20-30% các trường hợp quai bị ở người
lớn. Rất hiếm gặp ở trẻ dưới 2 tuổi và người trên 40 tuổi. Biểu hiện này có khi
xuất hiện đơn độc không kèm viêm tuyến mang tai.
- Bệnh xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai 1-2 tuần. Trên lâm sàng thấy
bệnh nhân sốt cao trở lại, đôi khi rét run, nhức đầu, nôn. Bệnh nhân đau ở tinh
hoàn sắp bị sưng, rồi tinh hoàn sưng to gấp 3-4 lần bình thường, đau nhức, da
bìu đỏ, đôi khi mào tinh cũng sưng to. Thường bệnh nhân chỉ sưng một bên
tinh hoàn nhưng cũng có thể sưng hai bên.
- Bệnh tiến triển chừng 4-5 ngày bệnh nhân hết sốt nhưng tinh hoàn sưng lâu
hơn, không hoá mủ. Sau chừng 2 tuần tinh hoàn mới hết sưng và phải sau 2
tháng mới đánh giá được tinh hoàn có bị teo hay không. Một số tác giả thấy tỷ
lệ teo tinh hoàn do quai bị là 30-40% sau 2-4 tháng mắc bệnh.
- Nếu bệnh nhân teo 1 bên tinh hoàn thì không có ảnh hưởng gì nhưng nếu teo
cả 2 bên thì có khả năng bị vô sinh.
- Nhồi máu phổi trong viêm tinh hoàn quai bị do viêm tắc tĩnh mạch tiền liệt
tuyến và đám rối vùng chậu. Còn có thể bị cương đau dương vật hoặc liệt
dương.
6.2.2. Tổn thương thần kinh:
- Viêm màng não
+ Gặp ở 10-35% các trường hợp, nhất là ở trẻ nhỏ, có thể xảy ra đơn
độc hoặc sau khi viêm tuyến mang tai 3-10 ngày.
+ Triệu chứng lâm sàng: có sốt cao, nhức đầu, nôn, rối loạn ý thức, co
giật, cổ cứng, dấu Kernig (+). Nếu xảy ra sau viêm tuyến mang tai thì
dễ liên hệ đến căn nguyên do virus quai bị.
+ Chọc dò dịch não tuỷ cho hình ảnh của một trường hợp viêm màng
não nước trong tăng lymphô bào. Protein dịch não tuỷ tăng vừa (50-100
mg%), đường bình thường.
- Viêm não:
+ Hiếm xảy ra hơn so với viêm màng não (0,5%), cũng có thể xảy ra
đồng thời hoặc sau khi viêm tuyến mang tai khoảng 2-3 tuần.
4
+ Biểu hiện lâm sàng: tương tự như các viêm não virus khác với sốt
cao, nhức đầu, co giật, rối loạn hành vi tác phong, cấm khẩu, có thể liệt
khu trú.
+ Xét nghiệm dịch não tuỷ trong, áp lực tăng nhưng thành phần không
có biến đổi.
+ Các rối loạn ý thức và vận động trong tổn thương thần kinh do virus
quai bị thường cuối cùng sẽ tự phục hồi, rất hiếm có di chứng vĩnh
viễn.
6.2.3. Viêm tuỵ cấp
- Gặp khoảng 3-7%, thường ở người lớn, phần lớn là thể ẩn, chỉ biểu hiện
biến đổi sinh hoá qua xét nghiệm.
- Bệnh xảy ra vào tuần thứ hai (ngày thứ 4-10) khi viêm tuyến mang tai đã đỡ.
- Bệnh nhân sốt trở lại, đau thượng vị cấp ở điểm giữa đường nối từ mũi ức
đến rốn. Nôn, đầy bụng, ỉa lỏng, chán ăn là những dấu hiệu hay gặp.
- Xét nghiệm có men amylase huyết thanh và trong nước tiểu tăng cao từ ngày
thứ 3 của bệnh và trở về bình thường sau 15 ngày.
- Bệnh diễn biến lành tính, khỏi sau 1-2 tuần, hiếm để lại di chứng.
- Phải nghi ngờ những trường hợp nặng tạo nang giả khi có sốt cao, đau và có
phản ứng thành bụng, nôn, truỵ mạch.
6.2.4. Biểu hiện ở các cơ quan khác: gồm tuyến lệ, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến
vú, buồng trứng.
- Quai bị và thai nghén: không rõ mối liên quan giữa quai bị với u xơ sợi đàn
hồi nội tâm mạc. Nếu nhiễm bệnh trong 3 tháng đầu có khả năng dị dạng thai.
sẩy thai. Mắc bệnh trong 3 tháng cuối có thể tăng khả năng thai chết lưu hoặc
đẻ non.
- Viêm buồng trứng: 7% sau dậy thì, sốt và đau hạ vị (hiếm khi vô sinh).
- Viêm cơ tim: nhẹ, xảy ra 5-10 ngày sau khi viêm tuyến mang tai, biến mất
sau 35 ngày với triệu chứng đau vùng trước tim, mệt nhọc và nhịp tim chậm.
Tử vong hiếm khi xảy ra.
Điện tâm đồ: sóng ST chênh xuống, rối loạn tái cực. Rối loạn dẫn truyền nhĩ
thất, tăng tính hưng phấn tế bào cơ tim.
- Viêm tuyến giáp bán cấp: chẩn đoán nhờ phản ứng huyết thanh học và phân
lập virus từ tế bào tuyến giáp, xảy ra 1 tuần sau viêm tuyến mang tai và
thường tạo kháng thể tế bào giáp trạng. Phù niêm cũng được ghi nhận.
- Biểu hiện mắt: viêm tuyến lệ, thần kinh thị giác, màng bồ đào, kết mạc,
võng mạc, tắc tĩnh mạch trung tâm, ảnh hưởng thị lực, hồi phục sau 10-20
ngày.
5