Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật phòng vệ thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 11 trang )

Chuyên
mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)
Tạp
chí

Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
Journal of Economics and Business Administration
Chỉ số ISSN: 2525 – 2569

Số 04, tháng 12 năm 2017

MỤC LỤC
Trần Thùy Linh, Trần Thị Bình An - Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật phòng vệ thương mại
ở Việt Nam..................................................................................................................................................2
Vũ Xuân Trƣờng - Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương
hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số………………………………………………………………….. 7
Nguyễn Văn Hùng, Đàm Văn Khanh - Thúc đẩy thu hút đầu tư vào các tỉnh phía bắc Việt Nam
Kinh nghiệm thành công của tỉnh Quảng Ninh.........................................................................................13
Cù Phúc Thành, Nguyễn Thị Mai Hƣơng, Bế Hùng Trƣờng - Những thành tựu và nguyên nhân
thành tựu trong cải cách kinh tế của Trung Quốc .....................................................................................17
Trần Thùy Linh, Đồng Đức Duy - Hợp đồng nhượng quyền thương mại và nguy cơ xác lập hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.....................................................................................................23
Đỗ Minh Tuấn - Đề xuất một số kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh
Thanh Hóa trong quá trình công nghiệp hóa đô thị hóa............................................................................ 28
Phạm Hồng Trƣờng, Nguyễn Quỳnh Hoa, Phạm Thị Linh - Tối thiểu hóa tổng thời gian hoàn
thành các công việc c tr ng số hác nhau tr n mô h nh máy đơn trong sản xuất ................................... 34
Trần Văn Nguyện, Vũ Việt Linh - Tăng trưởng xanh tại Việt Nam - Góc nhìn từ tác động năng
lượng và tăng trưởng kinh tế đến khí thải Các-bon: Bằng chứng toàn diện từ phương pháp ARDL .......38
Trần Thanh Tùng, Nguyễn Thị Thu Hằng, Đỗ Thanh Phúc, Hoàng Thanh Hải - Mô hình phân
tích các yếu tố tác động đến cầu lao động của các doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên ................................45
Nguyễn Quang Huy, Trần Thị Kim Anh - Chế độ bảo hiểm thai sản theo luật bảo hiểm xã hội


năm 2014 – Một số tồn tại và phương hướng hoàn thiện .........................................................................50
Trần Xuân Thủy, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Ngọc Lý - Chất lượng tăng trưởng kinh tế thành
phố Yên Bái: Thực trạng và giải pháp .....................................................................................................55
Bùi Đình Hòa, Đỗ Xuân Luận, Bùi Thị Thanh Tâm, Lò Văn Tiến - Xác định nhu cầu xây dựng
nhãn hiệu tập thể của hộ trồng cà phê huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên ..............................................60
Lê Ngọc Nƣơng, Chu Thị Vân Anh - Các nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của người lao
động trong các công ty xây dựng công trình giao thông – Trường hợp nghiên cứu tại Công ty Cổ
phần Quản lý và Xây dựng Giao thông Thái Nguyên ...............................................................................68
Nguyễn Đức Thu, Nguyễn Vân Anh - Phát triển ền vững oanh nghiệp nh và vừa trong lĩnh
vực sản xuất vật liệu x y ựng tr n địa àn tỉnh Thái Nguyên .................................................................72
Hoàng Thái Sơn, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Văn Định, Vũ Thị Thanh Mai - Giải pháp phát
triển nguồn nhân lực tại công ty nhiệt điện Cao Ngạn ..............................................................................78
Lê Thị Anh Quyên - Thực trạng mua, bán nợ giữa các tổ chức tín dụng và VAMC bằng trái phiếu
đặc biệt ...................................................................................................................................................... 85
Phạm Minh Hƣơng, Trần Văn Quyết, Nguyễn Thị Minh Huệ - Li n ết v ng trong thu hút đầu tư
phát triển inh tế x hội hu vực Đông Bắc……………………………………………………….…......92
Trƣơng Đức Huy - Lựa ch n và đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển thể lực cho nam sinh viên
K52 trường Đại h c Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên ........................................................................ 97


Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Trần Thùy Linh1, Trần Thị Bình An2
Tóm tắt
Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) là những công cụ bảo hộ sản xuất trong nước hợp pháp
trong khuôn khổ WTO. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu, các quốc gia đều phải cắt giảm
các hàng rào thuế quan khiến cho việc sử dụng các biện pháp PVTM trở thành một xu thế mạnh mẽ.
Chính các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đã phải vất vả ứng phó với hàng trăm các vụ kiện
PVTM từ các nước. Nhưng ngược lại, mặc dù Việt Nam đã có các quy định về PVTM từ hơn 10 năm nay

nhưng thực tiễn cho thấy số các vụ việc áp dụng biện pháp PVTM để bảo vệ các nhà sản xuất trong
nước của Việt Nam còn quá khiêm tốn. Điều này đặt ra vấn đề cần phải nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về PVTM của Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Phòng vệ thương mại, tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, hiệu quả thực thi
EFFICIENT ENFORCEMENT OF TRADE REMEDIES LAW OF VIETNAM
Abstract
Trade Remedies (TRs) are legitimate domestic protection tools within the WTO. In the context of global
trade liberalization, countries have had to cut tariff barriers, resulting in the increasing trend of TRs
measures employment. Vietnamese exporters have struggled to cope with hundreds of TRs cases from
other countries. However, despite the introduction of TRs regulations over 10 years ago in Vietnam, the
number of cases using TRs measures to protect Vietnamese producers is extremely modest. This raises
the question of how to improve the effectiveness of Vietnam's law enforcement on TRs.
Keywords: Trade Remedies, Safeguard, Anti-dumping, Subsidies, Effective Enforcement
cần thiết trong bối cảnh hàng hoá nước ngoài
1. Đặt vấn đề
tràn vào thị trường trong nước do cắt giảm thuế,
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp
trong khi các sản phẩm của Việt Nam hông đủ
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ được
khả năng cạnh tranh. Bởi vậy, việc tận dụng hiệu
coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp
quả các biện pháp PVTM như những công cụ
PVTM. Mục đích an đầu của việc xây dựng các
hợp pháp phù hợp cam kết và thông lệ quốc tế là
biện pháp PVTM là nhằm bảo đảm thương mại
điều rất cần thiết.
tự do và công bằng, che chắn cho các nhà sản
xuất trong nước kh i thiệt hại do cạnh tranh
2. Thực trạng thi hành pháp luật về
không lành mạnh trong thương mại quốc tế.

PVTM của Việt Nam
Ngày nay, các quốc gia còn coi PVTM như là
Trong bối cảnh tự do và toàn cầu hóa
biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. So với các
thương mại, các quốc gia cam kết dỡ b hoặc
biện pháp bảo hộ khác về thuế quan, hành chính
cắt giảm các chính sách thương mại mang tính
hay hàng rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ… th
rào cản thì các biện pháp PVTM càng trở nên
PVTM là công cụ phổ biến, dễ sử dụng hơn và
phổ biến o đ y là các iện pháp mà WTO cho
lại là công cụ hợp pháp được WTO cho phép.
phép các nước sử dụng nhằm tự bảo vệ mình
Các vụ việc về PVTM chiếm số lượng đáng ể
trước các hiện tượng thương mại không lành
trong các tranh chấp trong WTO. Trong khi các
mạnh từ bên ngoài hoặc trong những bối cảnh
biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp
đặc biệt cần tự vệ.
được sử dụng nhằm hạn chế hành vi cạnh tranh
Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
không lành mạnh từ bên ngoài, thì các biện pháp
không còn quá xa lạ với việc bị kiện chống bán
tự vệ lại được sử dụng nhằm giúp các ngành sản
phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ tại thị trường
xuất nội địa thêm thời gian để điều chỉnh tăng
nước ngoài. Tính đến nay đ c hơn 120 vụ kiện
cường tự o h a thương mại.
PVTM có liên quan tới hàng xuất khẩu của Việt
Quá trình hội nhập kinh tế Thế Giới của Việt

Nam o nước ngoài khởi xướng điều tra (EU,
Nam ngày càng đi vào chiều sâu với việc đàm
Hoa Kỳ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ…). Tuy nhi n,
phán và ký kết hàng loạt các hiệp định Thương
chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam lại
mại tự o. Điều này đồng nghĩa với việc mở cửa
khá thờ ơ trong việc sử dụng các biện pháp
cho hàng h a nước ngoài vào Việt Nam là tất
PVTM như một công cụ hữu hiệu để hạn chế
yếu. Các biện pháp thương mại trở nên cực kỳ
cạnh tranh không lành mạnh và sự tăng quá mức
2


Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, bảo vệ sản
Báo cáo thường niên của cục quản lý cạnh tranh,
xuất trong nước. Mặc dù pháp luật về PVTM đ
từ năm 2009 đến nay, Cơ quan điều tra đ tiến
được xây dựng và ban hành từ năm 2004 nhưng
hành 08 vụ việc điều tra (03 vụ việc chống bán
trong vòng 10 năm đầu sau khi ban hành, không
phá giá, 05 vụ việc tự vệ). Thông tin cụ thể về
có bất cứ vụ việc về PVTM nào được thực thi.
các biện pháp PVTM được áp dụng thể hiện qua
Các biện pháp này mới chỉ bắt đầu thực sự được
bảng sau:
sử dụng trong khoảng 5 năm trở lại đ y. Theo
Bảng 1: Các công cụ phòng vệ thương mại được áp dụng giai đoạn 2009 - 2017

Số vụ dẫn
Năm
đến áp
khởi
Công cụ
Số vụ điều
Tên vụ việc
dụng biện
xƣớng
PVTM
tra
pháp
điều tra
PVTM
Tự vệ
Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
2009
01
0
thương mại
sản phẩm Kính nổi (SG01)
Tự vệ
Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
2012
01
01
thương mại
dầu thực vật (SG02)
Chống bán
Vụ điều tra áp dụng biện pháp Chống bán

2013
phá giá
phá giá đối với thép không gỉ cán nguội
01
01
(AD01)
Tự vệ
Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
01
01
thương mại
bột ng t (SG03)
2015
Tự vệ
Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
01
01
thương mại
phôi thép và thép dài (SG04)
Chống bán
Vụ điều tra áp dụng biện pháp chống bán
phá giá
phá giá đối với mặt hàng tôn mạ kẽm
01
01
(AD02)
Tự vệ
Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
2016
thương mại

sản phẩm tôn màu nhập khẩu từ Hàn Quốc
01
01
và Đài Loan (SG05)
Chống bán
Vụ điều tra chống án phá giá đối với mặt
01
01
phá giá
hàng thép hình chữ H (AD03)
Biện pháp tự Vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với
2017
Đang trong quá tr nh điều tra
vệ
sản phẩm phân bón nhập khẩu (SG 06)
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của Cục Quản lý cạnh tranh

Qua phân tích thực trạng các vụ việc PVTM
được thực thi trong thời gian qua, có thể thấy số
vụ kiện PVTM do các doanh nghiệp trong nước
khởi xướng tuy còn rất hạn chế nhưng c xu
hướng tăng l n, cho thấy cộng đồng Doanh
nghiệp không hoàn toàn thờ ơ với việc sử dụng
các công cụ này. Việc sử dụng các công cụ
PVTM của Việt Nam ường như hông theo con
đường chung giống như các nước đi trước. Về
ản chất, các iện pháp chống án phá giá và
chống trợ cấp đều c mục đích là đưa cạnh tranh
trở lại vị thế c n ằng hi c hành vi cạnh tranh
hông lành mạnh từ các nhà xuất hẩu nước

ngoài, trong hi đ iện pháp tự vệ lại c mục
đích hạn chế cạnh tranh trong điều iện đặc iệt
và chỉ mang tính chất tạm thời để cho ngành sản
xuất trong nước c thể tồn tại, cạnh tranh sẽ
hông ị thủ ti u và quan hệ thương mại được
uy tr ền vững. Mục đích của iện pháp tự vệ

là tạo ra một thị trường ít thu hút hơn đối với các
đối thủ cạnh tranh nước ngoài, nhằm ảo hộ thị
trường trong nước trước sự nhập hẩu hàng h a
quá mức, hông thể lường trước được. Thông
thường trong 3 công cụ PVTM mại thì các quốc
gia thường quan tâm sử dụng công cụ chống bán
phá giá và chống trợ cấp nhiều hơn. Các nước có
xu hướng hạn chế sử dụng công cụ tự vệ, bởi lẽ,
việc áp dụng công cụ tự vệ không cẩn tr ng sẽ
dẫn đến hậu quả là quốc gia áp dụng sẽ phải bồi
thường cho quốc gia bị áp dụng. Ngược lại, ở
Việt Nam hai biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp hông được áp dụng nhiều, trong
khi phần lớn các vụ việc PVTM của Việt Nam là
về tự vệ. Mặc dù vậy, chỉ từ vụ việc chống bán
phá giá đầu ti n năm 2013, đến năm 2016 Việt
Nam đ điều tra áp dụng biện pháp chống bán
phá giá đối với 2 vụ việc cho thấy những tín hiệu
thuận chiều đáng mừng.
3


Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)


Xu hướng sử dụng các biện pháp PVTM trên
Thế giới hiện nay cho thấy. Biện pháp được sử
dụng nhiều nhất là chống bán phá giá. Các vụ
kiện chống bán phá giá xảy ra trên thế giới ngày
càng tăng về số lượng chủ thể tham gia và ngày
càng mở rộng phạm vi hàng hoá áp dụng. Theo
số liệu của WTO, từ năm 1995 đến nay trên thế
giới đ tiến hành khoảng 5000 cuộc điều tra về
chống án phá giá, đứng đầu danh sách là các
nước Ấn độ, Hoa Kỳ và EU. Trong bối cảnh tự
o h a thương mại đang ngày càng gia tăng và
việc ký kết các hiệp định thương mại tự do
(FTAs) sẽ dẫn tới lượng hàng nhập khẩu lớn ồ ạt
vào thị trường Việt Nam. Nguy cơ hàng nhập
khẩu bán phá giá sẽ trở nên phổ biến. Khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn yếu
kém. Nhiều ngành sản xuất trong nước, đặc biệt
là các ngành sản xuất còn non trẻ sẽ gặp nhiều
h hăn trong việc cạnh tranh với hàng nhập
khẩu. Do đ , Việt Nam cần chủ động vận dụng
các quy định pháp luật để áp dụng biện pháp
chống bán phá giá nói chung và các biện pháp
PVTM n i ri ng để bảo hộ sản xuất trong nước
một cách hợp pháp và có hiệu quả nhất.

3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng
thi hành pháp luật về PVTM ở Việt Nam
Mặc dù Pháp luật về PVTM của Việt Nam
đ h nh thành từ năm 2004, qua thực tiễn hơn

10 năm thực thi thực trạng pháp luật và nhu cầu
áp dụng trong thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề
có thể ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật, cụ
thể là:
Thứ nhất, Pháp luật PVTM của Việt Nam còn
đơn giản và chưa đầy đủ. Mặc
đ được xây
dựng và ban hành từ năm 2004, các pháp lệnh về
các biện pháp PVTM của Việt Nam được dựa
trên các hiệp định của WTO mà hông tính đến
tình hình thực tế của đất nước. Cụ thể, qua tìm
hiểu chúng tôi nhận thấy một số điểm hạn chế về
pháp luật PVTM của Việt Nam như sau:
- Quy định về tỷ lệ đại diện của doanh
nghiệp đứng đơn y u cầu áp dụng các biện pháp
PVTM không phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam. Theo quy định của các Pháp lệnh về
PVTM, cá nhân, tổ chức nộp đơn y u cầu áp
dụng biện pháp PVTM phải đảm bảo c lượng
sản xuất chiếm 25% thị phần toàn ngành sản xuất
trong nước. Quy định về tỷ lệ đại diện trong các
pháp lệnh hiện hành là một trong những vướng
mắc g y h hăn cho việc khởi xướng điều tra
nhiều vụ việc do các doanh nghiệp khó có thể tập
trung lại c ng đứng đơn để đảm bảo điều kiện về
tỷ lệ đại diện.

4

- Quy định về việc cung cấp, thu thập và

bảo mật thông tin trong quá tr nh điều tra các vụ
việc PVTM chưa rõ ràng n n trong quá trình
thực thi gặp vướng mắc. Các pháp lệnh chưa quy
định rõ quyền của cơ quan điều tra trong trường
hợp các n li n quan hông hợp tác cung cấp số
liệu. Điều này là một trong những trở ngại lớn
nhất cho các cơ quan điều tra trong quá tr nh giải
quyết vụ việc.
Thứ hai, hệ thống cơ quan điều tra và xử lý
vụ việc PVTM của Việt Nam còn yếu về lực
lượng và kinh nghiệm áp dụng pháp luật. Các
biện pháp PVTM là các biện pháp hợp pháp
trong khuôn khổ WTO nhưng chỉ được áp dụng
khi th a m n các điều kiện chặt chẽ nhất định.
Để áp dụng các biện pháp PVTM, đặc biệt là
biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp,
các cơ quan điều tra phải am hiểu về giá cả cũng
như các chính sách inh tế của các nước mà Việt
Nam c ý định áp dụng các biện pháp đ . Trong
hi các nước đ c hơn 100 năm inh nghiệm
thực thi các biện pháp PVTM th cơ quan điều tra
và xử lý vụ việc PVTM của Việt Nam mới có
hơn 10 năm inh nghiệm. Bên cạnh đ , lực
lượng cán bộ điều tra vừa m ng, lại hạn chế về
tr nh độ cũng là một khó khắn. Cơ quan c thẩm
quyền điều tra các vụ việc PVTM của Việt Nam
là Cục quản lý cạnh tranh, trực thuộc Bộ Công
thương. Cơ quan này đồng thời cũng là cơ quan
chịu trách nhiệm điều tra, xử lý các vụ việc về
Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng. Do cùng

lúc thực hiện quản lý nhà nước, điều tra, xử lý vi
phạm trên cả 3 mảng hoạt động phức tạp nên
nhiều khi hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh
chưa hiệu quả.
Thứ ba, nhận thức của doanh nghiệp về các
biện pháp khắc phục thương mại cũng như năng
lực tham gia các vụ việc và khả năng đoàn ết
của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn
chế. Theo một cuộc khảo sát do VCCI tiến hành
vào năm 2015, 15 % trong số 1000 doanh nghiệp
được điều tra không biết về biện pháp thương
mại, hơn 63 % iết nhưng hông hiểu và gần 20
% hiểu một chút về các hành động này. Ít hơn 2
% số người được h i đ hiểu rõ về các biện pháp
khắc phục thương mại, trong khi 41 phần trăm
trong số h nói rằng h không thể th a m n đầy
đủ các điều kiện bắt đầu các trường hợp khắc
phục thương mại. Hiện nay, nhận thức của doanh
nghiệp về các biện pháp PVTM mặc
đ được
nâng lên song doanh nghiệp vẫn bị động trong
việc sử dụng các công cụ này. Doanh nghiệp của
Việt Nam mới chỉ ước đầu quan tâm đến việc
sử dụng các công cụ PVTM như một lá chắn bảo


Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

vệ khi bị đe a bởi nguy cơ g y thiệt hại khi
hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có dấu hiệu

cạnh tranh không lành mạnh hay tăng quá mức.
Trong hi đ , các Doanh nghiệp nước ngoài coi
việc sử dụng các công cụ PVTM không chỉ là
công cụ bảo vệ mà còn là một công cụ để thực
hiện chiến lược inh oanh. Năng lực để tham
gia vào các vụ việc PVTM thể hiện ở nhiều khía
cạnh như hiểu biết về pháp luật PVTM, khả năng
thu thập và cung cấp chứng cứ, hệ thống kế toán,
tài chính và minh bạch thông tin, tinh thần đoàn
kết của doanh nghiệp. Đối với những yêu cầu
này các doanh nghiệp Việt Nam đều còn hạn chế.
Thứ tư, thực trạng quản lý xuất nhập khẩu có
thể ảnh hưởng đến công tác điều tra và áp dụng
các biện pháp PVTM đối với hàng hóa nhập
khẩu. Trong nhiều năm qua, đặc iệt là sau hi
Việt Nam gia nhập WTO, cán c n thương mại
Việt Nam luôn ở trong t nh trạng th m hụt với
mức độ ngày càng lớn. Nếu như trong giai đoạn
2000 - 2006, mức th m hụt cán c n thương mại
trung bình hàng năm hoảng 5 tỷ USD th từ
năm 2007, nhập si u đ tăng l n ở mức đáng áo
động, chỉ đến năm 2012, sau nhiều năm li n tục
gia tăng nhập si u, Việt Nam xuất si u hoảng
284 triệu USD nhưng đến năm 2015, 2016 lại
quay lại t nh trạng nhập si u, mặc
mức thâm
hụt đ được cải thiện ở mức 501 triệu USD năm
2016. Tuy nhi n, ngay trong lúc xuất si u, Việt
Nam vẫn nhập si u từ Trung Quốc. Mặc
thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Trung

Quốc ngày càng tăng trưởng nhưng nhập si u
vẫn trong xu hướng gia tăng o ch nh lệch về tốc
độ tăng xuất hẩu, nhập hẩu với thị trường này
há lớn. Chính v vậy, trong rổ hàng h a xuất
nhập hẩu của nước ta, thị trường Trung Quốc
chỉ chiếm 9,6% hàng xuất hẩu nhưng lại chiếm
tới 28,8% hàng nhập hẩu. T nh trạng nhập si u
sẽ éo theo những hệ quả nhất định, một trong số
đ là nguy cơ g y thiệt hại của hàng nhập hẩu
đối với các ngành sản xuất trong nước. Trước
t nh h nh đ , pháp luật về PVTM sẽ c tác ụng
nhất định trong việc giảm thiểu những thiệt hại
o hàng nhập hẩu g y ra thông qua việc điều
tra, áp ụng các iện pháp PVTM nhằm ảo vệ
ngành sản xuất trong nước.

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về PVTM của Việt Nam
trong thời gian tới
Việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
PVTM của Việt Nam trong thời gian tới cần
những giải pháp đồng bộ:
Về hoàn thiện các quy định pháp luật: Mới
đ y Quốc hội đ thông qua Luật quản lý ngoại

thương, trong đ các quy định về PVTM nằm
trong 3 Pháp lệnh được ban hành từ 2004 đ
được hệ thống hóa và nâng lên thành luật và sẽ
có hiệu lực từ ngày 1/1/2018. Các quy định Luật
quản lý ngoại thương đ hắc phục hạn chế về

quy định tỷ lệ đại diện của doanh nghiệp đứng
đơn y u cầu tạo cơ chế linh hoạt hơn, điều iện
thuận lợi hơn cho ngành sản xuất trong nước
trong việc nộp hồ sơ và ễ àng sử sụng các
công cụ PVTM; đồng thời đ hắc phục được
những hạn chế về hoảng chống áp thuế (giữa áp
thuế sơ ộ và áp thuế chính thức), quy định rõ
hơn về quyền của cơ quan điều tra, về lẩn tránh
thuế và vấn đề giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,
thực tiễn thương mại quốc tế luôn iến đổi hông
ngừng, điều này đòi h i các quy định pháp luật
về PVTM cũng phải vận động và c sự thay đổi
ph hợp, các quy định phải c độ linh hoạt và
mềm ẻo, tránh việc quy định quá cứng nhắc. Do
đ , thời gian tới hi Luật quản lý ngoại thương
c hiệu lực, các nhà làm luật, các nhà thực thi
pháp luật của Việt Nam cần phải thường xuy n
cập nhật, h c h i inh nghiệm của các nước, đặc
iệt là Mỹ, EU để t m ra những phương thức
mới, giải pháp hiệu quả hơn để ảo vệ nền sản
xuất trong nước. Đặc iệt trong ối cảnh cả EU
và Mỹ đều đang tiến hành những cải cách trong
chính sách PVTM của m nh.
Về nâng cao nhận thức, năng lực của cộng
đồng doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần nhận
thức việc áp dụng PVTM là để bảo vệ chính
doanh nghiệp và việc áp dụng các biện pháp
PVTM chỉ có thể tiến hành được khi doanh
nghiệp chủ động. Do đ , các oanh nghiệp cần
nâng cao hiểu biết về PVTM để bảo vệ mình, chủ

động thu thập thông tin về các nhà sản xuất, xuất
khẩu nước ngoài, cũng như là các nhà sản xuất
trong nước, tích cực phối hợp, hợp tác với cơ quan
điều tra trong suốt vụ việc, phối hợp chặt chẽ với
hiệp hội, doanh nghiệp thành viên, liên minh có
cùng lợi ích, chủ động giữ liên lạc với cơ quan
Nhà nước để được hỗ trợ, sử dụng chuyên gia tư
vấn và luật sư, làm tốt quan hệ công chúng.
Không ai có thể hiểu rõ nhất ngành nghề mình
đang inh oanh ằng chính mình, vấn đề là phải
cởi b tâm lý e ngại khi phải cung cấp số liệu cho
Cục QLCT, bởi theo quy định của WTO các số
liệu sản lượng, thị phần, doanh thu, lợi nhuận, đầu
tư… sẽ được bảo mật và phải được DN cung cấp
thật cụ thể, thật chính xác. Nếu không cung cấp
các số liệu này cho Cục QLCT thì việc hỗ trợ cho
các DN sẽ rất h hăn.
Về phía Nhà nước: Cần tăng cường về số
lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán ộ
5


Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

điều tra. Đặc biệt cần quan tâm nghiên cứu tình
hình kinh tế, giá cả hàng hóa, chiến lược xuất
khẩu của các quốc gia c lượng xuất khẩu lớn
vào Việt Nam. Các cơ quan c thẩm quyền phải
chủ động theo dõi tình hình thế giới, dự báo kịp
thời, nhằm hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp, bảo

đảm bảo vệ hiệu quả nền sản xuất trong nước,
đồng thời thích ứng với xu hướng mới của thế
giới. Các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu và cơ
quan quản lý về PVTM cần có sự phối hợp
thường xuyên, nhằm phát hiện các dấu hiệu cạnh
tranh không lành mạnh từ hàng h a nước ngoài
nhập khẩu vào Việt Nam từ đ c sự tư vấn, hỗ
trợ kịp thời cho các doanh nghiệp thực hiện các
ước khởi động điều tra khi cần thiết.
Trong việc áp dụng các công cụ PVTM cần
nhận thức được PVTM mặc
là xu hướng
mạnh mẽ trong thương mại quốc tế song nó lại là
con ao hai lưỡi. PVTM mang lại những tác
động tích cực cho nền sản xuất nội địa, các nhà

sản xuất các mặt hàng tương tự, mặt hàng đầu
vào hay thượng nguồn trong nước như: Giảm bớt
sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu; Bảo vệ các
doanh nghiệp trong nước, giúp h tăng sức cạnh
tranh trên thị trường nội địa. Nhưng ngược lại
cũng g y ra những tác động tiêu cực khiến cho
hàng h a đắt đ hơn so với tự o thương mại,
gây thiệt hại cho các nhà sản xuất kinh doanh và
người tiêu dùng; Ảnh hưởng đến phát triển
thương mại quốc tế, gây ra sự cô lập kinh tế của
một nước trong xu thế toàn cầu hoá; Gây tình
trạng trì trệ của kinh doanh nội địa, càng bảo hộ
mạnh thì ngành công nghiệp càng kém linh hoạt,
khiến hoạt động đầu tư và inh oanh hông còn

hiệu quả. Do đ hông n n coi các iện pháp
PVTM là biện pháp ưu ti n sử dụng mà nên coi
là chiếc van cuối c ng để đảm bảo an toàn cho
sản xuất trong nước. Một mặt cần thúc đẩy doanh
nghiệp tìm hiểu, nắm chắc, chủ động sử dụng
nhưng cũng cần thận tr ng khi sử dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục Quản lý Cạnh tranh. Báo cáo thường niên. Website: .
[2]. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Kết quả khảo sát doanh nghiệp về khả năng kiện
PVTM, tháng 8/2014.
[3]. Quốc hội. (2017). Luật Quản lý ngoại thương 2017.
[4]. Ủy an Thường vụ Quốc hội. (2004). Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20/8/2004 về
Chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
[5]. Ủy an Thường vụ Quốc hội. (2002). Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/05/2002 về Tự
vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.
[6]. Ủy an Thường vụ Quốc hội. (2004). Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004 về
Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

Thông tin tác giả:
1. Trần Thùy Linh
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
- Địa chỉ email:
2. Trần Thị Bình An
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD

6

Ngày nhận bài: 10/11/2017
Ngày nhận bản sửa: 19/12/2017

Ngày duyệt đăng: 15/01/2018


Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ NGUY CƠ XÁC LẬP HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG
Trần Thùy Linh1, Đồng Đức Duy2
Tóm tắt
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là cơ sở pháp lý làm hình thành quan hệ nhượng quyền thương
mại. Một trong những yếu tố đảm bảo sự phát triển bền vững và thành công của hệ thống nhượng quyền
chính là sự đồng bộ trong hệ thống. Tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền đòi hỏi bên nhận quyền
phải có nghĩa vụ tuân thủ theo mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, thống nhất về các yêu tố liên
quan đến quy tr nh kinh doanh như chất lượng hàng hóa, dịch vụ, giá cả, phương thức phục vụ, cách
thức bài trí cơ sở kinh doanh… Những điều kiện như vậy đã hạn chế khả năng lựa chọn của bên nhận
quyền, có tác động hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong cùng hệ thống nhượng quyền. Trong trường
hợp bên nhượng quyền lại nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường thì bằng việc áp đặt các điều khoản cho
bên nhận quyền, hành vi của bên nhượng quyền có nguy cơ cao bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vi phạm Luật cạnh tranh.
Từ khóa: Nhượng quyền thương mại, hợp đồng, cạnh tranh, lạm dụng, thống lĩnh thị trường
FRANCHISE AGREEMENTS AND THE RISK OF ESTABLISHING THE DOMINANT
ABUSIVE CONDUCTS
Abstract
A franchise agreement is the legal basis for forming a franchise relationship. One of the factors
ensuring the sustainable development and success of a franchise system is the consistency in the system.
The consistency of the franchise system requires the franchisee to be obliged to comply with the
franchisor's business model, agree on the elements related to the business process such as the quality of
the goods or services, prices, mode of service, layout of the business premises ... Such conditions limit
the options of the franchisee, restricting competition between parties in the same system of transfer
rights. In cases where the franchisor holds the dominant market position by imposing terms on the

franchisee, the acts of the high-risk franchisee shall be regarded as a dominant abusive conduct,
violating Vietnamese Competition Law.
Keywords: Franchise, Contract, Competition, Abuse, Dominance
như thống nhất về chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
1. Đặt vấn đề
giá cả, phương thức phục vụ, cách thức ài trí cơ
Hợp đồng nhượng quyền thương mại
sở inh oanh… Những điều kiện như vậy đ
(HĐNQTM) là cơ sở pháp lý làm hình thành
hạn chế khả năng lựa ch n của bên nhận quyền,
quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM)
c tác động hạn chế cạnh tranh giữa các bên
giữa n nhượng quyền và bên nhận quyền, theo
trong cùng hệ thống nhượng quyền. Trong
đ
n nhượng quyền cho phép bên nhận quyền
trường hợp n nhượng quyền lại nắm giữ vị trí
độc lập tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung
thống lĩnh thị trường thì bằng việc áp đặt các
ứng dịch vụ theo một phương thức kinh doanh và
điều khoản cho bên nhận quyền, mặc dù ở mức
gắn liền với các đối tượng sở hữu trí tuệ do bên
độ nào đ được coi là để đảm bảo tính đồng bộ
nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát, bên
cho hệ thống nhượng quyền, hành vi của bên
nhượng quyền sẽ tiến hành việc hỗ trợ và kiểm
nhượng quyền cũng c nguy cơ cao ị coi là lạm
soát thường xuy n đối với việc kinh doanh của
dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
bên nhận quyền, đổi lại, bên nhận quyền sẽ trả

2. Nhận diện các điều khoản trong hợp
cho n nhượng quyền một khoản phí.
Nghiên cứu về bản chất của quan hệ nhượng
đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có nguy
quyền có thể thấy rằng một trong những yếu tố
cơ àm phát sinh hành vi lạm dụng vị trí
đảm bảo sự phát triển bền vững và thành công
thống ĩnh thị trƣờng.
của hệ thống nhượng quyền chính là sự đồng
Trong quan hệ NQTM, n nhượng quyền
bộ trong hệ thống. Mặc dù bên nhận quyền hoàn
thông qua th a thuận với bên nhận quyền tr n cơ
toàn độc lập so với n nhượng quyền xong để
sở HĐNQTM để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống nhượng
mình và thực hiện việc giám sát chặt chẽ đối với
quyền nên bằng các điều khoản trong hợp đồng,
toàn hệ thống nhượng quyền mà cụ thể là các bên
n nhượng quyền luôn yêu cầu bên nhận quyền
nhận quyền. Tính đồng bộ là yếu tố quan tr ng
phải c nghĩa vụ tuân thủ theo mô hình kinh
đảm bảo sự tồn tại của hệ thống nhượng quyền.
doanh của m nh, đảm bảo được tính đồng nhất về
Do đ , mặc dù quan hệ HĐNQTM về mặt lý
các yêu tố li n quan đến quy trình kinh doanh
thuyết là quan hệ hợp tác nh đẳng nhưng các
23


Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)


điều khoản trong HĐNQTM lại thường có xu
hướng mang tính áp đặt của n nhượng quyền
đối với bên nhận quyền. Trên thực tế, với lý do
để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống nhượng
quyền, n nhượng quyền thường đặt ra các điều
khoản nhằm kiểm soát cả về giá cả và chất lượng
sản phẩm như chỉ định nguồn cung cấp nguyên
liệu, áp đặt giá bán, phân chia thị trường…. Chấp
nhận các nghĩa vụ này là điều kiện để bên nhận
quyền gia nhập hệ thống và hệ quả mang lại là
bên nhận quyền không thể cạnh tranh với chính
n nhượng quyền cũng như các n nhận quyền
khác trong cùng hệ thống. Khi
n nhượng
quyền có vị trí thống lĩnh thị trường (nắm giữ ít
nhất 30% thị phần trên thị trường liên quan hoặc
có khả năng g y hạn chế cạnh tranh một cách
đáng ể), tức là có sức mạnh thị trường nhất định
thì những điều khoản áp đặt cho bên nhận quyền
c xu hướng vượt qua ranh giới của việc đảm
bảo tính đồng bộ của hệ thống đến mức bất hợp
lý và có thể bị coi là hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường.
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường được quy định tại Điều 13 Luật cạnh
tranh 2004, bao gồm các hành vi (i) Bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ ưới giá thành toàn bộ
nhằm loại b đối thủ cạnh tranh; (ii) Áp đặt giá
mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc

ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng; (iii) Hạn chế sản xuất, phân phối
hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho
hách hàng; (iv) Áp đặt điều kiện thương mại
khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất
nh đẳng trong cạnh tranh; (v) Áp đặt điều kiện
cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hóa hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp
nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến
đối tượng của hợp đồng; (vi) Ngăn cản việc tham
gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
Xét các hình thức của hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường có thể thấy việc bên
nhượng quyền đặt ra các điều khoản trong
HĐNQTM rất dễ rơi vào các trường hợp lạm
dụng vị trí thống lĩnh sau đ y: (i) Áp đặt giá bán
hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho
bên nhận quyền; (ii) Ấn định giá bán lại tối thiểu
gây thiệt hại cho khách hàng; (iii) Buộc bên nhận
quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng NQTM.
Hành vi Áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất
hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền được
hiểu là n nhượng quyền đưa ra cho n nhận
quyền một mức giá quá cao so với mức giá thị
24

trường. Theo khoản 2 điều 27 Nghị định
116/2005/NĐ – CP, tính bất hợp lý được thể hiện

là khi cầu về hàng hoá, dịch vụ hông tăng đột
biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc
năng lực sản xuất của n nhượng quyền và th a
m n hai điều kiện sau đ y: (i) Giá án lẻ trung
bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian
tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một
lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng
mức tăng vượt quá 5% so với giá đ án trước
khoảng thời gian tối thiểu đ ; (ii) Không c iến
động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của
hàng hóa, dịch vụ đ vượt quá 5% trong thời
gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu
tăng giá. Nếu n nhượng quyền vi phạm quy
định này, h có thể bị cảnh cáo hoặc phạt tiền
với mức phạt tối đa là 10% tổng doanh thu của
n nhượng quyền trong năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, bên
nhượng quyền cũng phải loại b những yêu
cầu trái luật trong việc áp đặt giá bán bất hợp
lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền nếu trong
hợp đồng nhượng quyền c quy định (Điều
117.1, Điều 117.3( ) và Điều 118.1, Luật Cạnh
tranh 2004). Hành vi này của n nhượng quyền
có thể xảy ra hai trường hợp cụ thể:
- B n nhượng quyền áp đặt mức phí nhượng
quyền cao bất hợp lý mà bên nhận quyền phải chấp
nhận nếu muốn gia nhập hệ thống nhượng quyền.
- B n nhượng quyền lấy lý o đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống nhượng quyền thoả
thuận bên nhận quyền phải mua một tỷ lệ hàng

hóa, dịch vụ nhất định trong quá trình kinh
doanh từ chính n nhượng quyền, đồng thời
áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ cao bất hợp lý
đối với bên nhận quyền.
Rõ ràng, o n nhượng quyền nắm giữ vị trị
thống lĩnh thị trường n n đ tạo ra cho nó khả
năng chi phối giá hàng hóa, dịch vụ mà nó cung
ứng, không phụ thuộc vào các quy luật của thị
trường. Bên nhận quyền là đối tượng chịu tác
động của hành vi lạm dụng, mặc dù biết rõ mức
giá mà n nhượng quyền đưa ra là ất hợp lý
nhưng o ị hạn chế về khả năng lựa ch n và
quyết định ( n nhượng quyền giữ quyền chi
phối thị trường) nên phải chấp nhận.
Ở hành vi áp đặt giá thứ nhất, việc bên
nhượng quyền lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường được thể hiện rõ ràng hơn. Bởi nếu bên
nhượng quyền không giữ vị trí thống lĩnh thị
trường thì bên nhận quyền hoàn toàn có thể
chuyển sang t m cơ hội gia nhập một hệ thống
nhượng quyền khác với mức phí hợp lý. Việc
nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường đ mang lại


Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

cho n nhượng quyền lợi thế trong việc đặt ra
các th a thuận với bên nhận quyền, làm phá vỡ
sự nh đẳng trong thể hiện ý chí vốn ĩ là
nguyên tắc cơ ản của việc giao kết hợp đồng.

Sự can thiệp của Luật cạnh tranh bằng các quy
định cấm doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ
bất hợp lý vận dụng vào HĐNQTM hi n
nhượng quyền đưa ra mức phí nhượng quyền bất
hợp lý là hoàn toàn chính xác.
Tuy nhiên, ở hành vi thứ hai, thực tiễn cho
thấy, kể cả n nhượng quyền không nắm giữ vị
trí thống lĩnh thị trường, nhưng do bản chất của
quan hệ NQTM, n nhượng quyền vẫn có thể
buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa, dịch vụ
do mình cung cấp và áp đặt mức giá bất hợp lý
cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền nếu không
chấp nhận mức giá o n nhượng quyền đưa ra,
từ chối mua hàng hóa, dịch vụ của n nhượng
quyền chính là phá vỡ tính hệ thống của quan hệ
nhượng quyền. Do đ , ở hành vi thứ hai bên
nhượng quyền vẫn có lợi thế và lạm dụng được
lợi thế mà m nh c được kể cả khi nó không nắm
giữ vị trí thống lĩnh thị trường. Sự can thiệp của
luật cạnh tranh với những quy định hiện hành rõ
ràng là chưa đủ trong trường hợp này.
Hành vi Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt
hại cho khách hàng, theo quy định tại Khoản 3,
Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP được
hiểu là hành vi của n nhượng quyền khống chế
không cho phép bên nhận quyền bán lại hàng hóa
thấp hơn mức giá đ được n nhượng quyền ấn
định trước. Thực tế cho thấy, trong quan hệ
NQTM, n nhượng quyền sẽ c xu hướng th a

thuận bên nhận quyền phải cam kết bán lại hàng
hóa, sản phẩm theo một mức giá nhất định hoặc
hông được thấp hơn mức giá nhất định. Hành vi
này, xét từ g c độ Luật thương mại, là hành vi
được ghi nhận nhằm đảm bảo tính thống nhất của
hệ thống nhượng quyền. Tính thống nhất là một
đặc trưng cơ ản đồng thời cũng là yếu tố đảm
bảo sự tồn tại của hệ thống nhượng quyền. Sự
thống nhất của hệ thống nhượng quyền được thể
hiện ở m i khía cạnh từ chất lượng sản phẩm, giá
cả, cung cách phục vụ,… nhằm duy trì hình ảnh
đặc trưng và uy tr chất lượng đặc trưng của sản
phẩm/dịch vụ. Việc tiến hành hoạt động kinh
doanh tốt hay xấu của bất kỳ một thành viên
nào trong hệ thống nhượng quyền thương mại
đều có thể làm tăng hay giảm uy tín của toàn
bộ hệ thống, từ đ sẽ gây ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đến lợi ích của các thành viên
còn lại. Tuy nhiên, xét từ g c độ Luật cạnh
tranh, rõ ràng hành vi này sẽ tác động trực tiếp

đến quyền tự o xác định giá bán của bên nhận
quyền, mặt khác do cả n nhượng quyền, các
bên nhận quyền trong hệ thống cùng kinh doanh
một loại sản phẩm, dịch vụ nên hành vi này sẽ
hạn chế cạnh tranh giữa các bên nhận quyền
trong cùng hệ thống, đồng thời cũng là hạn chế
bên nhận quyền cạnh tranh với chính n nhượng
quyền. Xa hơn nữa chính hành vi này sẽ hạn chế
khả năng cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền

với các đối thủ cạnh tranh ngoài hệ thống, bởi lẽ,
h hông được giảm giá bán lại sản phẩm ưới
mức tối thiểu mà n nhượng quyền đ ấn định.
Một hậu quả khác có thể xảy ra là với việc áp
dụng chung một mức giá bán ra thị trường, người
tiêu dùng mất cơ hội được lựa ch n sản phẩm với
giá cả trong điều kiện thị trường tồn tại cạnh
tranh. Bên cạnh đ , hành vi này sẽ gián tiếp làm
mất đi cơ hội được lựa ch n và sử dụng hàng
hóa/dịch vụ với mức giá hợp lý của người tiêu
dùng. Quan hệ NQTM trong trường hợp này đ
chứa đựng những cơ hội mà từ đ
n nhượng
quyền có thể thực hiện hành vi đi ngược lại với
lợi ích của cạnh tranh. Như vậy, từ g c độ Luật
Thương mại, đ y là hành vi được ghi nhận, đáp
ứng những yêu cầu phát sinh từ bản chất của
hoạt động nhượng quyền. Từ góc độ Luật Cạnh
tranh, hành vi này phá vỡ tính cạnh tranh của
thị trường, o đ cần kiểm soát, thậm chí ngăn
cấm. Theo luật cạnh tranh 2004, cấm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện
hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt
hại cho khách hàng. Hậu quả gây thiệt hại cho
khách hàng chỉ là suy đoán, o đ , chỉ cần
doanh nghiệp nhượng quyền thực hiện hành vi
áp đặt giá bán lại tối thiểu cho bên nhận quyền
đ đủ các yếu tố cấu thành vi phạm. Nếu bên
nhượng quyền vi phạm quy định này, h có thể
bị cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức phạt tối đa

là 10% tổng doanh thu của n nhượng quyền
trong năm tài chính trước năm thực hiện hành
vi vi phạm. Ngoài ra, n nhượng quyền cũng
phải loại b những yêu cầu trái luật trong việc
ấn định giá bán lại tối thiểu nếu trong hợp
đồng nhượng quyền c quy định (Khoản 1
Điều 117, Khoản 1 Điều 118 và Khoản 3(d)
Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004). Như vậy, nếu
n nhượng quyền có vị trí thống lĩnh thị
trường thì khi th a thuận các vấn đề liên quan
đến giá bán sản phẩm, hàng hóa trong hệ thống
nhượng quyền với bên nhận quyền, bên
nhượng quyền cần hết sức thận tr ng để tránh
vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.
Hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận
các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
25


Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

tượng của hợp đồng. Theo Khoản 2, Điều 30,
Nghị định 116/2005/NĐ-CP, hành vi buộc bên
nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
được hiểu là hành vi của n nhượng quyền,
theo đ ,
n nhượng quyền buộc bên nhận
quyền ngoài việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ
là đối tượng của hợp đồng, bên nhận quyền

còn phải mua hàng hóa, dịch vụ khác từ bên
nhượng quyền hoặc từ nhà cung cấp hác được
n nhượng quyền chỉ định trước hoặc thực
hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài
phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Xét
từ g c độ pháp luật hợp đồng, các bên trong
quan hệ phải là các chủ thể pháp lý độc lập,
nh đẳng. Do đ , ngoài phạm vi quyền và
nghĩa vụ liên quan trực tiếp hoặc thuộc phạm
vi cần thiết để thực hiện hợp đồng, bên nhận
quyền hoàn toàn có quyền tự do trong việc lựa
ch n các đối tác và nhà cung cấp khác, việc
n nhượng quyền buộc bên nhận quyền phải
mua hàng hóa, dịch vụ khác từ n nhượng
quyền hoặc từ nhà cung cấp hác được bên
nhượng quyền chỉ định trước hoặc thực hiện
thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài
phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng là
hành vi đi ngược lại với nguyên tắc tự do, bình
đẳng trong quan hệ hợp đồng. Từ g c độ quan
hệ NQTM, hành vi này của n nhượng quyền
lại là phổ biến và đươc coi là cần thiết để bên
nhượng quyền có thể thực hiện được việc giám
sát và đảm bảo sự đồng bộ về chất lượng của
hàng hóa, dịch vụ và uy tín của toàn hệ thống.
Tuy nhiên, trên thực tế, n nhượng quyền rất
có khả năng lấy lý o để đảm bảo tính đồng bộ
của hệ thống mà vượt qua ranh giới của sự cần
thiết để đưa ra những ràng buộc đối với bên
nhận quyền nhằm thực hiện các mục đích hác.

Chẳng hạn cố t nh đặt điều kiện để bên nhận
quyền phải mua hành hóa, dịch vụ của một nhà
cung ứng nhất định để được hưởng hoa hồng từ
nhà cung ứng đ (trong khi các nhà cung ứng
khác vẫn đáp ứng được điều kiện mà giá thành
rẻ hơn), thậm chí buộc bên nhận quyền mua
những sản phẩm, dịch vụ không trực tiếp tạo ra
sản phẩm đặc trưng của hệ thống, không thực
sự ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ
thống…. Nh n nhận từ g c độ pháp luật cạnh
tranh, hành vi này của
n nhượng quyền
chính là hành vi bán kèm, là hành vi lạm dụng
mang tính trục lợi, làm hạn chế cơ hội cạnh
tranh của các doanh nghiệp cung ứng khác
cùng kinh doanh sản phẩm mà
n nhượng
quyền buộc bên nhận quyền phải mua từ một
26

nhà cung ứng nhất định. Theo quy định tại
Khoản 5, Điều 13 và Khoản 1, Điều 14, Luật
Cạnh tranh 2004, hành vi này sẽ bị coi là vi
phạm pháp luật cạnh tranh nếu
n nhượng
quyền đạt ngưỡng thị phần từ 30% trên thị
trường liên quan. Quy định này c nghĩa là,
việc buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp
đồng không bị cấm trong m i trường hợp.

Hành vi này chỉ bị cấm hi n nhượng quyền
đạt vị trí thống lĩnh tr n thị trường (30% thị
phần), với vị trí đ , hành vi tr n của bên
nhượng quyền có thể gây ảnh hưởng nghiêm
tr ng đến cạnh tranh trên thị trường. Theo quy
định tại Khoản 5, Điều 13 Luật Cạnh tranh
2004 và Khoản 2, Điều 30 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP, hành vi bán kèm của bên
nhượng quyền sẽ vi phạm và bị cấm nếu sản
phẩm được bán kèm “không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng” hay “nằm
ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp
đồng”. Tuy nhiên, việc pháp luật hiện chưa c
quy định cụ thể để giải thích thế nào là sản
phẩm, dịch vụ “không liên quan trực tiếp đến
đối tượng của hợp đồng” và “nằm ngoài phạm
vi cần thiết để thực hiện hợp đồng” n n chưa
cơ sở chung và rất h hăn để xác định hành
vi của n nhượng quyền là lạm dụng hay là
cần thiết.

3. Kết luận và gợi mở
Quan hệ NQTM với những đặc thù riêng,
đặc biệt là về tính thống nhất và đồng bộ của
cả hệ thống đ tạo ra những điều khoản mang
tính ràng buộc cao của bên nhận quyền đối với
những yêu cầu o n nhượng quyền đặt ra.
Những điều khoản được đặt ra có khi thực sự
xuất phát từ nhu cầu giám sát chất lượng của
sản phẩm, dịch vụ, đảm bảo tính đồng bộ,

thống nhất và danh tiếng của hệ thống nhượng
quyền, cũng c
hi là sự lạm dụng của bên
nhượng quyền để trục lợi từ bên nhận quyền,
hách hàng. Đặc biệt những điều khoản ràng
buộc về giá hàng hóa, dịch vụ, điều khoản liên
quan đến nguồn cung nguyên liệu, hàng hóa
đều là những điều khoản vô cùng phổ biến
trong các HĐNQTM nhưng lại là những điều
khoản c nguy cơ mang tính lạm dụng và bị
cấm theo quy định của Luật cạnh tranh. Do đ ,
vấn đề đặt ra là làm sao vừa đảm bảo được
quyền cho các bên trong quan hệ NQTM, tạo
điều kiện cho phương thức kinh doanh này
phát triển nhưng đồng thời lại bảo vệ được
cạnh tranh, đảm bảo tôn tr ng các quy định của
luật cạnh tranh.


Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 04 (2017)

Về phía các n trong HĐNQTM, đặc biệt là
hi n nhượng quyền ở vào vị trí thống lĩnh thị
trường hi đặt ra các điều khoản về giá thay vì ấn
định giá th n n đưa ra đề xuất hay khuyến cáo về
giá bán lại đối với bên nhận quyền. Việc đưa ra đề
xuất như vậy không bị coi là vi phạm Luật cạnh
tranh của Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, bên
nhượng quyền chỉ đưa ra đề xuất, khuyến cáo về
giá còn bên nhận quyền vẫn hoàn toàn tự do trong

việc xác định giá bán lại, o đ hông g y hạn chế
cạnh tranh. Đối với điều khoản ràng buộc về
nguồn cung hàng hóa thay vì ấn định nhà cung
cấp, thể hiện rõ ràng sự áp đặt bên nhận quyền
phải chấp nhận việc mua hàng hóa, dịch vụ từ bên
nhượng quyền th trong điều khoản hợp đồng nên
cân nhắc việc đưa ra các điều kiện về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ đầu vào, khuyến cáo bên nhận
quyền mua hàng hóa, dịch vụ từ bên nhận quyền
hay từ bên thứ ba nhất định để đảm bảo điều kiện
đ nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, uy tín
danh tiếng và tính đồng bộ của hệ thống.
Về phía Nhà nước cần cân nhắc việc điều
chỉnh các quy định của Luật cạnh tranh có tính
đến những đặc th trong điều kiện hoạt động
NQTM:
- Cần nghiên cứu xem việc kiểm soát hành
vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong chừng
mực nào là hợp lý? Việc áp đặt nghiêm ngặt
giá từ n nhượng quyền rõ ràng mang tính
hạn chế cạnh tranh nhưng việc đạt được sự
thống nhất về giá cũng c tác động tích cực
đảm bảo sự ổn định, phát triển của hệ thống
nhượng quyền, o đ việc kiểm soát hành vi ấn

định giá bán lại n n theo hướng ghi nhận
những hành vi mang tính đề xuất, khuyến cáo
từ bên nhượng quyền dẫn đến sự thống nhất về
giá trong hệ thống nhượng quyền.
- Đối với các quy định điều chỉnh hành vi buộc

bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
trong quan hệ NQTM ở Việt Nam cần linh hoạt
hơn, tính đến bản chất đặc thù về tính đồng bộ của
hệ thống nhượng quyền. Thay vì cấm tuyệt đối
hành vi buộc bên nhận quyền thực hiện một nghĩa
vụ hông li n quan đến đối tượng của hợp đồng
hi n nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh hoặc vị
thế độc quyền mà cần cân nhắc đến những ngoại
lệ đối với việc điều chỉnh hành vi này trong quan
hệ nhượng quyền. Có thể thừa nhận tính hợp pháp
của hành vi mua buộc bên nhận quyền mua hàng
hóa/nguyên vật liệu nếu th a m n hai điều kiện là
nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống
nhượng quyền và hông ngăn cản khả năng mua
hàng h a tương tự từ bên nhận quyền khác.
Có thể nói, việc kiểm soát ngăn chặn bên
n nhượng quyền thực hiện hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trong
việc áp đặt nghĩa vụ đối với bên nhận quyền là
cần thiết, song các nhà làm luật cũng cần ghi
nhận những ngoại lệ mang tính đặc thù trong
quan hệ NQTM. C như vậy mới giúp hoạt
động nhượng quyền có khả năng phát triển
trong khi vẫn đảm bảo môi trường cạnh tranh
hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bùi Ng c Cường. Hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 103, 8/2007.

[2]. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
[3]. Quốc hội. (2004). Luật cạnh tranh 2004.
[4]. Nguyễn Thị Tình. (2015). Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại
ở Việt Nam hiện nay. Luận án. Trường Đại h c Luật Hà Nội.
[5]. Vũ Đặng Hải Yến. Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tạp
chí nghiên cứu lập pháp điện tử. Http://www.nclp.org.vn/thuc_tien_phap_luat/mot-so-van-111e-phaply-ve-chu-the-cua-hop-111ong-nhuong-quyen-thuong-mai?searchterm=nh%C6%B0%E1%BB%A3ng

Thông tin tác giả:
1. Trần Thùy Linh
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
- Địa chỉ email:
2. Đồng Đức Duy
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD

Ngày nhận bài: 23/11/2017
Ngày nhận bản sửa: 14/12/2017
Ngày duyệt đăng: 15/01/2018

27



×