Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số vấn đề về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.37 KB, 7 trang )

Một số vấn đề về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay
16:44' 9/12/2008
Trong hệ  thống các giá trị  mà nhân loại đã tạo ra, quyền con người có vị  trí 
quan trọng, vừa là mục tiêu, động lực, vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển 
của các giá trị còn lại. Tôn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người  
đã trở thành xu thế  tất yếu mang tính toàn cầu, theo đó, giáo dục quyền con  
người (giáo dục nhân quyền) cũng trở thành yêu cầu bức thiết, mang tính thời  
đại.
Giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ  chức, có mục 
đích của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở 
họ  tri thức về quyền con người để  biết tự  mình bảo vệ  quyền của mình và 
tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các 
chuẩn mực  trong pháp luật quốc tế  và pháp luật quốc gia về  quyền con 
người.
Có thể khẳng định, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã đặt nền 
móng cho hoạt động giáo dục quyền con người trên toàn thế giới. Ngay trong  
lời nói đầu của Tuyên ngôn đã viết: “Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố 
bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền là mục tiêu chung cho tất cả các dân 
tộc và các quốc gia phải phấn đấu đạt tới để  nhằm mục đích cuối cùng là 
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức xã hội, luôn luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn bằng giáo  
dục và giảng dạy sẽ nỗ lực thúc đẩy tôn trọng đối với các quyền và những tự 
do cơ bản”(1).
Việc giáo dục quyền con người được thực hiện ở các cấp độ  khác nhau, với  
nhiều hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, tùy thuộc vào điều kiện 
cụ thể của mỗi quốc gia, và chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Sự khác biệt 
về  điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội dẫn đến mỗi quốc gia có cách  
tiếp cận, phạm vi, mức độ, phương pháp và hình thức giáo dục về quyền con  
người khác nhau.
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến giáo dục quyền con người ở Việt Nam
Thứ nhất, là một nước xã hội chủ nghĩa với chế độ chính trị có một đảng duy 
nhất lãnh đạo, nên Việt Nam luôn là địa chỉ  để  các thế  lực thù địch lợi dụng  


vấn đề dân chủ, nhân quyền, công kích, bôi nhọ, áp đặt các quan điểm chính 
trị phản động, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động các phần tử 


bất mãn tập hợp lực lượng chống phá, hòng lật đổ  chế  độ. Do đó, cần phải 
có quan điểm chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, để một mặt, ngăn chặn các hành vi 
phá hoại; mặt khác, ngăn chặn tâm lý né tránh, coi nhân quyền là vấn đề nhạy  
cảm dẫn đến không chú trọng thúc đẩy giáo dục nhân quyền, và hệ  lụy tất  
yếu của nó là công chúng sẽ  không hiểu đầy đủ  về  bản chất quyền con 
người, về  quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt 
Nam về quyền con người.
Thứ  hai, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về  quyền con người  
cũng có  ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến đối tượng, nội dung, hình thức, 
phương pháp giáo dục quyền con người. Có thể  khẳng định, Đảng và Nhà 
nước Việt Nam luôn “kết hợp tính phổ  biến và tính đặc thù của quyền con 
người   trong   nhận   thức   và   giải   quyết   các   vấn   đề   về   quyền   con   người”;  
“quyền con người có tính giai cấp, đồng thời là một giá trị  nhân loại, quyền  
con người và quyền dân tộc cơ  bản là thống nhất; “quyền con người phụ 
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và truyền thống của dân 
tộc”, “Quyền con người, quyền công dân phải được chế  độ  pháp luật bảo 
vệ”(2). Tuy nhiên, các quan điểm này trên thực tế  vẫn chưa được truyền tải 
một cách đầy đủ, rộng rãi, thường xuyên đến mọi đối tượng trong xã hội, do 
giáo dục quyền con người vẫn chưa được chú trọng đầy đủ, chưa được mở 
rộng cả về đối tượng, phạm vi, cấp độ giáo dục.
Thứ ba, yếu tố lịch sử ­ văn hoá cũng tác động không nhỏ đến giáo dục quyền  
con người  ở  Việt Nam. Các phong tục, tập quán lạc hậu, những quan niệm  
về đạo đức, lễ giáo phong kiến còn mang đậm dấu ấn và ảnh hưởng lâu dài 
trong đời sống của nhân dân Việt Nam, có tác động sâu sắc đến nhận thức về 
quyền con người và giáo dục về quyền con người, trong đó có giáo dục về tư 
tưởng bình quyền, bình đẳng giới.

Thứ tư, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đặt ra yêu cầu 
cấp bách phải tăng cường công tác giáo dục quyền con người. Vì, cùng với 
giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác, giáo dục quyền con người trực 
tiếp góp phần tạo ra các nội dung, giá trị của Nhà nước pháp quyền, đảm bảo 
cho Nhà nước pháp quyền Việt Nam hình thành trong thực tiễn. Thực hiện tốt 
giáo dục quyền con người còn giúp cho quá trình này được rút ngắn và đi  
đúng hướng, tránh được những lệch lạc, phiến diện trong việc xây dựng Nhà 
nước pháp quyền Việt Nam.


Thứ  năm, trong xu thế  hội nhập và phát triển hiện nay, khi khoa học công 
nghệ  đang phát triển mạnh mẽ, bên cạnh mặt tích cực, còn nhiều tác động 
tiêu cực như sự phức tạp, nhiễu loạn của thông tin đa chiều, đặc biệt là các 
thông tin liên quan đến quyền con người dẫn đến sự chệch hướng trong nhận  
thức về  quyền con người của một bộ phận không nhỏ  công chúng, đặc biệt  
là giới trẻ dễ bị ảnh hưởng của thiên hướng đề  cao chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, 
thoát ly môi trường xã hội, chỉ muốn hưởng thụ, mà không biết cống hiến.

Như  vậy, việc nhận diện đầy đủ  các yếu tố  tác động đến giáo dục quyền  
con người để có định hướng, quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng và thực  
hiện một chiến lược tổng thể về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện  
nay, góp phần quan trọng thúc đẩy việc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi 
ích hợp pháp, chính đáng của mọi công dân.
2. Thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt Nam
Việt Nam  đã  đạt  được những thành tựu đáng kể  trong lĩnh vực giáo dục 
quyền con người, quyền công dân; đặc biệt là việc giáo dục quyền trẻ  em  
theo nội dung Công  ước Liên hợp quốc về  quyền trẻ  em (CRC), giáo dục  
quyền phụ nữ theo nội dung công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình 
thức phân biệt đối xử phụ nữ.
Đảng, Nhà nước đã đề  ra chủ  trương, chính sách và có sự  quan tâm chỉ  đạo  

thực hiện hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, 
đặc biệt là sự  quan tâm chỉ  đạo trong các hoạt động giáo dục quyền trẻ  em, 
quyền phụ nữ. Sự quan tâm chỉ đạo này của Đảng, Nhà nước thể hiện cụ thể 
trong việc thành lập các cơ quan chuyên trách nhà nước về nghiên cứu quyền 
con người, các cơ quan chuyên trách về quyền phụ nữ, quyền trẻ em; đào tạo 
đội ngũ cốt cán về vấn đề này; chỉ đạo xây dựng các chương trình hành động  
quốc gia về  quyền phụ  nữ, quyền trẻ  em. Những kết quả   đạt được trong 
việc giáo dục quyền phụ  nữ, quyền trẻ  em  ở  Việt Nam đã mang đến cách  
nhìn mới của thế  giới và khu vực đối với Việt Nam, từ  đó tạo ra khả  năng 
thuận lợi hơn cho Việt Nam trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam trong thời 
gian qua đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức về giá trị của hoạt động này 
trong việc hình thành nhân cách người Việt Nam trong chủ nghĩa xã hội, và sự 


cần thiết phải tăng cường các hoạt động này trong thời gian tới. Đồng thời,  
việc giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng làm tăng nhu cầu xây 
dựng hệ  thống pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của công  ước 
quốc tế về quyền con người.
Bên cạnh những thành tựu đạt dược, giáo dục quyền con người, quyền công  
dân ở nước ta trong thời gian qua cũng bộc lộ và phát sinh những tồn tại sau:
Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập 10 điều ước quốc tế về nhân quyền và 
nhiều công  ước do Tổ  chức lao động quốc tế  (ILO) thông qua. Tuy nhiên, 
trong thực tế Việt Nam mới chỉ tập trung giáo dục, tuyên truyền, phổ biến hai  
công  ước là: "Công  ước quốc tế  về  xóa bỏ  mọi hình thức phân biệt đối xử 
với phụ  nữ" (công  ước CEDAW) và Công  ước Liên hợp quốc về  quyền trẻ 
em (công ước CRC). Nhưng ngay cả trong giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ 
em dù đã có rất nhiều cố  gắng như  vậy, thì vẫn còn những tồn tại. Chẳng 
hạn, việc giáo dục quyền phụ  nữ  mới chủ  yếu dừng lại  ở cán bộ  làm công  
tác quản lý, hội đoàn và một số  vùng có điều kiện thuận lợi, mà chưa được 

thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội, nhất là đối với phụ  nữ ở vùng sâu,  
vùng xa và phụ  nữ  dân tộc thiểu số. Việc tuyên truyền, giáo dục, chủ  yếu 
được thực hiện theo từng đợt, thiếu tính thường xuyên, liên tục.
Ở  một số  cơ quan chức năng, một bộ  phận cán bộ  còn mang nặng ý thức ỷ 
lại, trông chờ  vào sự  hỗ  trợ  kinh phí từ  bên ngoài, chưa tích cực chủ  động,  
chưa có sự  quan tâm đúng mức, chưa phối hợp chặt chẽ, chủ động để  thực  
hiện tốt các hoạt động tuyên truyền giáo dục quyền phụ  nữ, quyền trẻ  em 
theo mục tiêu mà các kế hoạch hành động quốc gia đã đề ra.
Giáo dục quyền công dân tuy đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật 
nhưng trên thực tế, việc triển khai chưa được thực hiện một cách đầy đủ,  
rộng rãi và thường xuyên; chưa gắn kết với nhau.
Hệ  thống các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò hết sức quan trọng 
trong hoạt động giáo dục quyền con người, nhưng còn khá thụ  động. Các 
nguồn lực dành cho công tác giáo dục quyền con người chưa được thoả đáng, 
do vậy, hoạt động này còn bị hạn chế về kết quả.
3. Một số  giải pháp thúc đẩy giáo dục quyền con người  ở  Việt Nam  
hiện nay


Một là, biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối 
tượng giáo dục cụ thể.
Hiện nay, chúng ta chưa có giáo trình chung, thống nhất; chưa có đầy đủ  tài 
liệu cho việc giáo dục quyền con người, quyền công dân theo từng nhóm đối 
tượng. Vì thế, rất cần phải xây dựng các tài liệu giáo dục quyền con người,  
quyền công dân cho từng nhóm chủ  thể, từng nhóm đối tượng giáo dục cụ 
thể, trên cơ sở tính hệ thống, tính liên thông của tài liệu và đảm bảo gắn kết  
cả nội dung giáo dục quyền con người và nội dung giáo dục quyền công dân.
Hai là, đưa chương trình giáo dục quyền con người, quyền công dân vào hệ 
thống giáo dục nhà nước
Việc này vừa đảm bảo tính thống nhất, tính liên thông của chương trình, vừa 

đảm bảo tính chủ  động, thường xuyên, liên tục, rộng khắp trong cả  nước,  
tránh tình trạng phụ  thuộc vào các dự  án, nguồn tài chính..., đồng thời đảm  
bảo trách nhiệm của cả  chủ  thể  và đối tượng tham gia hoạt động giáo dục  
này. Khi đưa dạng giáo dục này vào giảng dạy chính thức, nội dung của nó có 
thể được lồng ghép, tích hợp trong nội dung giảng dạy của các môn học khác 
có liên quan như  giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục chính trị  tư 
tưởng, giáo dục pháp luật...Chẳng hạn, có thể  xem xét, tổ  chức lại thời gian 
và nội dung môn học Giáo dục công dân, chuyển thành bộ  môn Giáo dục 
quyền con người, quyền công dân. Đưa môn học này vào chương trình chính  
khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông; hệ đại học. Đưa môn học 
quyền con người vào một số trường đại học có các bậc hệ đào tạo chuyên và  
không chuyên luật.
Đối với hệ  đào tạo cán bộ, quản lý thuộc Học viện Chính trị  ­ Hành chính 
quốc gia Hồ Chí Minh, cần tổ chức và biên soạn lại tập bài giảng về  quyền 
con người, đảm bảo truyền tải không những quan điểm của các nhà kinh điển 
của chủ  nghĩa Mác ­ Lê­nin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, quan điểm của Đảng,  
Nhà nước ta về  quyền con người mà còn cung cấp phương pháp luận; các 
quan điểm khác nhau về  nhân quyền trong lịch sử  và đương đại; các chuẩn  
mực nhân quyền quốc tế  trong sự  đối chiếu, so sánh rất cụ  thể  với các quy 
định pháp luật của Nhà nước ta. Trên cơ  sở  đó, giúp học viên nắm được 
những  điểm  tiến bộ, sự  phù hợp của pháp luật Việt Nam về  quyền con  
người với pháp luật quốc tế.


Ba là, xác định đúng các hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với từng  
đối tượng
Xây dựng các hình thức, phương pháp giáo dục riêng, thích hợp với điều kiện,  
khả năng của từng đối tượng giúp việc truyền tải nội dung giáo dục một cách  
sinh động, phù hợp, dễ  hiểu, dễ  nhớ, dễ  áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc  
sống. Đối với dân tộc thiểu số, cần dịch nội dung giáo dục sang tiếng dân 

tộc. Dân tộc có chữ viết thì thực hiện cả dịch viết và dịch nói, dân tộc không  
có chữ viết thì diễn giải nội dung giáo dục bằng chính ngôn ngữ của họ. Đội 
ngũ tuyên truyền, giáo dục cho dân tộc thiểu số  chính là những già làng, 
trưởng bản, những cán bộ  người dân tộc đã được đào tạo trở  thành cốt cán.  
Hình thức giáo dục có thể thông qua các hoạt động văn hóa của làng, xã, bằng  
tranh  ảnh, panô, áp phích, tờ rơi, đài truyền thanh, đài phát thanh truyền hình, 
phim và các loại hình nghệ thuật khác.
Bốn là, đào tạo đội ngũ cốt cán, giáo viên chuyên trách
Đây là điều kiện bắt buộc để  có thể  đưa nội dung giáo dục về  quyền con  
người vào giảng dạy chính thức trong hệ thống giáo dục. Trước mắt, có thể 
đào tạo giáo viên chuyên trách từ đội ngũ giáo viên đang dạy các môn có liên 
quan và đây sẽ là những giáo viên chuyên trách cho cả môn học này chứ không 
chỉ tạm thời, kiêm nhiệm. Đội ngũ giáo viên này phải được đào tạo ở tất cả 
các cấp, các hệ  thống trường học trong hệ  thống giáo dục nhà nước. Giáo 
dục về quyền con người có mối quan hệ mật thiết với giáo dục chính trị, tư 
tưởng, giáo dục pháp luật, do đó, về  chiến lược có thể  đào tạo đội ngũ giáo 
viên chuyên trách từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các trường luật, chính trị.
Năm là, tăng cường hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện  
thông tin đại chúng
Để hỗ  trợ cho các hình thức, phương pháp giáo dục, cần tăng cường đầu tư,  
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về  quyền con người,  
quyền công dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhà nước cần có 
chính sách đầu tư  nguồn lực, kỹ  thuật thích hợp cho các cơ  quan thông tin  
tuyên truyền, đặc biệt là các cơ  quan phát thanh, truyền hình, báo chí để  các  
cơ quan này có điều kiện thuận lợi thực hiện hoạt động của mình. Đồng thời,  
các cơ  quan thông tin đại chúng cần coi hoạt động tuyên truyền, giáo dục 
quyền con người là trách nhiệm, nghĩa vụ  của mình, từ  đó xây dựng các 


chuyên mục, chương trình thường xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động 

này.
Sáu là, bảo đảm các điều kiện kinh phí, vật chất phục vụ hoạt động giáo dục 
quyền con người quyền công dân
Để  tạo ra được nguồn lực cần thiết đáp  ứng được yêu cầu, nhiệm vụ  của  
hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân trong thời gian tới, 
hằng năm, Nhà nước cần có kế hoạch phân bổ một khoản kinh phí thích ứng 
cho hoạt động tuyên truyền giáo dục, hội thảo khoa học về quyền con người.
Giáo dục quyền con người  ở  Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý  
nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp giáo dục ­ đào tạo thế hệ trẻ; đối với sự 
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa; là cơ  sở  để  quần 
chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền con người, củng cố 
niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước; chống lại những hoạt 
động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền" của một số  nước phương Tây và các 
thế lực phản động, thù địch chống phá công cuộc xây dựng chủ  nghĩa xã hội 
ở Việt Nam./.  
(1) Các Văn kiện quốc tế  về  Quyền con người, Nxb CTQG, H, 1998, tr. 63.  
(2) Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người, Giáo trình Lý luận về quyền con 
người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, H, 2002, tr. 242 – 255.
Nguyễn Thị Báo



×