Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

luận văn thạc sĩ phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.48 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH ĐẶC THÙ
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH ĐẶC THÙ
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG TỈNH QUẢNG NINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60340410
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ BÍCH HẰNG

HÀ NỘI, NĂM 2018




3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi, được thực hiện trên cơ sở lý thuyết, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tế
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Bích Hằng. Các số liệu, kết quả nghiên cứu
nêu trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan,
khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền


4

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo,
đặc biệt là người hướng dẫn khoa học TS. Trần Thị Bích Hằng đã hướng dẫn,
chỉ bảo, giúp đỡ nhiệt tình tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô khoa Sau đại học cùng tất cả các
thầy cô giáo của Trường Đại học Thương Mại đã giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập cũng như quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi xin dành lời cảm ơn tới Sở Du lịch Quảng Ninh đã tạo điều kiện trong
quá trình nghiên cứu và cung cấp các thông tin, số liệu để tôi có thể hoàn thành
luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Huyền

MỤC LỤC


5

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động du lịch của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2013 – 2017
Bảng 2.2: Tổng hợp các thông tin KDL đến Quảng Ninh
Bảng 2.3: Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch của Quảng Ninh
Bảng 2.4: Hệ thống cơ sở lưu trú của Quảng Ninh theo xếp hạng năm 2017
Bảng 2.5: Tình hình nhân lực du lịch tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2013- 2017
Bảng 2.6: Tiêu chí đánh giá các SPDL bền vững tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.7: Một số chỉ tiêu về kinh tế phát triển bền vững SPDL đặc thù tỉnh Quảng
Ninh
Bảng 3.1: Mục tiêu phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2020-2030


6

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 2.1: Đánh giá của chuyên gia về công tác nghiên cứu thị trường khách mục
tiêu
Hình 2.2: Đánh giá của KDL và chuyên gia về công tác tuyên truyền, quảng bá
hình ảnh điểm đến và giá trị TNDL đặc thù giai đoạn 2013-2017
Hình 2.3: Kết quả đánh giá của KDL và chuyên gia về thực trạng phát triển bền
vững về văn hóa xã hội các SPDL đặc thù tỉnh Quảng Ninh
Hình 2.4: Kết quả đánh giá của KDL và chuyên gia về thực trạng phát triển bền
vững về môi trường của các SPDL đặc thù tỉnh Quảng

Ninh...................................57


7

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
ASEAN
CLDV
DLBV
DNDL
DNLH
DVDL
ĐVT
GDP
HĐKD
HĐND
KDDL
KDL
KT-XH
NCC
NXB
PTBV
QLNN
SPDL
TNDL
TNTN
TNNV
VH-XH


Nghĩa của từ viết tắt
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asian Nations)
Chất lượng dịch vụ
Du lịch bền vững
Doanh nghiệp du lịch
Doanh nghiệp lữ hành
Dịch vụ du lịch
Đơn vị tính
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
Hoạt động kinh doanh
Hội đồng nhân dân
Kinh doanh du lịch
Khách du lịch
Kinh tế - xã hội
Nhà cung cấp
Nhà xuất bản
Phát triển bền vững
Quản lý Nhà nước
Sản phẩm du lịch
Tài nguyên du lịch
Tài nguyên tự nhiên
Tài nguyên nhân văn
Văn hóa – xã hội


8

VHTTDL
UBND

UNESCO
UNWTO

Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Ủy ban nhân dân
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
(United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization)
Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hiệp quốc
(World Tourism Oganization)


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, du lịch được coi là ngành công nghiệp không khói và là ngành
kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Tổ
chức Du lịch Thế giới (UNWTO) (2010), du lịch đang ngày càng trở thành công cụ
hiệu quả trong cuộc chiến chống đói nghèo trên thế giới do khả năng tạo ra nhiều
việc làm và nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều quốc gia.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành du lịch đã đóng góp vào tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) khá cao (năm 2016 là 7%, năm 2017 là 7,5%) và dự kiến
năm 2018 đạt 8-8,2%. Bên cạnh đó, ngành du lịch cũng tạo ra tỷ lệ việc làm khá lớn
cho xã hội, góp phần không nhỏ trong việc hạn chế tỷ lệ thất nghiệp, tạo điều kiện
sống tốt hơn cho người dân khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra,
ngành du lịch nước ta còn thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển như ngành
hàng tiêu dùng, ngành thủ công truyền thống, ngành nông nghiệp,… Đây là lý do
mà ngành du lịch nước ta đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mục tiêu chiến
lược đến năm 2020 phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên, để phấn đấu đạt mục tiêu nêu trên và ngày càng khẳng định được
vị trí quan trọng của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Chính phủ

phải có sự chỉ đạo quyết liệt, thông suốt; tạo đầu mối phối hợp liên ngành, từ Trung
ương đến địa phương; có sự hỗ trợ thiết thực để ngành du lịch có thể huy động tổng
lực khai thác tối ưu tài nguyên du lịch (TNDL), nâng cao năng lực cạnh tranh thu
hút khách. Trong đó, việc phát triển sản phẩm du lịch (SPDL) đặc thù theo hướng
bền vững trên cơ sở tận dụng và phát huy tốt các TNDL đặc sắc, độc đáo có ý nghĩa
rất quan trọng. Bởi lẽ, SPDL đặc thù sẽ tạo ra màu sắc riêng, không bị “đồng phục”,
khó “sao chép” và là yếu tố rất hấp dẫn khách hàng. Hơn thế, việc phát triển các
SPDL đặc thù theo hướng bền vững còn đảm bảo vừa khai thác, vừa gìn giữ và bảo
vệ tài nguyên, môi trường, đồng thời mang lại các giá trị kinh tế, văn hóa – xã hội
(VH-XH) cả trước mắt lẫn lâu dài. Đây là vấn đề mà bất cứ nền kinh tế nào cũng
phải quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Là điểm du lịch trọng điểm của Việt Nam và có tầm ảnh hưởng ở khu vực
Đông Nam Á, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều tiềm năng và thế mạnh nổi trội để phát
triển SPDL quy mô lớn, chất lượng cao, trở thành trung tâm du lịch quốc tế. Những
năm gần đây, ngành “công nghiệp không khói” của Quảng Ninh đã có những bước
chuyển mình mạnh mẽ. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng dịch vụ (CLDV), cải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


10
thiện môi trường kinh doanh, ngành Du lịch Quảng Ninh đang nỗ lực nhằm đa dạng
và đặc thù hóa SPDL. Đây chính là một trong những mục tiêu và cũng là động lực
quan trọng để du lịch Quảng Ninh phát triển bền vững (PTBV) trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua Quảng Ninh đã xây dựng và phát triển được
một số SPDL đặc thù như du lịch biển đảo, du lịch tâm linh nhưng mới chỉ gắn với
một số địa điểm du lịch nổi tiếng (vịnh Hạ Long, chùa Yên Tử) nên dễ gây nhàm
chán đối với du khách và khó có thể thu hút KDL quay trở lại.

Để tiếp tục thu hút khách, một trong những yếu tố không thể thiếu được của
Quảng Ninh là cần xây dựng thêm những SPDL mới độc đáo, mang những nét đặc
trưng riêng có của địa phương. Thực tế, với những TNDL đặc sắc nêu trên cùng
nhiều TNDL hấp dẫn khác (đảo Cô Tô, Quan Lạn, bãi Trà Cổ, làng chài Cửa Vạn,
…), Quảng Ninh hoàn toàn có thể phát triển các SPDL đặc thù khác như: du lịch
nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái... Đây là những SPDL có thể giúp Quảng Ninh PTBV
trong thời gian tới.
Xuất phát từ những căn cứ ở trên và dựa trên địa hướng phát triển của ngành
du lịch tỉnh Quảng Ninh, tác giả mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển
sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận
văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Bàn đến phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững đã được nhiều tác giả
đề cập tới, trong đó có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
Các nghiên cứu liên quan đến phát triển du lịch bền vững (DLBV)
Bài báo khoa học Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển DLBV ở Việt Nam
của Phạm Trung Lương (2002) đã tiếp cận khoa học các vấn đề về phát triển DLBV.
Cụ thể, bài viết đã tổng quan và hệ thống hóa một số nội dung lý luận về phát triển
DLBV như khái niệm, những nguyên tắc cơ bản, dấu hiệu nhận biết, mô hình lý
thuyết về phát triển DLBV; phân tích một số mô hình và kinh nghiệm quốc tế. Trên
cơ sở đó, bài viết đã tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng phát triển du lịch
Việt Nam với các số liệu nghiên cứu từ năm 1992-2002, xác định một số vấn đề cơ
bản liên quan đến phát triển DLBV đối với Việt Nam và đề xuất một số giải pháp
chính sách và thực tiễn cho phát triển DLBV ở Việt Nam.
Valeriu và Elena-Manuela (2007), Cultural tourism and sustainable
development, Romanian Journal of Economic Forecasting. Trong bài viết này, các
tác giả tập trung phân tích những tác động ảnh hưởng của các loại hình du lịch văn
hóa đối với sự phát triển của một vùng, miền, khu vực kinh tế, xã hội. Những tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư


http://www. lrc-tnu.edu.vn/


11
động, ảnh hưởng đó theo hướng tích cực hay hạn chế, đóng góp ở mức độ nào cho
sự PTBV của một vùng, miền, khu vực tùy thuộc vào việc loại hình du lịch văn hóa
cụ thể có được tổ chức tốt và được quản lý khoa học, cân đối giữa khai thác và bảo
tồn giá trị văn hóa, phát huy được yếu tố tích cực của giá trị văn hóa và huy động
được sự tham gia tích cực của cộng đồng trong các hoạt động du lịch hay không.
Khi các khía cạnh bền vững được thể hiện trong du lịch văn hóa thì sự đóng góp của
du lịch văn hóa đó cho sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương mang tính bền
vững.
Các nghiên cứu liên quan đến SPDL và phát triển SPDL đặc thù
Các tác giả Nguyễn Văn Lưu (1998) trong cuốn Thị trường du lịch; Bùi
Xuân Nhàn (2009), Marketing du lịch; V. Seaton, M. M. Bennett (2004), Marketing
Tourism Products: Concepts, issues, cases, international; Nicole Haeusler (2016),
Training “Regional Product Development “Support to Initiative of ASEAN
intergration” in the Tourism Sector in Vietnam” đều bàn đều khái niệm về SPDL,
các yếu tố cấu thành SPDL, đặc điểm SPDL,… Bên cạnh đó, Nicole Haeusler còn
đề cập đến chính sách và những vấn đề căn bản của phát triển SPDL, bao gồm: các
chính sách chủ yếu trong phát triển SPDL (nên làm gì để phát triển SPDL, yêu cầu
của một điểm đến du lịch, chuỗi giá trị du lịch); các vấn đề căn bản của phát triển
SPDL (3 yếu tố cần thiết để phát triển SPDL hiệu quả, vai trò của Nhà nước trong
phát triển SPDL),…
Tổng cục Du lịch (2016) trong Báo cáo xây dựng SPDL đặc thù vùng Tây
Nguyên (dự thảo) và Tổng cục Du lịch – Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2015)
trong Kỷ yếu Hội thảo “Xây dựng SPDL đặc thù vùng Đồng bằng sông Hồng” đã
khái lược về khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu và nguyên tắc của SPDL đặc thù;
đã có những gợi ý về xây dựng SPDL đặc thù cho vùng Tây Nguyên và vùng Đồng

bằng sông Hồng.
Bên cạnh đó, nhiều luận văn thạc sĩ cũng đã nghiên cứu phát triển SPDL đặc
thù. Chẳng hạn, Trần Thị Yến Anh (2012), Phát triển SPDL đặc thù cho thị trường
KDL Pháp. Trong đề tài đã tổng hợp những vấn đề lý luận cơ bản về SPDL; liên hệ
thực tế với SPDL của thủ đô, nghiên cứu đánh giá hệ thống SPDL của Hà Nội, đánh
giá các điểm mạnh, điểm yếu cũng như nghiên cứu nhu cầu thị trường khác du lịch
Pháp. Từ đó định hướng xây dựng các SPDL đặc thù của Hà Nội cho thị trường
KDL Pháp cũng như đề xuất các giải pháp nhằm thu hút và kéo dài thời gian lưu trú
của du khách Pháp.
Phạm Thị Nhạn (2015), Nghiên cứu SPDL đặc tỉnh Thái Nguyên. Đề tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


12
nghiên cứu, đánh giá thực trạng hệ thống SPDL đặc thù của Thái Nguyên; Từ đó đề
xuất một số SPDL đặc thù cho phát triển ngành du lịch ở Thái Nguyên bao gồm: Du
lịch văn hóa, du lịch tâm linh...
Nguyễn Văn Chất, Dương Đức Minh (2015), Xây dựng SPDL đặc thù cho
khu vực phía nam tỉnh Lâm Đồng; Lê Minh Dũng (2013), Nghiên cứu SPDL đặc
thù của tỉnh Hậu Giang đã xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng SPDL đặc thù;
từ đó nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng SPDL đặc thù cho Lâm
Đồng và Hậu Giang.
Các nghiên cứu liên quan đến du lịch Quảng Ninh
Nguyễn Thị Lan Hương (2010), Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng
bền vững tại huyện đảo Vân Đồn – tỉnh Quảng Ninh. Nghiên cứu đã lựa chọn Vân
Đồn để khảo sát và đề xuất giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững tại
huyện đảo Vân Đồn.

Đinh Thị Thùy Liên (2016), Quản lí Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Đề tài luận văn thạc sĩ này đã nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến nội dung QLNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trong đó có nội dung phát triển
SPDL.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trước đây đã xây dựng và phát triển
được cơ sở lý luận về phát triển du lịch đặc thù gắn với các địa phương nhằm PTBV
ngành du lịch. Các nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh, vai trò tầm quan trọng cũng như
các nội dung trong phát triển du lịch đặc thù. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới
chỉ tập trung nghiên cứu về xây dựng các loại sản phẩm đặc thù tùy theo bối cảnh,
đặc thù của từng địa phương, mà chưa chuyên sâu vào nội dung và tiêu chí phát
triển các SPDL đặc thù theo hướng bền vững. Đây cũng chính là khoảng trống
nghiên cứu sẽ được đề tài kế thừa các vấn đề lý luận trước đây để hình thành, phát
triển các lý luận và vận dụng nghiên cứu thực tiễn nội dung và tiêu chí phát triển
SPDL đặc thù theo hướng bền vững của tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đề xuất được một số giải pháp và kiến nghị
chủ yếu để phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững cho ngành du lịch tỉnh
Quảng Ninh.
Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần giải quyết được 3
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về phát triển SPDL
đặc thù theo hướng bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


13
- Khảo sát và đánh giá thực trạng phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền

vững tỉnh Quảng Ninh; nhận định những thành công, hạn chế và nguyên nhân của
những thành công, hạn chế trong phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững.
- Nhận dạng các quan điểm và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính
khả thi nhằm phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững của tỉnh Quảng Ninh
trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Về nội dung nghiên cứu: đề tài giới hạn nghiên cứu nội dung phát triển
SPDL theo hướng bền vững (với 3 nhóm nội dung: phát triển nhu cầu, phát triển
cung và tạo lập môi trường phát triển SPDL theo hướng bền vững), các tiêu chí
đánh giá phát triển SPDL theo hướng bền vững và các yếu tố ảnh hưởng đến phát
triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững.
- Về không gian nghiên cứu: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: Đề tài giới hạn sử dụng dữ liệu thứ cấp (DLTC) trong giai
đoạn 5 năm trở lại đây (2013 – 2017); thực hiện khảo sát khách du lịch (KDL) và
chuyên gia để thu thập dữ liệu sơ cấp (DLSC) trong tháng 4/2018 và định hướng đề
xuất giải pháp đến 2020, tầm nhìn năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp thu thập dữ liệu
Thu thập DLTC
- Thu thập DLTC là các vấn đề lý luận liên quan đến SPDL, SPDL đặc thù,
phát triển SPDL đặc thù,... từ các sách, tạp chí, luận văn thạc sĩ.
- Thu thập DLTC liên quan đến thực trạng, định hướng phát triển du lịch của
tỉnh Quảng Ninh, phát triển SPDL đặc thù của tỉnh Quảng Ninh từ các trang web,
tạp chí, báo cáo, nghị quyết, quy hoạch của UBND tỉnh, HĐND tỉnh, Sở Du lịch
Quảng Ninh,...
Thu thập DLSC
Việc thu thập DLSC được thực hiện bằng phương pháp: khảo sát KDL và

khảo sát chuyên gia.
- Phương pháp khảo sát KDL:
+ Đối tượng khảo sát: KDL (bao gồm KDL quốc tế và KDL nội địa) đã và
đang thực hiện các chương trình du lịch đến Quảng Ninh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


14
+ Nội dung khảo sát: Nội dung khảo sát KDL thông qua phiếu khảo sát lấy ý
kiến khách hàng. Mẫu khảo sát bao gồm 3 phần. Trong đó, các câu hỏi đánh giá
phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh được thiết kế theo
thang đo 5 khoảng cách với 1 là mức thấp nhất và 5 là mức cao nhất (xem Mẫu
khảo sát ở phụ lục 1).
+ Thời gian khảo sát: Tháng 5 /2018
+ Số lượng phiếu phát ra: 300 phiếu, số phiếu thu về 292 phiếu, trong đó có
286 phiếu (95,33%) có giá trị phân tích.
- Phương pháp khảo sát chuyên gia:
+ Đối tượng khảo sát: cán bộ QLNN về du lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (VHTTDL), Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch Quảng Ninh; nhà quản trị cấp
cao của các DNLH có khai thác các điểm đến du lịch Quảng Ninh trong tour; các
giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng du lịch của Hà Nội và Quảng Ninh;…
+ Nội dung khảo sát: Nội dung khảo sát chuyên gia thông qua phiếu khảo sát
lấy ý kiến chuyên gia. Mẫu khảo sát bao gồm 2 phần. Trong đó, các câu hỏi đánh
giá phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh được thiết kế
theo thang đo 5 khoảng cách với 1 là mức thấp nhất và 5 là mức cao nhất (xem Mẫu
khảo sát ở phụ lục 2)
+ Thời gian khảo sát: Tháng 5 /2018

+ Số lượng phiếu phát ra: 100 phiếu, số phiếu thu về 94 phiếu, trong đó có
94 phiếu (94%) có giá trị phân tích.
Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp thống kê: Đề tài sử dụng phần mềm excel để thống kê và xử
lý các DLSC đã khảo sát KDL và chuyên gia.
- Phương pháp tổng hợp: Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp
các DLTC có liên quan.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh kết quả hoạt động kinh
doanh, các nội dung và tiêu chí phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2013-2017.
- Phương pháp phân tích và đánh giá: Được sử dụng để phân tích DLSC và
DLTC thu được, kết quả so sánh dữ liệu; đánh giá thực trạng phát triển SPDL đặc
thù theo hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa khoa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa về khoa học: đề tài đã góp phần hệ thống hóa và phát triển các lý
luận về SPDL, SPDL đặc thù, phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


15
Ý nghĩa về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài là gợi ý UBND tỉnh Quảng Ninh xây dựng một
số chính sách QLNN nhằm phát triển một số loại hình SPDL sinh thái và biển đảo,
… mang tính đặc thù cho tỉnh Quảng Ninh. Điều này góp phần giúp cho các doanh
nghiệp và các nhà quản lý du lịch đa dạng hóa SPDL và lựa chọn phát triển SPDL
đặc thù.
Đề tài còn là TLTK có ý nghĩa cho các sinh viên và cao học viên khối ngành

du lịch, quản lý kinh tế nghiên cứu và học tập.
7. Kết cấu luận văn
Nội dung chính của đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển SPDL đặc thù
theo hướng bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững tỉnh
Quảng Ninh
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị phát triển SPDL đặc thù theo
hướng bền vững tỉnh Quảng Ninh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


16
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH ĐẶC THÙ
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
1.1. Sản phẩm du lịch và sản phẩm du lịch đặc thù
1.1.1. Sản phẩm du lịch
1.1.1.1. Khái niệm sản phẩm du lịch
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã xuất hiện một số khái
niệm về SPDL. Tuy nhiên, do du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính chất
liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, cho nên khái niệm về SPDL khá trừu tượng
và còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Ở nước ngoài, nổi lên một số khái niệm như sau:
Trong Từ điển Thuật ngữ Du hành và Du lịch của S.Medlik (2004) đưa ra
khái niệm “SPDL, theo nghĩa hẹp, được hiểu là bất kỳ thứ gì du khách mua, theo

nghĩa rộng hơn, đó là một kết hợp giữa những gì du khách làm và những cơ sở giải
trí, tham quan, những phương tiện và dịch vụ mà du khách sử dụng để làm cho nó
thành hiện thực”.
Theo Michael M.Coltman (1998), “SPDL là một tổng thể bao gồm các thành
phần không đồng nhất hữu hình và vô hình tính hữu hình của nó được thể hiện cụ
thể như thức ăn, đồ uống, các sản phẩm lưu niệm... còn tính vô hình của nó được
thể hiện đó là các loại hình DVDL, các dịch vụ bổ trợ khác”.
Robert Christie Mill (2004) lại cho rằng “SPDL có bốn chiều định vị: Điểm
hấp dẫn du lịch; Các CSVCKT du lịch; Vận chuyển du lịch; Lòng hiếu khách”.
Trong khi đó, UNWTO (2001) cho rằng “SPDL là sự tổng hợp của 3 yếu tố
cấu thành: (i) kết cấu hạ tầng du lịch, (ii) TNDL và (iii) cơ sở vật chất kỹ thuật
(CSVCKT), dịch vụ, lao động và quản lý du lịch". Thực tế cho thấy, khái niệm của
UNWTO là “bao trùm" và thể hiện đầy đủ những gì chứa đựng trong một SPDL.
Ở nước ta, SPDL cũng đã được nhiều cá nhân, tổ chức bàn đến:
Theo Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2000), “SPDL tổng thể của một
điểm đến là sự hòa trộn mang tính quy luật của các giá trị tự nhiên và nhân văn, các
giá trị vật thể và phi vật thể chứa đựng trong không gian của một điểm đến. SPDL
tổng thể sẽ đem lại cho du khách những ấn tượng và cảm xúc đặc trưng nhất về một
điểm đến”.
Theo quan điểm marketing, SPDL được hiểu theo nghĩa hẹp, SPDL đơn giản
là những cái du khách mua để phục vụ cho chuyến đi du lịch (dịch vụ vận chuyển,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


17
lưu trú...). Đó là các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp du lịch
(DNDL) hoặc bởi các nhà cung cấp (NCC) dịch vụ có liên quan đến du lịch và

thường được gọi chung là các NCC dịch vụ du lịch (DVDL) (theo Bùi Xuân Nhàn,
2009). Như vậy, sản phẩm của doanh nghiệp lữ hành (DNLH) chính là các chương
trình du lịch được thực hiện (sản phẩm trọn gói). Và khi du khách chỉ mua và sử
dụng một trong các dịch vụ trọn gói thì được gọi là sản phẩm đơn lẻ....
Khái niệm SPDL cũng đã được Luật Du lịch Việt Nam (2017) thống nhất:
“SPDL là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của KDL trong chuyến
đi du lịch”. Theo khái niệm này, SPDL đơn thuần chỉ là các hoạt động DVDL như:
các dịch vụ lữ hành, dịch vụ vận chuyển khách, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ thông tin hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp
ứng nhu cầu của KDL.
Trong các khái niệm nêu trên hầu hết đều xem xét khái niệm SPDL dưới góc
độ các thành phần cấu thành SPDL hoặc các DVDL phục vụ khách trong tour.
Trong phạm vi đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về SPDL của một điểm
đến. Vì vậy, tác giả lựa chọn và sử dụng khái niệm SPDL của Viện Nghiên cứu Phát
triển Du lịch. Điều này cũng có nghĩa, SPDL được xem xét ở phạm vi rộng, cấu
thành không chỉ bởi giá trị TNDL mà còn các DVDL, hình ảnh điểm đến,… mà du
khách được trải nghiệm trọn vẹn trong không gian của điểm đến.
1.1.1.2. Đặc điểm sản phẩm du lịch
SPDL là loại sản phẩm đặc biệt, nó không phải sản phẩm lao động cụ thể
biểu hiện dưới hình thái vật chất mà là sản phẩm vô hình biểu hiện bằng nhiều loại
dịch vụ. Do vậy SPDL chủ yếu có các đặc điểm dưới đây:
- Có tính tổng hợp và đa dạng: SPDL là sự tổng hợp từ nhiều thành phần như
giá trị hấp dẫn của TNDL, các dịch vụ cấu thành trong tour,… Bên cạnh đó, SPDL
có sự đa dạng bởi chính sự đa dạng về điểm đến, loại hình du lịch, các dịch vụ cấu
thành,…
- Có tính vô hình: SPDL về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng
vật thể. Thành phần chính của SPDL là dịch vụ (thường chiếm 80% - 90% về mặt
giá trị), phần vật chất chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Chính vì vậy, SPDL không thể bao gói
và cung cấp đến tay khách hàng.
- Có tính đồng thời: Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các SPDL diễn ra

đồng thời về không gian và thời gian. Do vậy, để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và
tiêu dùng là rất khó khăn. Với đặc tính này, người mua không thể kiểm nghiệm chất
lượng SPDL trước khi quyết định mua và tiêu thụ SPDL. Họ chỉ có thể đánh giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


18
chất lượng chính xác chỉ sau khi đã tiêu dùng sản phẩm. Điều này đặt ra yêu cầu đối
với các NCC SPDL là phải thường xuyên nghiên cứu, tiếp nhận những đánh giá của
khách đối với SPDL. Đấy là nhân tố quan trọng để việc KDDL thành công.
- Có tính không ổn định: SPDL có tính không ổn định về chất lượng, bởi lẽ,
SPDL có tính vô hình, không sản xuất trước được và không thể kiểm định, đánh giá
trước SPDL và loại bỏ những SPDL không đảm bảo trước tiêu dùng. Hơn thế,
SPDL phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, thái độ, tình cảm của nhân viên phục vụ;
vào tâm lý của khách hàng,… Chính vì vậy, SPDL dù có cùng loại hình, cùng điểm
đến nhưng có thể được cảm nhận giá trị khác nhau ở các lần khác nhau, bởi các
khách hàng khác nhau.
- Có tính thời vụ: Tính thời vụ của SPDL được biểu hiện ở những loại hình
du lịch theo thời vụ như: Du lịch nghỉ biển (vào mùa hè); nghỉ núi trượt tuyết (vào
mùa đông). Do vậy, để khắc phục tính thời vụ trong KDDL cần tạo ra nhiều dịch vụ
bổ sung hoặc những giá trị gia tăng khác trong mỗi SPDL.
- Có tính không lưu kho: Là một loại sản phẩm dịch vụ cho nên SPDL có
tính chất không thể dự trữ như sản phẩm vật chất nói chung. Do SPDL không tồn tại
quá trình “sản xuất” độc lập kết quả “sản xuất" lại không biểu hiện bằng hiện vật cụ
thể nên giá trị của nó được chuyển dịch từng bước trong quá trình mỗi lần tiêu thụ
sản phẩm. Tính không thể dự trữ của SPDL cho thấy trong việc sản xuất SPDL và
thực hiện giá trị phải lấy việc mua thực tế của du khách làm tiền đề.

- Là cả quá trình từ khi nhận được yêu cầu của khách hàng đến khi khách
hàng ra về: SPDL thường được tạo ra gắn liền với yếu tố TNDL tại điểm đến và du
khách chỉ có thể sử dụng SPDL khi đã đến trực tiếp điểm đến mà không thể dùng
thử sản phẩm trước khi quyết định mua sản phẩm hoặc trước khi đi du lịch.
1.1.2. Sản phẩm du lịch đặc thù
1.1.2.1. Khái niệm sản phẩm du lịch đặc thù
Xây dựng thương hiệu điểm đến là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển du lịch. Tuy nhiên, để một điểm đến có thương hiệu thì cần phải
có những sản phẩm đặc thù. Mỗi điểm đến cần căn cứ vào tiềm năng, điều kiện cụ
thể của mình để tạo ra những SPDL đặc thù phục vụ cho từng thị trường khách.
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020 đã xác định “Phát triển DLBV, theo định hướng du lịch sinh thái và du
lịch văn hóa - lịch sử, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, góp phần tích cực trong việc
giữ gìn, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng
các SPDL đặc thù, chất lượng góp phần tích cực trong việc giữ gìn, bảo vệ môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


19
trường tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng các SPDL đặc thù,
chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới”. Tuy nhiên, trong
đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2001 - 2010 cùa
Tổng cục Du lịch năm 2011 đã chỉ ra rằng hiện nay chúng ta vẫn chưa có SPDL đặc
thù mà đối với du lịch, sự nổi bật và khác biệt là rất quan trọng. Vậy SPDL đặc thù
là gì?
Theo Phạm Trung Lương (2005), “SPDL đặc thù là những sản phẩm có được
yếu tố hấp dẫn, độc đáo, duy nhất, nguyên bản và đại diện về TNDL (tự nhiên và

nhân văn) cho một lãnh thổ, điểm đến du lịch; với những dịch vụ không chỉ làm
thỏa mãn nhu cầu, mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc
đáo và sáng tạo”.
Tổng cục Du lịch (2016) cũng đưa ra một vài khái niệm:
“SPDL đặc thù là những SPDL được xây dựng dựa trên các giá trị đặc thù
độc đáo (có thể là duy nhất), nguyên bản của TNDL; dựa trên các giá trị đặc sắc,
thành tựu nổi trội của nền kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật… của mỗi điểm đến,
mỗi địa phương, mỗi vùng và mỗi quốc gia với những dịch vụ không chỉ làm thỏa
mãn nhu cầu của KDL mà còn tạo được những ấn tượng bởi tính độc đáo (duy
nhất), sáng tạo… trong lòng du khách.”
“SPDL đặc thù là những sản phẩm có khả năng tạo nên thương hiệu du lịch,
hình ảnh du lịch; tạo nên sự khác biệt giữa điểm du lịch này với điểm du lịch khác
(giữa địa phương này với địa phương khác, giữa vùng này với vùng khác, giữa quốc
gia này với quốc gia khác). Tuy nhiên, tính hấp dẫn của SPDL đặc thù còn phụ
thuộc vào thị hiếu, phù hợp với nhu cầu của từng thị trường khách du lịch; có thể
hấp dẫn với thị trường này, nhưng lại không hấp dẫn với thị thị trường khác.”
Từ những khái niệm nêu trên, điều đầu tiên cần phải khẳng định SPDL đặc
thù trước hết là SPDL của một điểm đến. Như vậy, khi xây dựng SPDL đặc thù thì
ngoài việc phát huy được các giá trị tài nguyên có tính đặc trưng cao nhất còn cần
phải tính đến tính khả thi và thị trường của các sản phẩm này. Bởi có những yếu tố
độc đáo với thị trường này lại chưa độc đáo với thị trường khác, hoặc sản phẩm này
đặc thù nhưng có sức hấp dẫn với thị trường này nhưng chỉ đặc thù chứ không hấp
dẫn với thị trường khác. Do vậy, luôn phải xác định thị trường trọng điểm từ đó mới
xác định các sản phẩm đặc thù cụ thể.
1.1.2.2. Vai trò của sản phẩm du lịch đặc thù
SPDL đặc thù có những vai trò cơ bản sau đây:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/



20
- Tạo sự khác biệt, đặc trưng hóa trong du lịch của điểm đến địa phương,
vùng hay quốc gia
SPDL đặc thù được hình thành từ những TNDL có tính đặc sắc, độc đáo, cho
nên nó có khả năng tránh được “tính độc phục” trên thị trường, tạo nét riêng của
điểm đến. Chính nét riêng đó giúp điểm đến có thể được phân biệt với các điểm đến
khác, dễ được khách hàng nhận biết.
- Góp phần tạo dựng hình ảnh, thương hiệu du lịch của điểm đến, địa phương
vùng hay quốc gia
SPDL đặc thù chứa đựng các giá trị TNDL độc đáo, các DVDL hấp dẫn. Nhờ
vậy, điểm đến, địa phương, vùng hay quốc gia có được hình ảnh đẹp hơn trong mắt
khách hàng, có thương hiệu du lịch mạnh hơn trên thị trường.
- Góp phần tạo lợi thế cạnh tranh, hấp dẫn và thu hút khách cho điểm đến,
địa phương, vùng hay quốc gia
Chính sự khác biệt, độc đáo và đặc sắc của SPDL đặc thù cùng với hình ảnh
đẹp, thương hiệu du lịch mạnh giúp điểm đến, địa phương, vùng hay quốc gia có thể
tạo được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, điểm đến, địa phương, vùng hay
quốc gia đó có khả năng hấp dẫn và thu hút được nhiều khách hàng hơn.
1.1.2.3. Đặc điểm của sản phẩm du lịch đặc thù
SPDL đặc thù có đầy đủ các đặc điểm của SPDL nói chung, ngoài ra SPDL
đặc thù còn có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Được xây dựng và tạo nên từ những TNDL đặc thù của địa phương, vùng
hay quốc gia. Nó được hình thành trên cơ sở khai thác các dạng tài nguyên độc đáo/
đặc thù. Tính độc đáo được đánh giá trong phạm vi so sánh của từng lãnh thổ.
Chính vì vậy, trong phạm vi vùng, có thể có địa phương có dạng tài nguyên độc đáo
so với các địa phương còn lại và tương ứng sẽ là sản phẩm đặc trưng trong vùng,
tuy nhiên cũng loại tài nguyên đó trên bình diện toàn quốc thì lại không có sự khác
biệt và độc đáo so với loại sản phẩm này ở vùng khác.

- Thường có tính độc đáo, đặc sắc: là những sản phẩm được xây dựng dựa
trên giá trị đặc sắc, độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện của TNDL (tự nhiên
và nhân văn) cho một lãnh thổ/ điểm đến du lịch với những dịch vụ không chỉ làm
thỏa mãn nhu cầu/mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc
đáo và sáng tạo.
- Mang tính duy nhất của từng địa phương, vùng hay quốc gia, được xác định
về tính đặc thù có sự đại diện cho địa phương là cấp vùng hay đại diện cho vùng là
cấp quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


21
1.2. Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
1.2.1. Khái niệm phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
Để đưa ra khái niệm phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững, trước hết
cần phải làm rõ các khái niệm “phát triển”, “PTBV” và “phát triển SPDL”.
“Phát triển” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Cụm từ
này đã được giải nghĩa rõ ràng trong nhiều từ điển (Từ điển tiếng Việt, Từ điển Hán
– Việt, Từ điển Oxford,…). Về cơ bản, “phát triển” được hiểu là việc biến đổi từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, là sự gia tăng dần của
một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn. Nói cách khác, “phát triển” là sự
tăng lên cả về lượng và chất.
“PTBV” cũng đã được bàn đến trong nhiều nghiên cứu. Thuật ngữ “PTBV”
xuất hiện lần đầu năm 1980 trong Chiến lược bảo tồn Thế giới (của Hiệp hội Bảo
tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) được hiểu là: “Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn
trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái

học”. Đến năm 1987, khái niệm này đã được phổ biến rộng rãi bởi Báo cáo
Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban
Brundtland) “PTBV là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai...”. Như vậy, PTBV đề cập đến 3 khía cạnh phát triển kinh tế, xã hội và
môi trường cả trước mắt và lâu dài.
“Phát triển SPDL” là thuật ngữ chưa được đề cập rộng rãi. Tuy nhiên, Tiến sĩ
Nicole Haeusler cũng đã chỉ rõ: Việc phát triển SPDL nên:
- Có tính xác thực: phản ánh được thuộc tính duy nhất của điểm đến
- Có sự ủng hộ của cộng đồng dân cư tại điểm đến
- Có sự tôn trọng môi trường tự nhiên, VH-XH, không được phá hủy chúng
dưới bất cứ hình thức nào
- Có sự khác biệt với đối thủ cạnh tranh, sự phát triển phải tránh được “tính
đồng phục/ sao chép”.
Có thể thấy, quan niệm của Nicole Haeusler cũng đã tiếp cận theo hướng
phát triển bền vững và phải tạo nên được tính đặc thù trong SPDL của điểm đến.
Đây là quan niệm khá phù hợp với quan điểm nghiên cứu của đề tài này.
Từ các khái niệm về SPDL đặc thù, phát triển, PTBV và phát triển SPDL nêu
trên, trong phạm vi nghiên cứu này, có thể khái niệm: “Phát triển SPDL đặc thù là
việc phát triển SPDL dựa vào khai thác giá trị tài nguyên đặc thù, độc đáo (có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


22
là duy nhất) của điểm đến trên cơ sở ủng hộ của cộng đồng địa phương để thỏa
mãn được nhu cầu của KDL và tạo được ấn tượng bởi tính độc đáo (duy nhất),
sáng tạo… đối với du khách. Đồng thời, việc khai thác giá trị tài nguyên đó cũng

phải mang lại các giá trị kinh tế, VH-XH và môi trường trong hiện tại cũng như
tương lai.”
1.2.2. Yêu cầu và nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền
vững
1.2.2.1. Yêu cầu phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
Việc phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững cần phải thỏa mãn 3 yêu
cầu cơ bản sau đây:
- Xác định được giá trị TNDL đặc sắc và sự phân bố của chúng theo không
gian
Việc phát triển SPDL phải định hình rõ được loại hình du lịch, các DVDL đi
kèm để nâng cao hiệu quả trải nghiệm và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Vì
vậy, khi phát triển SPDL đặc thù, cần phải xác định rõ được điểm đến có TNDL có
giá trị đặc sắc không? Chúng được phân bố như thế nào, địa hình không gian ra sao,
có khả năng khai thác không, khai thác có hiệu quả không,…? Từ đó mới có thể
quyết định lựa chọn, thiết kế và phát triển các SPDL thực sự độc đáo, khác biệt, hấp
dẫn.
- Xác định được SPDL đặc thù và các thành phần tạo nên SPDL đặc thù. Sản
phẩm phải có nét đặc thù riêng biệt để tạo ra thương hiệu và sức cạnh tranh lớn
trong thị trường khu vực.
Việc phát triển SPDL đặc thù cần trả lời được các thành phần cấu thành của
SPDL đặc thù là gì. Nghĩa là phải trả lời được TNDL được khai thác có giá trị đặc
sắc về tự nhiên hay nhân văn, loại hình du lịch sẽ phát triển có thể phù hợp với
những DVDL nào,… để có thể tạo nên một SPDL trọn vẹn, tổng thể, ấn tượng với
du khách; khác biệt và cạnh tranh tốt với đối thủ.
- Đầu tư khai thác có hiệu quả các giá trị TNDL đặc sắc để hình thành và
phát triển SPDL đặc thù.
Việc phát triển SPDL đặc thù cần phải có sự đầu tư nghiêm túc, tương xứng
về các điều kiện khác ngoài TNDL đặc sắc như CSHT và CSVCKT du lịch, nhân
lực du lịch, các chính sách phát triển du lịch, phát triển SPDL đặc thù, về cầu, về
liên kết, hợp tác. Có như vậy, việc khai thác các giá trị TNDL đặc sắc mới đảm bảo

hiệu quả, thật sự tạo nên được các SPDL đặc thù.
1.2.2.2. Nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


23
- Giá trị TNDL đặc sắc được xác định, phân loại rõ ràng theo từng cấp độ
(quốc gia, vùng miền, địa phương). Sản phẩn phải được phát triển một cách hệ
thống và đồng bộ đúng với chức năng được quy định trong hệ thống. Tránh sự phát
triển manh mún trùng lặp ảnh hưởng đến sức hấp dẫn tổng thể và sự bền vững về
cấu trúc.
- Tập trung phát triển tại những khu vực phân bố TNDL đặc sắc. Sản phẩm
phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện KT-XH đặc thù của địa phương và
khả năng đầu tư sản xuất của doanh nghiệp để tiết kiệm chi phí đem lại lợi nhuận
cao.
- Phải nhận được sự hỗ trợ, ủng hộ của cộng đồng địa phương, phải đem lại
lợi ích bền vững cả về kinh tế, VH-XH và môi trường. Nguyên tắc chủ đạo và
xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển SPDL tổng thể là PTBV: thỏa mãn các
nhu cầu du lịch của thị trường; đem lại hiệu quả KT-XH lớn cho điểm đến mà
không làm suy giảm quá nhiều chất lượng của tài nguyên và môi trường trong tương
lai.
1.2.3. Nội dung phát triển sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
Có nhiều cách tiếp cận phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững: phát
triển các nhân tố cấu thành SPDL; phát triển các yếu tố thu hút và phục vụ khách
hàng, phát triển các điều kiện phát triển SPDL; phát triển cung – cầu và môi trường
phát triển SPDL; phát triển về lượng và chất của SPDL;… Trong phạm vi nghiên
cứu này, đề tài chọn lựa tiếp cận nội dung theo hướng phát triển cung – cầu và môi

trường phát triển SPDL. Đây là cách tiếp cận toàn diện nhất để có thể phát triển
SPDL đặc thù theo hướng bền vững. Điều này có nghĩa là, để phát triển SPDL đặc
thù theo hướng bền vững cần phải phát triển nhu cầu đối với SPDL đặc thù theo
hướng bền vững, khả năng cung SPDL đặc thù theo hướng bền vững và tạo lập môi
trường cho phát triển SPDL đặc thù theo hướng bền vững. Vì vậy, phát triển SPDL
đặc thù theo hướng bền vững được xác lập gồm 3 nhóm nội dung:
1.2.3.1. Phát triển nhu cầu đối với sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
(1) Tổ chức nghiên cứu thị trường khách mục tiêu
Mục tiêu của hoạt động nghiên cứu thị trường khách mục tiêu là nhằm nhận
dạng rõ thị trường khách hàng mục tiêu (hiện tại và tiềm năng); phát hiện mong
muốn, sở thích, thị hiếu, xu hướng nhu cầu và sức mua của từng phân khúc thị
trường khách hàng mục tiêu đối với các SPDL đặc thù theo hướng bền vững. Việc
nghiên cứu thị trường khách mục tiêu phải trả lời được khách hàng có nhu cầu trải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


24
nghiệm loại hình du lịch, cụm du lịch, tuyến, điểm du lịch nào? Các yêu cầu về loại
hình, thứ hạng, chất lượng DVDL? Thời gian ưa thích trải nghiệm SPDL?...
Việc nhận dạng chính xác nhu cầu thị trường khách mục tiêu sẽ là cơ sở quan
trọng để địa phương định hướng lựa chọn khai thác giá trị TNDL đặc thù phát triển
các loại hình du lịch phù hợp cho từng phân khúc thị trường khách. Việc phát triển
SPDL đặc thù theo hướng bền vững cũng cần đảm bảo cả về lượng và chất, có sức
cạnh tranh cao để thu hút khách và đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
(2) Tuyên truyền, quảng bá hình ảnh điểm đến và giá trị TNDL đặc thù nhằm
nâng cao nhận thức, nhu cầu và hành vi mua của khách hàng về SPDL đặc thù theo
hướng bền vững

Thực tế, có nhiều địa phương có thể đáp ứng được nhu cầu khách hàng về
loại hình du lịch, DVDL, thời gian du lịch,… Tuy nhiên, để tạo được lợi thế cạnh
tranh thu hút khách đến, mỗi địa phương cần phải dựa vào giá trị TNDL đặc sắc,
độc đáo để tạo nên được những SPDL đặc thù, khác biệt, duy nhất trên thị trường.
Chính ở giá trị đặc thù của SPDL không chỉ lôi kéo mà còn có khả năng duy trì,
phát triển thị trường khách mục tiêu.
Do đó, cùng với việc nghiên cứu phát triển và cung ứng SPDL đặc thù, địa
phương cần tăng cường tuyên truyền, thông tin, quảng bá hình ảnh điểm đến, giá trị
TNDL nhằm nâng cao nhận biết và nhận thức của KDL đối với giá trị TNDL đặc
sắc, với các SPDL đặc thù theo hướng bền vững. Nhờ vào sự so sánh và nhận biết
hình ảnh điểm đến, của các SPDL đặc thù, của các giá trị trải nghiệm mà KDL có
thể nhận được từ các SPDL đặc thù, riêng có; cùng với trách nhiệm xã hội trong
phát triển SPDL theo hướng bền vững về kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường
cho và vì cộng đồng sẽ khơi gợi được nhu cầu của KDL; sẽ nhận được sự hưởng
ứng của KDL và sẽ tác động tích cực vào hành vi mua của KDL đối với các SPDL
đặc thù theo hướng bền vững.
Việc tuyên truyền, thông tin, quảng bá về SPDL đặc thù theo hướng bền
vững cần được triển khai đa dạng về nội dung và hình thức ở cả trong và ngoài
nước. Trong đó, nội dung quảng bá cần chú trọng vào hình ảnh của điểm đến; giá trị
TNDL đặc thù; tính độc đáo, duy nhất của SPDL;… địa phương cũng nên triển khai
nhiều hình thức quảng bá khác nhau, phù hợp với mỗi phân khúc thị trường khách:
Xây dựng các chương trình quảng bá trên các kênh truyền hình trong và ngoài
nước; Thu hút các đoàn phim trong và ngoài nước lựa chọn điểm đến gắn với TNDL
đặc thù của địa phương làm bối cảnh phim; Xây dựng các quầy thông tin du lịch tại
sân bay, nhà ga, cửa khẩu, trạm dừng du lịch; Quảng cáo bằng pano – áp phích ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/



25
các tuyến, điểm giao thông; Tổ chức và tham gia hội thảo, hội nghị chuyên đề xúc
tiến du lịch;…
1.2.3.2. Phát triển cung sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng bền vững
Phát triển cung SPDL đặc thù theo hướng bền vững thực chất là việc phát
triển các năng lực khai thác TNDL đặc thù nhằm tạo ra được các SPDL đặc thù theo
hướng bền vững; có ý nghĩa quốc tế, quốc gia, vùng và địa phương đáp ứng và thỏa
mãn tốt nhu cầu của các phân khúc thị trường khách hàng trong và ngoài nước cả về
số lượng và chất lượng. Vì vậy, phát triển cung SPDL đặc thù theo hướng bền vững
bao gồm 5 nội dung sau đây:
(1) Đánh giá giá trị TNDL đặc thù và khả năng khai thác hợp lý các loại
hình du lịch dựa trên TNDL đặc thù
- Đánh giá và phân loại TNDL đặc thù: Cần tổ chức kiểm kê, đánh giá toàn
bộ TNDL, trên cơ sở giá trị của TNDL, xác định các TNDL đặc thù và tiến hành
phân nhóm TNDL có ý nghĩa quốc tế và quốc gia, vùng và địa phương.
- Đánh giá khả năng khai thác các loại hình du lịch dựa trên TNDL đặc thù:
Với mỗi nhóm TNDL đặc thù, cần phân tích đặc tính của tài nguyên (TNTN hay tài
nguyên văn hóa; tài nguyên biển, sông, hồ, núi hay làng nghề truyền thống, nghệ
thuật dân gian,…); từ đó cân nhắc, xem xét khả năng và lựa chọn khai thác phát
triển loại hình du lịch phù hợp.
(2) Phát triển hệ thống cơ sở KDDL có khả năng khai thác bền vững SPDL
đặc thù
- Phát triển hệ thống DNLH có khả năng xây dựng và cung ứng CTDL đặc
thù theo hướng bền vững:
Phát triển số lượng DNDL, đa dạng quy mô, hình thức sở hữu DNLH; đặc
biệt tập trung phát triển những tập đoàn, DNLH quy mô lớn, tiềm lực mạnh, đủ
năng lực để có thể định hướng khai thác TNDL đặc thù và phát triển các SPDL đặc
thù phù hợp cho từng phân khúc thị trường khách.
Trên cơ sở các loại hình du lịch đã được định hướng khai thác và phát triển

từ các TNDL đặc thù, mỗi DNLH cần có sự lựa chọn riêng, phù hợp điều kiện thị
trường, khả năng cung của doanh nghiệp để chọn lựa đối tác, sắp xếp DVDL và
thiết kế CTDL mới hoặc cải tiến CTDL sẵn có đưa vào kinh doanh. Ngoài việc dựa
vào TNDL đặc thù, cũng cần lựa chọn được những DVDL đặc sắc để tạo nên tổng
thể CTDL đặc biệt, có giá trị tăng thêm cho khách hàng.
- Phát triển hệ thống cơ sở kinh doanh có khả năng cung ứng hàng hóa và
DVDL đáp ứng nhu cầu khách hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Là tư

http://www. lrc-tnu.edu.vn/


×