Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

luận văn thạc sĩ KIỂM TOÁN nội bộ tại TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN đội VIETTEL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.26 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

ĐỖ THỊ THU HẰNG

KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI TỔNG CÔNG TY
VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


HÀ NỘI, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

ĐỖ THỊ THU HẰNG

KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI TỔNG CÔNG TY
VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL

CHUYÊN NGÀNH : KẾ TOÁN
MÃ SỐ

: 60 34 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ QUANG BÌNH


HÀ NỘI, NĂM 2018


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2018
NGƯỜI LÀM LUẬN VĂN

Đỗ Thị Thu Hằng


5

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô giáo, cơ quan và gia đình. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới:
-

Ban Giám hiệu, Khoa sau đại học trường Đại học Thương mại.


-

Thầy giáo, Tiến sĩ Tạ Quang Bình.

-

Ban lãnh đạo, Ban Kiểm toán, phòng Kế toán – tài chính, các cán bộ công nhân
viên tại Tổng Công ty Viễn thông quân đội Viettel.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, anh chị em cán bộ công nhân
viên tại Tổng Công ty Viễn thông quân đội Viettel; Ban Kế toán, kiểm toán Tổng
Công ty đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI LÀM LUẬN VĂN

Đỗ Thị Thu Hằng


6

MỤC LỤC


7

Chữ viết tắt
BCTC
CBCNV
DN
ĐT XDCB
HTKSNB

HTK
KSNB
KTNB
KTV
NHTM
SXKD
TCT

Giải thích
Báo cáo tài chính
Cán bộ công nhân viên
Doanh nghiệp
Đầu tư xây dựng cơ bản
Hệ thống kiểm soát nội bộ
Hàng tồn kho
Kiểm soát nội bộ
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán viên
Ngân hàng thương mại
Sản xuất kinh doanh
Tổng công ty Viễn thông quân đội Viettel


8

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục
Phụ lục 1.1
Phụ lục 1.2
Phụ lục 1.3

Phụ lục 2.1
Phụ lục 2.2
Phụ lục 2.3
Phụ lục 2.4
Phụ lục 2.5
Phụ lục 2.6
Phụ lục 2.7
Phụ lục 2.8
Phụ lục 3.1

Tên
Sơ đồ bộ phận KTNB thuộc Ban kiểm soát
Sơ đồ bộ phận KTNB thuộc Hội đồng quản trị
Sơ đồ bộ phận KTNB thuộc Tổng giám đốc
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty viễn thông quân đội (Viettel)
Bảng cân đối kế toán
Báo cáo kết quả kinh doanh của TCT
Mẫu kế hoạch kiểm toán
Quyết định kiểm toán
Thông báo kiểm toán
Kết quả kiểm toán hoạt động kinh doanh năm 2016
Báo cáo kiểm toán
Sơ đồ tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty


9

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán nội bộ (KTNB) lần đầu tiên ra đời vào năm 1941 tại Hoa Kỳ,

sau đó lan rộng sang các quốc gia khác trên thế giới. Tại nước ta sau khi Nhà
nước thành lập ngành Kiểm toán độc lập (1991) và kiểm toán nhà nước (1994),
thì ngày 20/10/1997 KTNB chính thức xuất hiện và được quy định bằng Quyết
định 832-TC/QĐ/CĐKT (Quyết định về Quy chế KTNB áp dụng cho các doanh
nghiệp). KTNB chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong bộ máy hoạt động kinh
doanh của các tổ chức và doanh nghiệp, góp phần giúp nhà lãnh đạo phân tích
hoạt động đầu tư, kinh doanh, kiểm soát, đánh giá các chiến lược phát triển kinh
doanh trong nội bộ của doanh nghiệp. Vai trò chính của KTNB là đánh giá tính
hợp lý cũng như tính hiệu quả của các thủ tục tổ chức cơ cấu, sự trung thực và
tính tin cậy của các thông tin kế toán, tính hợp lý, hợp pháp của các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp và trong các đơn vị trực thuộc. Với
tầm quan trọng đó của KTNB trong các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp đặc thù nói riêng thì cần phải đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có một thực tế
hiện nay là hầu hết các chủ doanh nghiệp tại Việt Nam chưa đánh giá đúng về
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ trong quá trình kinh doanh,
đặc biệt là đối với các tập đoàn kinh tế.
Doanh nghiệp viễn thông là một doanh nghiệp điển hình không chỉ về sản
phẩm mang tính đặc thù mà còn trong cách tổ chức quản lý và kiểm soát. Dịch
vụ viễn thông có những đặc điểm cơ bản của dịch vụ nói chung nhưng đồng thời
mang những sắc thái riêng, đặc thù gắn với hoạt động của ngành và nhu cầu của
các chủ thể thụ hưởng dịch vụ viễn thông. Những đặc điểm đó bao gồm: sản
phẩm dịch vụ không mang hình thái hiện vật, hay là sản phẩm vô hình; không
chia tách được, thiếu ổn định và không thể dự trữ được. Qua khảo sát thực tế tại
Tổng công ty Viễn thông quân đội (Viettel) – một doanh nghiệp điển hình trong


10

lĩnh vực viễn thông, tác giả nhận thấy rằng KTNB trong doanh nghiệp này có
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nó là công cụ hữu hiệu cho các nhà quản trị nắm

bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp, bên cạnh đó, thông qua hệ thống
KTNB có thể đánh giá được sự đúng đắn và tuân thủ pháp luật của bộ phận kế
toán tại Viettel. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy hệ thống kiểm toán tại đơn vị
còn nhiều hạn chế như: chưa có sự quản lý chặt chẽ của ban kiểm toán, hay như
hệ thống KTNB còn chưa được tổ chức một cách quy củ mà chỉ được lập ra khi
bắt đầu cuộc kiểm toán. Hoạt động của KTNB mới chỉ dừng lại ở mức kiểm tra
và khảo sát việc ghi chép sổ sách kế toán, lập báo cáo tài chính và tuân thủ các
quy định trong chế độ, thể lệ luật pháp mà chưa chú trọng đến việc đánh giá hiệu
quả của các hoạt động trong đơn vị để tham mưu hết cho các nhà quản lý. Đội
ngũ các kiểm toán viên nội bộ cũng là một hạn chế, trình độ của kiểm toán viên
chưa được cao, dẫn đến việc ban kiểm toán hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
Với những nghiên cứu từ lý luận tới thực tiễn của mình, tác giả chọn đề tài
“Kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel” . Đề tài sẽ
nghiên cứu những cơ sở, lý luận để giúp cho nhà quản lý các doanh nghiệp Viễn
thông nói chung và tập đoàn viễn thông quân đội Viettel nói riêng những điểm
mạnh, yếu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB tại Viettel.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Trong thời gian qua, KTNB ngày càng đóng vai trò quan trọng trong DN.
KTNB không chỉ giúp cho nhà quản trị nắm được tình hình tài chính của DN mà
còn giúp nâng cao hiệu quả quản lý của mình. Trên thế giới các doanh nghiêp và
tập đoàn kinh tế luôn coi trọng công tác kiểm toán này. Hiên nay công tác KTNB
đang ngày càng được phát triển hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu DN lớn trên
những nền tảng của KTNB thời kỳ đầu. Có rất nhiều các công trình, các bài báo,
đánh giá về hệ thống KTNB ở trong và ngoài nước.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Lam (2016) với những nghiên cứu về tổ chức
KTNB tại các Tổng công ty Thương mại Việt Nam đã đi từ nghiên cứu quản trị rủi


11


ro để đưa ra vai trò của kiểm toán nội bộ trong quản trị rủi ro, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của KTNB hiện đại. Qua phân tích thực trạng KTNB tại các TCT
thương mại, tác giả đã phân tích đánh giá, đưa ra những ưu điểm và tồn tại cùng với
những nguyên nhân của nó. Đồng thời, thông qua những nghiên cứu của mình, tác
giả đã đánh giá thực tế ứng dụng, xu hướng và thái độ của các nhà quản trị trong
việc sử dụng bộ máy KTNB. Thông qua nghiên cứu và lý luận, tác giả cũng đã đề
xuất 5 giải pháp để hoàn thiện bộ máy KTNB tại các TCT thương mại.
Nguyễn Minh Phương (2016) tiến hành khảo sát nghiên hệ thống KTNB tại
Agribank và đưa ra được những hạn chế trong công tác KTNB tại đây như: công
tác tổ chức chưa được phù hợp với thông lệ quốc tế về thực hành KTNB nên kết
quả thu được còn nhiều khiếm khuyết, hay như hạn chế về quy trình KTNB, chỉ
ra được những nguyên nhân , đồng thời thông qua những lý luận tác giả cũng đề
xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện KTNB tại Agribank.
Luận án của tác giả Vũ Thùy Linh (2014) đề cập đến hệ thống KTNB trong
các ngân hàng thương mại Nhà nước bao gồm: Tổ chức nội dung kiểm toán, quy
trình thực hiện và phương pháp tiến hành kiểm toán. Thông qua những phân tích
tác giả đã chỉ ra những điểm hạn chế trong công tác KTNB tại các ngân hàng
như cơ cấu tổ chức KTNB chưa đáp ứng kịp với việc vận hành các bộ phận trong
mô hình KTNB, vị thế của KTNB chưa được coi trọng, chất lượng đầu vào của
các kiểm toán viên.
Lê Thị Thu Hà (2011) đã chỉ ra những lý luận cơ bản về KTNB nói chung
và KTNB trong lĩnh vực tài chính nói riêng, thông qua đó đưa ra được những
thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác KTNB tại các
DN tài chính tại Việt Nam. Qua nghiên cứu của mình, tác giả chỉ ra rằng KTNB
trong các công ty tài chính đã bước đầu phát huy được những vai trò trong việc
kiểm soát và phát hiện những sai phạm trong các hoạt động của công ty. Tuy
nhiên vẫn còn có sự chồng chéo giữa bộ phận KTNB và Kế toán, quy trình kiểm
toán chưa được xây dựng một cách đầy đủ và chặt chẽ.



12

Ngoài những luận án được nghiên cứu ra còn có những đề tài nghiên cứu
khoa học và các bài báo nghiên cứu – trao đổi liên quan đến vấn đề KTNB trong
DN. Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ của tác giả Nguyễn Phú
Giang và các cộng sự (2010) được nghiên cứu trên cơ sở Luật các tổ chức tín
dụng sửa đổi 2004 và Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN về Quy chế KTNB của
tổ chức tín dụng đến nay đã bị thay thế bởi hệ thống cơ sở pháp lý mới về
KTNB. Đề tài nghiên cứu không tập trung vào tổ chức bộ máy và hoạt động
KTNB tại các NHTM mà chỉ đi sâu vào đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả và hiệu
năng của kiểm toán hoạt động trong một số nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng với
phạm vi nghiên cứu ở cả NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu của các tác giả về KTNB đều đưa ra
được cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm phân tích đánh giá thực trạng công tác
KTNB. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên chỉ khảo sát về KTNB trong
DN xây dựng, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng chứ chưa đề
cập đến KTNB trong DN viễn thông. Vì những lý do này mà tác giả đã lựa chọn
đề tài nghiên cứu “KTNB tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel”. Nội
dung đề tài đề cập đến thực trạng hoạt động kiểm toán nôi bộ tại Viettel, đây là
DN đặc trưng trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam với những đặc thù riêng
mà thông qua những lý luận để đưa ra những đánh giá và một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả KTNB tại DN này.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm :
Thứ nhất, hệ thống hoá những lý luận về KTNB trong DN nói chung và DN
viễn thông nói riêng, kết hợp với những kinh nghiệm KTNB nhằm tạo cơ sở cho
việc nghiên cứu thực trạng KTNB tại Viettel.
Thứ hai, tìm hiểu thực trạng công tác KTNB tại Viettel, qua đó đánh giá các
kết quả đạt được, các ưu điểm và hạn chế, phân tích các nguyên nhân khách quan
và chủ quan của những hạn chế.



13

Thứ ba, thông qua những hạn chế và việc phân tích nguyên nhân, kết hợp
với những lý luận để đưa ra những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả bộ máy
KTNB trong doanh nghiêp viễn thông nói chung và công ty Viettel nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
-

Đối tượng của đề tài: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng Công tác
KTNB tại Tổng công ty Viễn thông quân độ (Viettel).

-

Phạm vi nghiên cứu: Phân tích và đánh giá công tác KTNB tại Viettel trong năm
2016 thông qua cuộc kiểm toán năm được thực hiện vào quý 1 năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể tiến hành nghiên cứu về kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty viễn
thông quân đội Viettel, tác giả đã đưa ra các phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó
là phương pháp thu thập dữ liệu và phương pháp tổng hợp, phân tích dữ liệu.
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

-

Phương pháp quan sát thực tế
Sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp trình tự cuộc kiểm toán của các
kiểm toán viên tại đơn vị được kiểm toán thuộc Tổng công ty. Quan sát các bước
thực hiện một cuộc kiểm toán nội bộ cơ bản để đánh giá công tác kiểm toán tại


-

đơn vị.
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Mục đích của việc nghiên cứu các tài liệu, các biểu mẫu, báo cáo liên quan
đến kiểm toán để hiểu về tình hình thực trạng công tác kiểm toán nội bộ của đơn
vị. Tiến hành thu thập thông tin, dữ liệu, quy trình, Báo cáo tài chính, số liệu liên
quan đến công tác kiểm toán của Viettel trong những năm gần đây để đáp ứng
yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số tài liệu liên quan đến để tài kiểm toán
nội bộ như các luận văn, luận án, các bài nghiên cứu của các tác giả khác nhằm
hỗ trợ cho bài nghiên cứu của mình.
5.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu
Từ những tài liệu, thông tin đã thu nhận được từ các phương pháp thu thập


14

dữ liệu, thống kê số liệu cùng với kiến thức đã có được từ nghiên cứu tài liệu, tác
giả tiến hành hệ thống hóa, tổng hợp, phân tích số liệu, thông tin nhằm đưa ra
những nhận xét về KTNB trong Viettel. Phân tích các dữ liệu thu được nhằm đưa
ra những ưu điểm và tồn tại, cùng với đó là những đề xuất nhằm giải quyết
những tồn tại đó.
6. Đóng góp của luận văn
-

Luận văn đã hệ thống hoá những lý luận, góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản

-


trong công tác KTNB tại Viettel.
Qua phân tích thực trạng, luận văn đã đưa ra một số nhận xét trong công tác
KTNB tại Viettel và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng KTNB.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành ba chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Viễn thông
quân đội Viettel.
Chương 3: Một số kết luận và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kiểm
toán nội bộ tại Tổng công ty Viễn thông quân đội Viettel.


15

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về kiểm toán nội bộ (KTNB)
1.1.1. Bối cảnh ra đời và sự phát triển của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ ra đời nhằm thoả mãn các yêu cầu quản lý của các doanh
nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cả những tổ chức phi lợi nhuận, tr ước hết
trong các đơn vị, các tổ chức thuộc thị trường chứng khoán, ngân hàng và ở các
công ty đa quốc gia. Các công trình nghiên cứu cho rằng, trước tiên KTNB ra
đời là do các nhà quản lý trong các Công ty cổ phần nhận thấy rằng việc kiểm
toán báo cáo tài chính hàng năm do kiểm toán viên độc lập thực hiện chưa đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu cho quá trình kiểm soát và quản lý cũng như ngăn chặn
kịp thời những rủi ro, gian lận có thể phát sinh. Sau đó Uỷ ban giao dịch chứng
khoán các nước đòi hỏi các nhà quản lý ở Công ty cổ phần có niêm yết giá ở thị
trường chứng khoán phải có trách nhiệm cao hơn về độ tin cậy báo cáo tài chính
công bố, nên chính bản thân các nhà quản lý ở các Công ty này đã mở rộng và

nâng cao vai trò, trách nhiệm của KTNB. Từ đó, công việc KTNB không chỉ đơn
thuần là những vấn đề về tài chính và kế toán mà bao gồm cả việc phân tích và
đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm tra các thông tin giữa kỳ và các thông
tin khác mà chưa được xem xét bởi các kiểm toán viên độc lập khi thực hiện
kiểm toán hàng năm. Vai trò KTNB lúc này được mở rộng hơn nhằm hoàn thiện
các chính sách và thủ tục kiểm toán đối với toàn bộ hoạt động của đơn vị.
Trong thực tế của KTNB có những sự thay đổi lớn. Ngày nay ở các nước có
nền kinh tế phát triển, KTNB đã được nhìn nhận như một nhiệm vụ không thể
thiếu đối với mọi tổ chức trong mọi lĩnh vực. Hoạt động của KTNB đã được các
đơn vị tự thân thừa nhận. Sự thừa nhận này được chứng tỏ bởi vị trí cao hơn của
KTNB trong tổ chức, ngân sách hoạt động lớn hơn, sự thừa nhận mục tiêu
nghiên cứu rộng hơn...Trong hầu hết các công ty, kiểm toán viên nội bộ nói


16

chung đều được các bộ phận nhìn nhận như những cộng sự quan trọng trong hoạt
động chung của toàn công ty. Tất cả những sự thừa nhận nói trên chứng tỏ
KTNB đang ngày càng được mở rộng và trở nên độc lập hơn. Điều đó được lý
giải do nhận thức của các nhà quản lý về KTNB là xuất phát từ tự thân đơn vị và
đáp ứng nhu cầu quản lý cao của chính bản thân các nhà quản lý đơn vị.
Tại Việt Nam, KTNB xuất hiện khá muộn so với kiểm toán độc lập (1991)
và kiểm toán nhà nước (1994). Giai đoạn trước năm 1996, KTNB chưa được hình
thành cụ thể mà chỉ là những yếu tố đơn lẻ, chưa được hệ thống hóa và chỉ giới
hạn trong phạm vi kiểm toán các báo cáo tài chính, chưa có bất kỳ văn bản pháp lý
nào liên quan tới hệ thống KTNB. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay, KTNB được
hệ thống hóa lần đầu tiên trong Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày
28/12/1997 về việc ban hành quy chế KTNB. Hiện nay, KTNB được triển khai
rộng rãi trong các tập đoàn, Tổng công ty. Một số đơn vị đã thực hiện công tác
KTNB rất tốt, đáp ứng được yêu cầu quản trị, điển hình như tập đoàn Bảo Việt,

tập đoàn Bưu chính Viễn thông, tuy nhiên vẫn còn có rất nhiều hạn chế trong
KTNB tại Tổng công ty, hay các Tập đoàn kinh tế.
1.1.2. Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Là một trong những nhân tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ trong
doanh nghiệp, KTNB là công cụ dùng để quan sát đánh giá tình hình tài chính
của DN.
Theo định nghĩa của The IIA (Viện KTNB Hoa Kỳ): “Kiểm toán nội bộ là
một chức năng độc lập, khách quan nhằm đảm bảo và tư vấn các hoạt động đã
được thiết kế nhằm gia tăng giá trị và cải thiện các hoạt động trong một tổ
chức. Kiểm toán nội bộ giúp một tổ chức thực hiện được các mục tiêu thông qua
việc mang lại phương pháp tiếp cận có hệ thống và quy tắc nhằm đánh giá và
nâng cao hiệu quả của các quy trình quản trị rủi ro, kiểm soát và quản trị.”


17

Theo VSA 610 “Kiểm toán nội bộ là một bộ phận trong hệ thống kiểm soát
nội bộ của một đơn vị, có chức năng kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu quả,
sự tuân thủ pháp luật và các quy định của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm
soát nội bộ của đơn vị”. Đây là định nghĩa được đưa ra trong chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam. Định nghĩa này nhấn mạnh chức năng kiểm tra, đánh giá của
KTNB.
Theo liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC)” Kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong một đơn vị kinh tế như là một loại dịch vụ cho đơn vị
đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của
hệ thống kế toán”.
Các quan điểm trên về KTNB tuy có khác nhau ở một vài chi tiết nhưng tất
cả quan điểm đều cho rằng KTNB là một bộ phận độc lập trong tổ chức, qua đó
KTNB có nhiệm vụ hỗ trợ cho lãnh đạo tổ chức đánh giá các hoạt động trong
đơn vị, đặc biệt kiểm tra và đánh giá chính xác được việc tuân thủ các chính sách

kế toán của tổ chức.
1.1.3. Mục đích của kiểm toán nội bộ
KTNB xem xét sự tin cậy và tính trung thực của các thông tin tài chính
trong tổ chức. Để thực hiện được mục đích này, việc kiểm tra của KTNB có thể
bao gồm việc xem xét các phương pháp đo lường, phân loại, lập báo cáo, kiểm
tra chi tiết các nghiệp vụ, các khoản mục, số dư tài khoản và kiểm soát các thông
tin kinh tế tài chính.
Xem xét hệ thống tài chính doanh nghiệp có được thiết lập phù hợp với các
chính sách, quy định của đơn vị cũng như của Nhà nước. Xác định xem trong
thực tế các quy chế tài chính doanh nghiệp có được tuân thủ không. KTNB có
trách nhiệm kiểm tra, đánh giá từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống


18

kế toán tài chính nhằm phục vụ cho công tác kiểm soát của đơn vị.
KTNB xem xét phương thức bảo vệ tài sản và kiểm tra sự tồn tại của các tài
sản. KTNB mục đích kiểm tra, rà soát, đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và
hiệu quả của hệ thống kiểm tra nội bộ.


19

1.1.4. Chức năng của kiểm toán nội bộ
Các quan điểm trước đây cho rằng KTNB chịu trách nhiệm trong việc kiểm
toán báo cáo tài chính và tập trung vào công tác kiểm tra kế toán và thông tin tài
chính của tổ chức. Tuy nhiên quan điểm của KTNB hiện đại đã được phát triển
thêm, không còn giới hạn ở công tác kiểm tra BCTC mà thêm vào đó là kiểm
toán tính hiệu quả, tính tuân thủ của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như tư vấn cho nhà quản lý nhằm hoàn thiện HTKSNB.

Có thể thấy KTNB đóng vai trò là người bảo vệ giá trị cho doanh nghiệp.
KTNB là một quan sát viên độc lập, nhằm đảm bảo hoạt động của công ty tuân
thủ các quy định của pháp luật, đạo đức kinh doanh và quy chế hoạt động của
công ty. Kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm phát hiện ra những sai sót trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, giữ vai trò là người tư vấn và định hướng
cho ban giám đốc và hội đồng quản trị về kiểm soát rủi ro tài chính.
Chức năng tiếp theo của KTNB là giúp chủ doanh nghiệp cải tiến những
điểm yếu từ hệ thống quản lý và quản trị doanh nghiệp. Bằng cách phân tích,
kiểm tra quy trình hoạt động của các phòng ban trong bộ máy kinh doanh,
KTNB sẽ đưa ra những lời tư vấn giúp công ty hoạt động năng suất và hiệu quả
hơn. Thực tế, các doanh nghiệp có bộ phận KTNB hoạt động một cách hiệu quả
thì khả năng gian lận sẽ xảy ra thấp, ngược lại hiệu quả kinh doanh sẽ tăng cao.
1.1.5. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Theo điều 6 Quyết định 832 ngày 28/10/1997 của Bộ tài chính, KTNB có 3
nhiệm vụ: Kiểm tra, xác nhận và đánh giá:
-

Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ;
Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của

-

báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký duyệt;
Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt sự
tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết,
quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc doanh nghiệp;


20


-

Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý,
điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Tổ chức hoạt động của kiểm toán nội bộ
1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của kiểm toán nội bộ
Theo Điều 14 của Quy chế kiểm toán nội bộ số 832 – TC/QĐ/CĐKT thì:
Trong quá trình thực hiện công việc, kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ luật
pháp, tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán, các
chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước.
Theo Dự thảo Nghị định về Kiểm toán nội bộ, Các nguyên tắc cơ bản của
kiểm toán nội bộ gồm:
Thứ nhất, tính độc lập: Tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ độc lập
với bộ phận được kiểm toán. Trưởng ban kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên nội
bộ, trợ lý kiểm toán nội bộ không được đồng thời đảm nhận các công việc thuộc
đối tượng của kiểm toán nội bộ; đơn vị phải đảm bảo rằng kiểm toán nội bộ
không chịu bất cứ sự can thiệp nào khi thực hiện việc báo cáo và đánh giá.
Nguyên tắc này chỉ rõ bộ phận kiểm toán nội bộ phải độc lập, không chịu sự chi
phối của bộ phận kế toán-tài chính tại đơn vị được kiểm toán.
Thứ hai, tính khách quan: Bộ phận kiểm toán nội bộ, trưởng kiểm toán nội
bộ, kiểm toán viên nội bộ, trợ lý kiểm toán nội bộ phải đảm bảo tính khách quan,
trung thực, công bằng. Khi tiến hành kiểm toán, đội ngũ kiểm toán viên phải
nghiêm túc thực hiện theo Quy chế, Quy định của pháp luật, đảm bảo tính trung
thực, không giấu diếm những sai trái khi tiến hành kiểm toán tại đơn vị nhằm
phát hiện những sai sót để tiến hành sửa chữa kịp thời.
Thứ ba, tuân thủ quy định pháp luật: Việc tuân thủ các yêu cầu của pháp
luật liên quan đến cuộc kiểm toán là nguyên tắc cần thiết, điều này giúp cho
doanh nghiệp tránh được những vi phạm dẫn đến sự thất thoát cho doanh nghiệp.



21

Tuân thủ pháp luật ở đây thể hiện là sự thực hiện đúng đắn Quy chế kiểm toán
nội bộ mà đơn vị chủ quản đưa ra nhằm đáp ứng được những yêu cầu cũng như
giúp cho việc quản lý tài chính hiệu quả hơn.
1.2.2. Nội dung của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ được tổ chức trong một doanh nghiệp, tuỳ theo tính chất,
trình độ hay yêu cầu quản lý mà có thể tiến hành thực hiện các loại kiểm toán
khác nhau, hay kiểm toán phối hợp cả 3 loại hình: kiểm toán hoạt động, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo quản trị.
1.2.2.1. Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính
kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả hoạt động của một bộ phận hoặc toàn bộ đơn vị
được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc tối
thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một nguồn lực ít nhất
(kể cả trong mua sắm và sử dụng).
Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu
đã xác định.
Tính hiệu quả là việc đạt kết quả cao nhất với một lượng nguồn lực nhất
định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, từ việc đánh giá một
phương án kinh doanh, một dự án, một quy trình công nghệ, một công trình
XDCB, một loại tài sản, thiết bị mới đưa vào hoạt động hay việc luân chuyển
chứng từ trong một đơn vị… Vì thế, khó có thể đưa ra các chuẩn mực cho loại
kiểm toán này. Đồng thời, tính hữu hiệu và hiệu quả của quá trình hoạt động rất
khó được đánh giá một cách khách quan so với tính tuân thủ và tính trung thực,
hợp lý của BCTC.Vì thế việc xác định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá về
tính kinh tế, tính hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động là việc rất khó khăn, việc



22

lượng hóa các mặt trên thành các tiêu chuẩn để đánh giá thường mang nặng tính
chủ quan.
Trong kiểm toán hoạt động, việc kiểm tra thường vượt khỏi phạm vi công
tác kế toán, tài chính mà liên quan đến nhiều lĩnh vực. Kiểm toán hoạt động phải
sử dụng nhiều biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ và phân tích, đánh giá khác nhau.
Báo cáo kết quả kiểm toán thường là bản giải trình các nhận xét, đánh giá, kết
luận và ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
1.2.2.2.Kiểm toán tính tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm
toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ
quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ khá linh hoạt. Ví dụ:
- Kiểm toán việc tuân thủ các luật thuế ở đơn vị;
- Kiểm toán của cơ quan nhà nước đối với DNNN, đơn vị có sử dụng kinh
phí NSNN về việc chấp hành các chính sách, chế độ về tài chính, kế toán;
- Kiểm toán việc chấp hành các điều khoản của hợp đồng tín dụng đối với
đơn vị sử dụng vốn vay của ngân hàng…
Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này
không phức tạp như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một cách
dễ dàng gắn liền với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán. Vì thế, kiểm toán tuân
thủ còn được gọi là kiểm toán tính quy tắc (Regularity Audit).
Thông thường loại kiểm toán này được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu
của bản thân các đơn vị, hoặc nhu cầu của cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả
của kiểm toán tuân thủ nói chung được báo cáo cho người có trách nhiệm trong
đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan quản lý cấp trên hơn là cho phạm vi rộng
người sử dụng. Trường hợp việc kiểm toán do một khách hàng, không phải đơn

vị được kiểm toán có nhu cầu, như việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về
thuế thu nhập doanh nghiệp ở một đơn vị do cơ quan thuế thuê, thì KTV sẽ được


23

báo cáo cho cơ quan có nhu cầu thuê kiểm toán.


24

1.2.2.3.Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị
- Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính tin cậy của
báo cáo tài chính; báo cáo kế toán quản trị trước khi (Tổng) Giám đốc ký duyệt
và công bố;
- Kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, kế toán quản trị; đưa ra những
kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo
sự hợp lý và hiệu quả.
1.2.3. Mô hình tổ chức của kiểm toán nội bộ
Tổ chức bộ máy KTNB là việc lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy KTNB
để thực hiện kiểm toán trong nội bộ DN. Có 3 mô hình tổ chức KTNB phổ
biến như sau:
Mô hình 1: Bộ phận KTNB trực thuộc Ban kiểm soát ( Phụ lục số 1.1)
Mô hình này được áp dụng phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là hệ thống ngân
hàng theo mục 1 điều 7 Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc
Ban hành Quy chế KTNB cho các tổ chức tín dụng.
Ưu điểm: của mô hình này là bộ phận KTNB trực thuộc Ban kiểm soát
thuộc Hội đồng quản trị bảo đảm tính độc lập cao cho hoạt động kiểm toán.
Nhược điểm: tính quyền lực, tính hiệu quả, kịp thời của KTNB không cao.
Mô hình 2: Bộ phận KTNB trực thuộc trực tiếp Hội đồng quản trị

(Phụ lục 1.2)
Mô hình này được áp dụng khi Tổng giám đốc là người do Hội đồng quản
trị thuê về điều hành.
Ưu điểm: Đảm bảo tính độc lập, khách quan và có quyền lực cao trong
kiểm toán. Hội đồng quản trị sẽ thực hiện có hiệu quả trách nhiệm quản lý, giám
sát công tác tài chính- kế toán trong tổ chức, doanh nghiệp.
Nhược điểm: Do hội đồng quản trị tổ chức, doanh nghiệp hoạt động theo
định kỳ thường xuyên chỉ đưa ra các quyết sách lớn, không trực tiếp điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì lẽ đó, kết quả kiểm toán thường bị xử lý chậm
trước khi trình lên hội đồng quản trị.


25

Mô hình 3: Bộ phận KTNB trực thuộc Tổng giám đốc (Phụ lục 1.3)
Trong mô hình trên Tổng giám đốc không nắm giữ số lượng cổ phiếu chi
phối và Hội đồng quản trị tách biệt hẳn khỏi chức năng điều hành. Tuy nhiên tại
Việt Nam hiện nay, Hội đồng quản trị vừa làm chức năng định hướng , vừa làm
chức năng điều hành, quyền lực nằm trong tay Tổng giám đốc, chủ tịch hội đồng
quản trị kiêm Tổng giám đốc, vì vậy KTNB làm việc dưới sự điều hành của
Tổng giám đốc
Ưu điểm: Đảm bảo tính độc lập của KTNB đối với những đối tượng được
kiểm toán, KTNB có điều kiện thường xuyên phát hiện những gian lận trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh để kịp thời báo cáo và đưa ra hướng khắc phục.
Nhược điểm: Do Tổng giám đốc là người trực tiếp điều hành các hoạt động
kinh doanh của công ty, trong khi KTNB là bộ phận giúp cho Tổng giám đốc
kiểm tra, đánh giá hoạt động, sản xuất kinh doanh nên có ảnh hưởng nhất định
đến tính khách quan trong hoạt động kiểm toán.
Nhà quản lý cần phải xác định được mô hình tổ chức KTNB cho phù hợp
để tăng cường hiệu quả của công tác QTDN. Tùy theo quy mô, điều kiện cụ thể

của đơn vị nhà quản lý có thể lựa chọn mô hình tổ chức của bộ phận KTNB theo
các mô hình cơ bản sau đây:
- Mô hình tập trung: Theo mô hình này đơn vị sẽ chỉ tổ chức bộ phận
KTNB tới văn phòng trung tâm, không tổ chức KTNB tới các văn phòng trực
thuộc, các chi nhánh, các công ty con... Mô hình này thích hợp với đơn vị có quy
mô nhỏ, địa bàn hoạt động tập trung, không phân tán. Mô hình này bảo đảm tính
khách quan, độc lập của kiểm toán viên nội bộ và thuận tiện cho việc chuyên
môn hóa của KTNB .
- Mô hình phân tán: theo mô hình này ngoài bộ phận kiểm toán nội
bộ ở trung tâm đơn vị còn có tổ chức KTNB ở các công ty con, các chi nhánh
trực thuộc. Phạm vi và quyền hạn của KTNB cũng sẽ chỉ giới hạn trong công ty
con, chi nhánh đó. Bộ phận KTNB trung tâm sẽ kiểm tra toàn bộ hoạt động của


×