BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------
PHẠM THỊ QUỲNH MAI
CẢI CÁCH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CHO CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH HẢI
DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SI KINH TẾ
Hà Nội - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------
PHẠM THỊ QUỲNH MAI
CẢI CÁCH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH DOANH CHO
CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số
: 60340410
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Viết Thái
Hà Nội - 2018
2
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn “Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho
các doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi, chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các số liệu và kết quả sử
dụng trong bài Luận văn là hoàn toàn trung thực và có trích dẫn nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Quỳnh Mai
3
4
LỜI CẢM ƠN
Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Quản lý
kinh tế, em đã gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị tài liệu, thu thập dữ liệu sơ cấp
và thứ cấp. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ tận tình các thầy cô
giáo, bạn bè và đồng nghiệp, em đã hoàn thành Luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban Giám hiệu trường Đại học
Thương mại, Khoa sau Đại học đã động viên và tạo mọi điều kiện để em có thể yên
tâm với công việc nghiên cứu.
Hơn hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy PGS.TS Nguyễn Viết
Thái - người đã hướng dẫn chỉ bảo tận tình, động viên em trong suốt quá trình
nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, cán bộ công chức: Sở Kế hoạch và
Đầu tư tỉnh Hải Dương đã hỗ trợ cung cấp tài liệu để em có cơ sở thực tiễn bổ
sung vào bài viết.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất cả năng lực và
sự nhiệt tình của bản thân, tuy nhiên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô và đồng
nghiệp để em hoàn thiện hơn nữa nhận thức của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
5
MỤC LỤC
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NGHĨA TIẾNG VIỆT
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
TTHC
Thủ tục hành chính
CCTTHC
Cải cách thủ tục hành chính
TT
Thủ tục
CCHC
Cải cách hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
SKH&ĐT
Sở kế hoạch và Đầu tư
GCN ĐKKD
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Bộ KH & ĐT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
7
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Thứ
tự
1
2
3
4
5
6
Tên bảng
Bảng 2.1. Số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm
2014 - 2016
Bảng 2.2. Quy mô vốn của các doanh nghiệp tỉnh Hải Dương
Đồ thị 2.1. Đánh giá sự hài lòng của Doanh nghiệp về cải cách
thủ tục đăng ký kinh doanh
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ quy trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ trong lĩnh vực
đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hải Dương
Bảng 2.3. Tình hình tiếp nhận và trả kết quả kinh doanh tại
Phòng đăng ký kinh doanh Hải Dương giai đoạn 2014 – 2016
Bảng 2.4. Tình hình cấp đăng ký doanh nghiệp của Tỉnh Hải
7
Dương giai đoạn 2014 – 2016
Đồ thị 2.2. Tình hình đăng ký kinh doanh mạng ở Hải Dương
Bảng 2.5. Bảng Đánh giá của doanh nghiệp về quy trình kinh
8
doanh, cơ sở vật chất, thái độ phục vụ, thời gian thực hiện dịch
vụ đăng ký kinh doanh trên địa bàn Tỉnh
Trang
42
44
53
53
50
54
57
56
8
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp được xem là yếu tố cực kỳ quan trọng, nòng cốt trong
công“cuộc đổi mới đất nước theo đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong thời gian qua Chính phủ đã không ngừng có những chính sách đổi
mới, cải cách hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phát triển kinh tế xã hội, trong đó
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là một
trong những cải cách quan trọng góp phần cải thiện môi trường đầu tư của doanh
nghiệp. Trong thời gian qua công tác cải cách thủ túc đăng ký kinh doanh đã tập
trung giải quyết được nhiều vấn đề, song để tạo điều kiện cho những cá nhân, tổ
chức đăng ký kinh doanh để mở rộng thêm số lượng doanh nghiệp thì vẫn còn hạn
chế. Một trong những nguyên nhân gấy ra tình trạng này là do thủ tục đăng kỳ kinh
doanh còn phức tạp, rườm rà, mất nhiều thời gian nhất là làm giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, khắc con dấu... thời gian để được đăng ký kinh
doanh kéo dài làm giảm nhuệ khí của các doanh nghiệp, chính vì thế nên số lượng
doanh nghiệp tính trên đầu người Việt Nam vẫn”còn thấp hơn so với các nước trong
khu vực.
Hải Dương là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như tiềm năng trong
thu hút đầu tư. Thực hiện mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế xã hội trong giai
đoạn 2016 -2020, Tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tháo gỡ khó khăn,
tinh giảm các thủ tục cho các nhà đầu tư, khuyến khích thu hút đầu tư bên trong và
bên ngoài nên số lượng doanh nghiệp cũng như vốn đăng ký đầu tư kinh doanh ở tỉnh
Hải Dương tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên cũng như một số địa
phương khác thủ tục đăng ký kinh doanh ở Hải Dương vẫn còn một số bất cập, làm
cho các tổ chức và cá nhân còn gặp khó khăn trong thủ tục đăng ký kinh doanh như
thời gian đăng ký kinh doanh còn dài, thủ tục còn rườm rà... nên số lượng doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn có dấu hiệu giảm so với trước đây.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, nên em đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài “Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp tại tỉnh Hải
Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành quản lý kinh tế của mình và qua đó đề
9
xuất một số giải pháp nhằm cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh nhằm hoàn thiện
hơn nữa thủ tục đăng ký kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh
vực ĐKKD.
2.Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu của một số tác giả liên quan đến đề tài
nghiên cứu, cụ thể như sau:
Nguyễn Thị Nga (2016), “Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ ngành Luật hiến pháp – Luật hành chính, trường
Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã hệ thống hóa được các thủ tục hành chính về
đăng ký kinh doanh hiện nay ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh tại Việt Nam.
Trần Thị Tố Uyên (2005), “Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ khoa Luật. Luận văn đã
trình bày thực trạng về pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, những
thành công và những tồn tại hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Yến (2010), “Những quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp
cần được tiếp tục hoàn thiện”, tạp chí Luật học số 9.
Trần Huỳnh Thanh Nghị ( 2011), “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp ở
Việt nam trong chặng đường 10 năm hội nhập quốc tế ( 2000 – 2010), tạp chí Luật
học số 8/2011.
Tuy nhiên trong những đề tài kể trên mới chỉ đưa ra những tiến bộ và hạn
chế của thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp ở thời kỳ khi mà Luật
doanh nghiệp 2005 còn hiệu lực, nhưng cho đến nay khi mà Luật doanh nghiệp
2014 được ban hành và có hiệu lực thì những vấn đề được nghiên cứu trên các công
trình trên đã không còn đáp ứng kịp thời với thực tiễn thi hành. Bởi vậy công trình
nghiên cứu của em là “Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp
tại tỉnh Hải Dương” là công trình độc lập, không trùng lắp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các
doanh nghiệp
10
- Đánh giá thực trạng cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh
nghiệp tại tỉnh Hải Dương
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn nữa thủ tục đăng ký kinh
doanh cho các doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các DN
- Phạm vi nghiên cứu
+Về không gian: Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp
tại tỉnh Hải Dương
+ Về thời gian: Đề tài tập trung vào nghiên cứu cải cách thủ tục đăng ký kinh
doanh cho các doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 2014 - 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích thống kê: tập hợp các kết quả đã thực hiện.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: xem xét, đánh giá tổng hợp các dữ liệu,
thông tin thu thập được.
+ Phương pháp đối chiếu, so sánh
+ Phương pháp thu thập thông qua điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn tới
các chủ doanh nghiệp và công dân tới làm thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký thay
đổi ngành nghề hoặc mở chi nhánh tại Phòng Đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và
Đầu tư tỉnh Hải Dương.
Đối tượng điều tra: các chủ doanh nghiệp, công dân đến làm thủ tục đăng ký
kinh doanh tại Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở KH&ĐT tỉnh Hải Dương.
Nội dung bảng hỏi: Các câu hỏi liên quan đến thực trạng cải cách thủ tục
đăng ký kinh doanh, mức độ hài lòng của người dân với công việc của đội ngũ
nhân viên phục vụ tại tổ một cửa, phòng đăng ký kinh doanh thuộc KH&ĐTtỉnh
Hải Dương.
Địa điểm khảo sát: Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Hải Dương.
11
Số lượng phiếu khảo sát: Số phiếu phát ra 100 phiếu. Số phiếu phát ra 100
phiếu, số phiếu thu về 100 phiếu. Cơ cấu phiếu điều tra: điều tra 50 phiếu đối với các
chủ doanh nghiệp, 50 phiếu đối với công dân đến làm thủ tục đăng ký kinh doanh.
- Nguồn tư liệu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
Các báo cáo của phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải
Dương, thông tin cần thiết qua sách, báo, tạp chí, internet.... và các đề tài nghiên
cứu trước đó có liên quan.
6. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho
các doanh nghiệp tại các địa phương cấp tỉnh;
Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Chương 3: Hoàn thiện cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH
DOANH CHO CÁC DOANH NGHIỆP TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính
1.1.1.1. Khái niệm
Một trong những đặc điểm cơ bản của Nhà nước ta là tổ chức và hoạt“động
theo trật tự pháp lý, nghĩa là pháp luật quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và
trình tự thực hiện thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước
trong việc giải quyết công việc nội bộ nhà nước và công việc liên quan đến cá nhân,
tổ chức. Quản lý nhà nước cũng giống như bất kỳ một loại hoạt động nối tiếp nhau
theo một trình tự nhất định, nói cách khác nó diễn ra theo một thủ tục nhất định.
Vậy thủ tục là gì? theo nghĩa thông thường, thủ tục có nghĩa là phương cách giải
quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể thống nhất. Theo từ điển tiếng
Việt thông dụng, thủ tục là “cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình
tự nhất định, theo quy định của nhà nước”. Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy
tắc, chế độ, phép tắc”hay quy định chung phải tuân theo khi làm việc công.
Thủ tục đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành bộ máy“nhà nước cũng
như bảo đảm quyền và lợi ích của người dân. Chính vì vậy, thủ tục tiến hành các
hoạt động quản lý nhà nước mới được quan tâm cả dưới góc độ nghiên cứu khoa
học, xây dựng pháp luật thực hiện thủ tục trên thực tế. Bản thân thủ tục không có
mục đích tự thân, thủ tục chỉ biểu hiện cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động
của Nhà nước.”
-“Thủ tục hành chính” (TTHC)“là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu
cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết
một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.”
- “Trình tự thực hiện” là thứ tự các bước tiến hành của đối tượng và cơ quan
thực hiện TTHC trong giải quyết một công việc cụ thể cho cá nhân, tổ chức.
- “Hồ sơ” là những loại giấy tờ mà đối tượng thực hiện TTHCcần phải nộp
13
hoặc xuất trình cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết TTHCtrước khi cơ
quan thực hiện TTHCgiải quyết một công việc cụ thể cho cá nhân, tổ chức.
- “Yêu cầu, điều kiện” là những đòi hỏi mà đối tượng thực hiện thủ tục hành
chính phải đáp ứng hoặc phải làm khi thực hiện một thủ tục hành chính cụ thể.
Từ những vấn đề nêu trên có thể định nghĩa: “Thủ tục hành chính là trình tự
thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân tổ chức
được ủy quyền hành pháp trong việc thực hiện công việc của nhà nước và các kiến
nghị yêu cầu thích đáng của công dân, tổ chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính
đảm bảo công vụ nhà nước phục vụ nhân dân.”
Thủ tục hành“chính là do pháp luật quy định, toàn bộ cá quy phạm về thủ tục
hành chính tạo thành chế định quan trọng của luật hành chính. Chỉ các hoạt động
quản lý hành chính nhà nước được quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh mới là
thủ tục hành chính, còn tất cả các hoạt động tổ chức tác nghiệp cụ thể nào đó trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước không được các quy phạm thủ tục hành
chính điều chỉnh thì không phải là thủ tục hành chính.”
1.1.1.2. Đặc điểm thủ tục hành chính
Mặc dù có nhiều TTHC khác nhau nhưng do tính thống nhất của quản lý
hành chính nhà nước nên các thủ tục hành chính có một số đặc điểm chung sau đây:
Thứ nhất, thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện các hoạt“động quản lý nhà
nước hay thủ tục hành chính được thực hiện bởi các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước.Quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, cá nhân được nhà nước trao quyền, trong đó quan trọng nhất phải kể
đến là các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một đặc điểm rất quan trọng của
thủ tục hành chính, nó cho phép phân biệt thủ tục hành chính với các hình thức thủ
tục khác thường được gọi là thủ tục tố tụng được tiến hành tại tòa án.”
Thứ hai, thủ tục hành“chính do quy phạm pháp luật hành chính quy định.
Các quy phạm pháp luật hành chính bao gồm quy phạm nội dung và quy phạm thủ
tục: quy phạm nội dung trực tiếp quy định những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Còn quy phạm thủ tục, quy
phạm cách thức.”
14
Thủ tục hành chính“do nhiều chủ thể tiến hành: thủ tục hành chính liên quan
trực tiếp đến việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể quản lý, nhiều thủ tục hành
chính là thủ tục giải quyết các công việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá
nhân, tổ chức.”
Thứ ba, thủ tục hành chính có tính mềm dẻo, linh hoạt
Hoạt động quản lý nhà nước vốn phong phú, đa dạng. “Nội dung và cách thức
tiến hành từng hoạt động cụ thể chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác như thẩm
quyền năng lực của chủ thể quản lý, đặc điểm của đối tượng ... thủ tục hành chính
với tính chất là cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý đương nhiên
phải linh hoạt mới có thể tạo nên quy trình hợp lý cho từng hoạt động quản lý.
Không chỉ có một mà có rất nhiều thủ tục hành chính.”
Bốn là, các văn bản thủ tục hành chính tản mạn, không tập trung. Các văn
bản chứa đựng các thủ tục hành chính được quy định trong rất nhiều văn bản pháp
luật khác nhau. Chẳng hạn ở lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính có rất nhiều văn
bản cụ thể hóa pháp lệnh được ban hành về xử phạt vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau hoặc có những thủ tục hành chính được quy
định trong các văn bản không phải là luật hành chính.
Như vậy, so“với các quy phạm nội dung của Luật hành chính, thủ tục hành
chính có tính năng động hơn và đòi hỏi phải thay đổi nhanh hơn khi thực tế cuộc
sống đã có những yêu cầu mới. Nếu nhận thức đúng, phù hợp với thực tế khách
quan thì thủ tục hành chính sẽ mang tính tiến bộ, thiết thực phục vụ cho cuộc sống.
Nhưng nếu nhận thức không phù hợp với yêu cầu khách quan thì sẽ xuất hiện những
thủ tục hành chính lạc hậu. Khi áp dụng vào quá trình điều hành của bộ máy Nhà
Nước, chúng sẽ gây khó khăn cho sự phát triển của đời sống xã hội Hoặc có những
trường hợp được ban hành phù hợp với điều kiện khách quan, đòi hỏ của cuộc sống
nhưng bị hạn chế bởi chính những người thực hiện như thói quan liêu, hách dịch,
nhận thức chưa đúng... sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển của xã hội.”
1.1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính“rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Nếu thiếu
15
TTHC cần thiết thì trong nhiều trường hợp có thể một quyết định hành chính sẽ bị
vô hiệu hóa, hoặc bị hạn chế tác dụng. Ví dụ nếu không đăng ký đúng thủ tục thì
một người dân Việt Nam không thể xuất cảnh ra nước ngoài được. Một doanh
nghiệp có thể không được hoạt động nếu chủ doanh nghiệp không làm đủ các thủ
tục đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.Ý nghĩa đầu tiền của thủ tục
hành chính là nó đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy định trong các quyết định
hành chính được thi hành thuận lợi.Thủ tục càng có tính cơ bàn thì ý nghĩa này càng
lớn, bởi vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối của quyết định
hành”chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng.
Một ý nghĩa khác của“thủ tục hành chính là nó đảm bảo cho việc thi hành
các quyêt định thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như
các hệ quả của việc thực hiện các quyết định hành chính tạo ra.”
Ý nghĩa của thủ tục hành chính còn được thể hiện ở chỗ, khi“được xây dựng
và vận dụng một cách hợp lý, các thủ tục hành chính sẽ tạo ra khả năng sáng tạo
trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại hiệu quả
thiết thực cho quản lý Nhà nước. Thủ tục hành chính liên quan đến quyền lợi của
công dân, do vậy khi được xây dựng hợp lý và vận dụng tốt vào đời sống nó sẽ có ý
nghĩa rất thiết thực, làm giảm sự phiền hà cũng cố được mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân. Công việc sẽ có thể được giải quyết nhanh chóng, chính xác theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước, góp phần chống được tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu.
Trong tình hình đó, vai trò của thủ tục hành chính với tư cách là một bộ phận của
thể chế hành chính ngày càng có vai trò hết sức to lớn, đặc biệt là từ khi chúng ta
thực hiện chủ trương cải cách nền hành chính quốc gia và cải cách thủ tục hành
chính, ý nghĩa của thủ tục hành chính được đánh giá đúng mức hơn.”
“Xét trong tổng thể chung của việc xây dựng nền hành chính nhà nước, vì
thủ tục hành chính cũng là một bộ phận của pháp luật về hành chính nên nắm vững
và thực hiện tốt các quy định về thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá
trình củng cố bộ máy nhà nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta
đang tiếp tục công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước
16
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì thủ tục hành chính lại càng có vai trò
quan trọng. Thực tế Đảng, Nhà nước đã và đang đề ra nhiều biện pháp nhằm cải tiến
thủ tục hành chính để chúng ta không những không cản đường mà còn góp phần
tích cực làm cho kinh tế có điều kiện hội nhập và phát triển nhanh hơn. Thông qua
đó là cho tiến trìnhcải cách hành chính ngày càng có những bước đi phù hợp với
tiến trình đổi mới kinh tế và xã hội của đất nước.”
“Khi nói đến ý nghĩa tổng quan của thủ tục hành chính cũng cần nhấn mạnh
đến vị trí của nó trong thể chế của một nền hành chính mà nó góp phần tạo nên.
Chúng ta đều biết rằng các thể chế điều hành đƣợc hình thành trong quá trình quản
lý Nhà nước và chúng góp phần làm giảm bớt tình trạng bất trắc trong hoạt động
điều hành. Chúng giúp cho mọi người biết được cách thức hành động phù hợp với
Luật pháp và được luật pháp bảo vệ. Thể chế và thủ tục hành chính đều liên quan
đến tổ chức hành chính và chúng được đặt ra để cung cấp phương thức hoạt động
cho con người. Những tổ chức sau khi được thành lập muốn hoạt động có hiệu quả
phải có những thể chế thích ứng và hữu hiệu. Chính theo nghĩa này mà thủ tục hành
chính có ý nghĩa như một công cụ điều hành cần thiết”cho bất cứ tổ chức hành
chính nào và ở bất kỳ phạm vi quản lý nào.
“Như thế ý nghĩa của thủ tục hành chính không thể tách rời khỏi hoạt động
của các tổ chức hành chính. Thể chế và thủ tục lạc hậu sẽ cản trở các hoạt động của
bộ máy quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng thể chế điều hành cũng
như thủ tục hành chính tự mình không thể phát huy tác dụng nếu không có một bộ
máy tổ chức được xây dựng khoa học và một chế độ công vụ kiểu mẫu. Đây là một
quan hệ có tính biện chứng, tác động lẫn nhau một cách thường xuyên. Thực tế thời
gian qua đã chứng minh điều này rất rõ ràng. Ở nhiều ngành, nhiều cấp, bộ máy
quản lý tổ chức không khoa học, chức năng nhiệm vụ không rõ ràng, nhiều khi các
thủ tục hành chính đúng đắn đã không được thực hiện. Hệ quả của nó là nhiều chính
sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã chậm được thi hành, thậm chí nhiều chính
sách đã không được đi vào cuộc sống. Vì vậy, đồng thời với nhiệm vụ cải cách thủ
tục hành chính trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, một nhiệm vụ quan trọng
17
vẫn phải thường xuyên quan tâm là xác định một cách rành mạch và có cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính Nhà nước trong quá trình điều hành
công việc.”
Tóm lại,“từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng thủ tục hành
chính là chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan nhà nước với công dân, vàvới các tổ
chức khác. Chiếc cầu nối này có thể tạo ra khả năng làm bền chặt các mối quan hệ
của quá trình quản lý, làm cho nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân và
vì dân. Chính vì vậy, thủ tục hành chính cần phải được xây dựng một cách khoa
học”hơn nữa.
“Thủ tục hành chính trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ
văn hoá của tổ chức. Đây là văn hoá giao tiếp trong bộ máy nhà nước, văn hoá điều
hành. Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển. Chính vì lẽ
đó, cải tiến thủ tục hành chính sẽ không chỉ đơn thuần liên quan đến pháp luật, pháp
chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta mà còn liên quan đến sự phát triển chung của đất
nước về các mặt chính trị, văn hoá, giáo dục và đến sự mở rộng giao lưu giữa nước
ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.”
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại cải cách hành chính
1.1.2.1. Khái niệm cải cách hành chính
Trên thế giới về mặt lý thuyết có nhiều quan niệm khác nhau về cải“cách
hành chính. Có quan niệm cho rằng cải cách hành chính là sự cải tổ và điều chỉnh
cơ cấu tổ chức do đó dẫn đến sự thay đổi về chức năng, phương thức quản lý và cơ
cấu nhân viên. Đây là quan niệm có tính phổ biến và chủ đạo nhất. Song do quan
điểm về ý thức hệ và tình hình thực tế của các nước khác nhau nên nội dung, mục
tiêu cải cách hành chính cũng khác nhau. Tuy vậy, cải cách hành chính đều xuất
phát từ thực tiễn và phát sinh chủ yếu do nguyên nhân sau: yêu cầu tất yếu của phát
triển kinh tế xã hội, yêu cầu tất yếu cảu việc cải tạo, điều chỉnh cơ cấu hành chính,
kết quả tất yếu của sự tác động của tiến bộ khoa học vào quản lý hành chính. Những
yêu cầu của cải cách hành chính liên quan mật thiết với nội dung cải cách hành
chính, đồng thời liên quan chặt chẽ với tính chất của cải cách hành chính. Về tính
18
chất, cải cách hành chính là một sự biến đổi hay cách mạng trong lĩnh vực thượng
tầng kiến trúc và quan hệ sản xuất, có tính chất chính trị và giai cấp rõ rệt. Tuy nhiên
từ góc độ hành chính thì cải cách hành chính phải phục tùng nhu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và thúc đẩy khoa học hóa sự quản lý công việc
của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước. Tuy nhiên tính chất của cải cách hành
chính ở các chế độ xã hội kinh tế”khác nhau, vẫn có sự khác biệt về bản chất.
Thuật ngữ "cải cách" được sử dụng phổ biến“trong ngôn ngữ phương Tây và
phương Đông, được hiểu là một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích
làm thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái
mới. Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ, mức độ khác nhau. Có những hoạt
động cải cách có tính chất cách mạng, có những cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi ít
nhiều so với ban đầu. Cải cách là thay đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho
thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách bao gồm tập hợp
của nhiều cải tiến, sáng kiến, biến đổi. Cải cách còn được xem là một biện pháp
giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và
yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định. Với ý nghĩa đó, cải cách hiện
diện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.”
Thuật ngữ “Hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là“quản lý,
lãnh đạo. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về thuật ngữ này,
tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Tuy có nhiều cách tiếp cận,
nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc trong bất kỳ xã hội nào
cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập những tỉ lệ giữa các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành chính theo nghĩa chung là quản lý
công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và tổ
chức quản lý nhà nước. Về cơ bản, hành chính là tổng thể những hoạt động (thao
tác) nhất định do con người, chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý
nhằm cải tạo khách thể, bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành
chính chính là hoạt động quản lý của con người để tạo ra sự vận hành mang”tính hệ
thống của xã hội.
19
“Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính đã làm rõ ở trên thì cải
cách hành chính chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp
lý hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản lý
các hệ thống. Như vậy, cải cách hành chính (CCHC) là hoạt động cải tạo, nâng
cấp, hoàn thiện công tác quản lý cho tất cả các hệ thống trong xã hội. Song do hành
chính gắn chủ yếu với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị
nên khái niệm cải cách hành chính thường được coi là đồng nhất với khái niệm
CCHC nhà nước.”
1.1.2.2. Đặc điểm của cải cách hành chính
Cải cách hành chính ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
-“Cải cách được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống chính trị một đảng duy
nhất cầm quyền. Mặt thuận lợi từ đặc trưng này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận
trong hoạch định chính sách, biện pháp, thể chế cho cải cách.”
-“Cải cách hành chính diễn ra cùng một lúc với khá nhiều cuộc cải cách
khác, ví dụ như cải cách kinh tế, cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách giáo
dục v.v... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung nhằm bảo
đảm mục tiêu chung của phát triển.”
-“Cải cách hành chính được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành
chính. 6 lĩnh vực cải cách, mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành
phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của cải cách hành chính ở Việt Nam.”
Từ những đặc điểm này rút ra những vấn đề sau:
- Cải cách hành chính không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng
“Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một đảng
duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề cải
cách hành chính. Cải cách hành chính muốn tiến hành dược, muốn duy trì và đẩy
mạnh, trước hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có
những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ trương cải cách hành chính
đã được xác định trong một loạt các nghị quyết của Đảng tại các hội nghị Ban Chấp
20
hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI. Năm 2007
đánh dấu một mốc thời gian quan trọng, chính là vì lần đầu tiên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng có một Nghị quyết riêng về cải cách hành chính, đó là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 7 khóa X.”
Cải cách“hành chính không tách rời sự lãnh đạo của Đảng vừa là bài học
kinh nghiệm, vừa là đặc trưng cải cách của Việt Nam. Mặt thuận lợi của vấn đề này
chính là ở chỗ sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các đảng viên đang giữ các
chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Các thành viên này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về cải cách hành
chính thông qua các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan
hành chính”nhà nước.
- Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một yếu tố bảo đảm cải cách hành
chính đạt kết quả
“Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai trò
quan trọng trong chỉ đạo triển khai cải cách hành chính của đất nước. Từ chủ trương
của Đảng, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch
cải cách hành chính, trên cơ sở đó các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch cải cách
hành chính của mình nhằm bảo đảm mục tiêu chung của cải cách là xây dựng được
một nền hành chính mạnh, hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ.”
Trước đây,“Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và mới đây đã ban hành Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn”2011-2020.
Công tác“chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ”đối với công cuộc
cải cách hành chính có ý nghĩa trên các phương diện:
Bảo đảm rõ định hướng, mục tiêu cải cách hành chính.
Xác định rõ các nhiệm vụ cải cách .
Xác định các trọng tâm, ưu tiên cải cách theo từng thời kỳ.
21
Xác định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính, trước hết là
Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong triển khai cải cách hành chính.
Tổng kết từ thực tiễn cải cách để hoạch định thể chế, cơ chế mới, có tính
chất áp dụng chung trong cả nước.
- Cải cách hành chính triển khai với nhiều nội dung, vì vậy hết sức khó khăn
và phải làm lâu dài
“So với nhiều nước có tiến hành cải cách hành chính thì cải cách hành chính
ở Việt Nam được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục
tới con người, các cơ chế hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính
v.v.... Có thể nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính quốc gia
đều đòi hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn giản và
cũng không thể sớm đạt kết quả. Vấn đề này chi phối trước hết công tác xây dựng
kế hoạch cải cách hành chính của các bộ, ngành và địa phương. Kế hoạch phải bao
quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa vào phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan.
Kể đến là công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện trong thực tiễn.”
-“Bảo đảm tính đồng bộ của cải cách hành chính với các cuộc cải cách khác
trong hệ thống chính trị”
“Việt Nam cùng một lúc tiến hành một loạt các cải cách: cải cách lập pháp,
cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục v.v... Mỗi cuộc cải cách theo
đuổi các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề đan xen giữa các
cuộc cải cách, thậm chí có vấn đề không thể nói chỉ thuộc một cuộc cải cách riêng
biệt. Chính vì vậy, tính đồng bộ giữa các cuộc cải cách này có ý nghĩa quan trọng,
nó tạo ra sự thống nhất ở tầm vĩ mô như hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật
để bảo đảm các cuộc cải cách có thể tốt hơn, không gặp trở ngại.”
Tuy nhiên,“thực tiễn có lúc không diễn ra như vậy. Từ góc độ cục bộ của
ngành, lĩnh vực, đã có lúc các bộ chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội thông qua
và khi ban hành mới thấy rõ sự cản trở về cải cách hành chính đang được triển khai,
làm cho thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý của các bộ phức tạp hơn”
người dân, tổ chức phải vất vả hơn trong giải quyết công việc của mình.
22
- Cải cách hành chính đòi hỏi phải có những thí điểm
Trong quá trình“cải cách, nhiều vấn đề trì trệ của nền hành chính được phát
hiện và các giải pháp được đề xuất để thay đổi. Thông thường, các giải pháp đó về
bản chất khác hẳn giải pháp hiện hành, lại chưa được kiểm nghiệm tính đúng đắn và
chưa được thể chế hóa. Do vậy, hết sức cần thiết có sự thí điểm để qua thực
tiễn”xem xét tính phù hợp của các giải pháp.
1.1.2.3. Mục tiêu của cải cách thủ tục hành chính
Cải cách“thủ tục hành chính không những là yêu cầu khách quan của nền
kinh tế, của các tầng lớp dân cư và cộng đồng quốc tế đòi hỏi mà còn là nhu cầu tự
thân của hoạt động quản lý hành chính”nhà nước.
Mục tiêu trước mắt của cải cách thủ tục hành chính mà Đảng và Nhà nước ta
chủ trương là phải đạt được chuyển biến căn bản trong quan hệ về thủ tục giải quyết
công việc của công dân và tổ chức gồm:
Một là, phát hiện“và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, chồng
chéo, rườm rà, phức tạo đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công
việc giữa cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với công dân và tổ
chức. Những thủ tục như cấp phép, đăng ký, chứng thực, chứng nhận...ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của tổ chức công dân nhưng lại do từng ngành, từng địa phương
ban hành nên rất dễ mâu thuẫn, chồng chéo, khó thực hiện, nhiều cơ quan tự ý đặt
ra các khoản phí, lệ phí không đúng thẩm quyền hoặc thu phí và lệ phí quá mức quy
định, không công khai các quy định về thủ tục cho dân biết.... đã làm ảnh hưởng đến
lòng tin của người dân đối với cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý hành
chính Nhà nước.”
“Hai là, xây dựng và ban hành các thủ tục hành chính giải quyết công việc
đơn giản, rõ ràng, thống nhất, đúng pháp luật và công khai, vừa tạo thuận tiện cho
công dân và tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc, vừa giữ vững kỷ cương ngăn
chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu và tham nhũng trong công chức nhà nước, đồng thời
vẫn bảo đảm được trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước. Thủ tục hành chính và
việc thi hành nghiêm túc các thủ tục hành chính là hai mặt của hoạt động quản lý
23
hành chính nhà nước. Thủ tục hành chính khoa học, chặt chẽ đơn giản, đáp ứng các
yêu cầu đặt ra sẽ được nhân dân đồng tình ủng hộ. Ngược lại thủ tục hành chính
không sát với thực tế, phực tạp sẽ khó có thể đi vào cuộc sống.”
“Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính thông qua việc xây dựng và thực hiện
được các thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng thống nhất đúng pháp luật và công
khai, minh bạch vừa là mục tiêu trước mắt đồng thời cũng là mục tiêu lâu dài của
công cuộc cải cách nền hành chính nước ta.”
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của thủ tục đăng ký kinh doanh và cải cách
thủ tục đăng ký kinh doanh
1.1.3.1.Khái niệm đăng ký kinh doanh
Thuật ngữ “kinh doanh” hay “thương mại” (tiếng Anh là “bussines hay
Trade) xuất hiện từ thế kỷ XI cùng với sự hình thành và phát triển của các thương
nhân, phường hội buôn bán. Cho đến ngày nay khái niệm “kinh doanh” có nhiều
cách hiểu khác nhau tùy theo từng góc độ.Về mặt từ ngữ, từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên đã giải thích thuật ngữ “Kinh doanh” theo hai nghĩa: thứ nhất
“Kinh doanh” có nghĩa là gây dựng mở mang thêm, và nghĩa thứ hai là tổ chức sản
xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời.
“Dưới góc độ pháp lý Luật doanh nghiệp Việt Nam định nghĩa “kinh doanh
là thực hiện liên tục một hoặc một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lời””
“Theo“Nghị định 78/2015/NĐ - CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 định nghĩa
Đăng ký doanh nghiệp là việc người thành lập doanh nghiệp đăng ký thông tin về
doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký những thay đổi hoặc dự kiến
thay đổi trong thông tin về đăng ký doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh
và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng ký
doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung
đăng ký doanh nghiệp và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định”của
Nghị định này.
24
Hành vi kinh doanh có các dấu hiệu sau:
Hành vi phải mang tính chất nghề nghiệp.“Tính chất nghề nghiệp được thể
hiện ở các đặc điểm chủ thể thực hiện hành vi khi tham gia thương trường theo sự
phân công lao động xã hội; các hành vi được tiến hành thường xuyên, ổn định, đều
đặn, có tính chất chuyên nghiệp cao và mang lại nguồn thu nhập chính cho người
thực hiện hành vi;”
“Hành vi phải được thực hiện một cách độc lập. Các chủ thể nhân danh chính
mình để tiến hành hoạt động kinh doanh, tự quyết định và chịu trách nhiệm trước
mọi vấn đề liên quan; ”
Hành vi có mục đích sinh lời
1.1.3.2. Khái niệm thủ tục đăng ký kinh doanh
Như vậy, Đăng ký kinh doanh (thành lập doanh nghiệp) là việc Nhà“nước
ghi nhận về mặt pháp lý sự ra đời của một chủ thể kinh doanh ( chủ thể kinh doanh
ở đây bao gồm các cá nhân, tổ chức). Kể từ thời điểm đăng ký kinh doanh chủ thể
kinh doanh có đầy đủ các năng lực pháp lý (tư cách chủ thể) để tiến hành hoạt động
kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhà nước cung cấp những đảm bảo đầy đủ
về mặt chính trị - pháp lý để chủ thể kinh doanh”có điều kiện thực hiện hoạt động
kinh doanh.
“Đăng ký kinh doanh (thành lập doanh nghiệp) là một thủ tục hành chính bắt
buộc theo đó chủ thể kinh doanh tiến hành đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và công khai hóa sự ra đời và hoạt động kinh doanh của mình với giới
thương nhân và cộng đồng. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có nghĩa vụ xem xét
và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho chủ thể kinh doanh theo đúng quy
định của pháp luật. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là căn cứ pháp lý xác lập
quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh dưới sự quản lý của Nhà nước đồng thời
cũng ghi nhận tư cách pháp nhân, tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh, sự bảo
hộ của Nhà nước với chủ thể kinh doanh.”
1.1.3.3. Đặc điểm của thủ tục đăng ký kinh doanh
“Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp mang đậm đặc trưng của một thủ
25
tục hành chính như:”
Một là,“để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay thay đổi nội
dung đăng ký kinh doanh chủ thể kinh doanh phải tuân thủ những trình tự, thủ tục
về đăng ký kinh doanh theo luật định mà ở đây là Luật doanh nghiệp 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.”
Hai là,“đồng nghĩa với việc được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, chủ thể kinh
doanh đã chính thức được xác lập tư cách pháp nhân, được Nhà nước ghi nhận sự tồn
tại dưới góc độ pháp lý, chịu sự quản lý trực tiếp bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.1.3.4. Ý nghĩa của thủ tục đăng ký kinh doanh ”
Ý nghĩa của“thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đối với cơ quan
quản lý Nhà nước”
“Đăng ký thành lập doanh nghiệp là một trong những công cụ để nhà nước
thực hiện chức năng quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Vậy nên, việc cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là sự ghi nhận về mặt pháp lý của Nhà nước
đối với sự ra đời và tư cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh. Sự ghi nhận về mặt
pháp lý này được quy định cụ thể tại các Điều 47, 73,110, 172 Luật doanh nghiệp
2014 đó là khi chủ thể kinh doanh lựa chọn loại hình doanh nghiệp và hoàn thất thủ
tục đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì tư cách pháp nhân
của chủ thể”kinh doanh được xác lập“ kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp”.
“Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là một trong những phương thức
để Nhà nước kiểm tra và giám sát hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh.”
“Ý nghĩa của thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đối với cá nhân, tổ
chức thành lập doanh nghiệp”
“Đối với cá nhân, tổ chức thành lập doanh nghiệp ở đây gọi chung là chủ thể
kinh doanh thì đăng ký kinh doanh là một trong những công cụ để bước đầu thực
hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật mà cụ thể là được khẳng
định rõ trong Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không