Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận thủ tục đăng ký doanh nghiệp và cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.24 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

Đề tài Nhóm 7:
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ CẢI CÁCH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ
KINH DOANH

Thành viên nhóm 7:
1. Nguyễn Văn Cường
2. Trần Thanh Hoàng
3. Đỗ Thủy Tiên
4. Nguyễn Lê Thành Minh

TPHCM, tháng 6 năm 2015


Tóm tắt
Đề tài gồm các phần:
Phần 1: Thủ tục Đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014
Phần 2: Các thủ tục quy định tại Luật Đầu tư 2014 (ngoài phần Đăng ký kinh doanh
có điều kiện)


Phần 3: Các thủ tục quy định tại Luật Đầu tư 2014 (phần Đăng ký kinh doanh có
điều kiện)

Phần 4: Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh tại VN
Kết luận

Phần 1: Thủ tục Đăng ký doanh nghiệp



1.1.

Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014

1- Thủ tục thành lập doanh nghiệp hiện nay:
1.1- Thủ tục hành chính:
- Thẩm quyền cấp phép: Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch & Đầu tư
tỉnh / thành phố trực thuộc Trung ương
- Thời gian giải quyết 05 ngày
- Hồ sơ: Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; điều lệ công ty; danh sách thành
viên; bản sao các giấy tờ như: thẻ căn cước công dân, giấy chứng minh nhân dân, hộ
chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của các thành viên …
1.2- Khắc dấu công ty
1.3- Hoàn thành thủ tục sau thành lập:
- Nộp tờ khai đăng ký phương pháp tính thuế theo hình thức khấu trừ để được
pháp sử dụng hóa đơn GTGT.
- Tiến hành thủ tục xin đặt in hóa đơn.
- Nộp thuế môn bài và tờ khai thuế môn bài.
- Lập tài khoản ngân hàng và bổ sung thông tin cho chi cục thuế quản lý trực tiếp.
1.4- Theo Luật Doanh nghiệp 2014 thủ tục thành lập doanh nghiệp được đơn
giản hóa hơn:
- Hồ sơ không cần phải có văn bản xác nhận vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề;
- Giảm thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCNĐKDN) xuống 03
ngày làm việc (hiện nay là 05 ngày);
- Nội dung GCNĐKDN chỉ còn 4 mục chính, bỏ mục ngành nghề kinh doanh, số cổ
phần và giá trị vốn cổ phần đã góp của công ty cổ phần…


Ngoài ra, các trường hợp sau sẽ bị thu hồi GCNĐKDN:
- Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký DN là giả mạo;

- DN do người bị cấm thành lập DN đăng ký thành lập;
- DN ngừng hoạt động 01 năm mà không thông báo cơ quan đăng ký kinh doanh và
cơ quan thuế;
- DN không gửi báo cáo đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06 tháng, từ
ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản;
- Do tòa án quyết định.
Luật này có hiệu lực từ ngày 01/7/2015.
* Luật doanh nghiệp sửa đổi 2014 có những điểm mới nổi bật về vấn đề thành lập
doanh nghiệp như sau:
- Thứ nhất là về đăng kí kinh doanh: Luật DN sửa đổi 2014 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp khi quy định giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh không bắt
buộc ghi ngành nghề kinh doanh; Tách bạch giấy chứng nhận đầu tư và giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh; Bãi bỏ các yêu cầu và điều kiện kinh doanh tại thời điểm đăng kí
thành lập doanh nghiệp; Hài hoà thủ tục đăng kí doanh nghiệp với thuế lao động, bảo
hiểm xã hội; Doanh nghiệp tự quyết con dấu, nội dung và hình thức con dấu; Doanh
nghiệp có thể có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật.
- Thứ hai là về góp vốn điều lệ kinh doanh: Nhằm giải quyết những vướng mắc,
tranh chấp phát sinh trong thực tiễn áp dụng các quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005,
luật DN sửa đổi 2014 đã có áp dụng thống nhất thời hạn phải thanh toán đủ phần vốn góp
khi thành lập công ty; Thống nhất các khái niệm về vốn công ty cổ phần như cổ phần
được quyền phát hành và cổ phần đã phát hành; Chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty cổ
phần không phải là công ty cổ phần đại chúng.


- Thứ ba là mô hình quản trị công ty cổ phần: Mô hình tổ chức quản trị theo Luật
doanh nghiệp 2014 cấu trúc mô hình sẽ gồm: Đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị
(thành viên, thành viên độc lập), Giám đốc/tổng giám đốc..
- Thứ tư là doanh nghiệp có thể có nhiều người đại diện pháp luật: Công ty
trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại
diện theo pháp luật. Tùy thuộc vào nhu cầu quản trị của mỗi doanh nghiệp, doanh nghiệp

có quyền quyết định số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ cụ thể của người đại
diện theo pháp luật tại điều lệ.
Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư
trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì
người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam.
Nếu hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở
lại Việt Nam và không có ủy quyền khác, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong phạm vi đã
được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm
việc, hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị quyết
định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đây là điểm
mới, tiến bộ của Luật Doanh nghiệp 2014 khi đưa ra cơ chế giải quyết trong trường hợp
người đại diện theo pháp luật thường xuyên vắng mặt tại Việt Nam.
- Thứ năm là thời gian cấp Giấy phép kinh doanh: Luật Doanh nghiệp 2014 đã
rút ngắn thời hạn xem xét, cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp còn 3 ngày làm
việc kể từ ngày nhận hồ sơ trong khi theo quy định hiện nay (Luật doanh nghiệp 2005) là
10 ngày làm việc.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc
bản điện tử và sẽ không có nội dung ngành, nghề kinh doanh.


- Thứ sáu, doanh nghiệp có quyền quyết định hình thức, số lượng, nội dung
con dấu: Theo quy định hiện nay, mỗi doanh nghiệp chỉ được sử dụng một con dấu, trừ
một số trường hợp được chấp thuận sử dụng con dấu thứ hai và phải được đăng ký mẫu
tại cơ quan công an. Kể từ ngày 01/07/2015, doanh nghiệp có quyền quyết định về hình
thức, số lượng, nội dung con dấu của doanh nghiệp nhưng phải bảo đảm thể hiện nội
dung về tên và mã số doanh nghiệp, đồng thời phải được thông báo mẫu con dấu với cơ
quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp.

- Thứ bảy, thời hạn góp vốn rút ngắn còn 90 ngày: Chủ sở hữu, thành viên công
ty TNHH phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh
nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp trong khi quy định hiện tại về thời thời hạn góp vốn tối đa là 36 tháng. Tuy nhiên,
đối với các công ty TNHH được thành lập trước ngày 01/07/2015, thời hạn góp vốn vẫn
được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty.
2- SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
2.1. So sánh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập
2.1.1. So sánh về loại hình doanh nghiệp tư nhân
Đây là hình thức kinh doanh lâu đời và thường được sử dụng cho những cá nhân
muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh riêng lẻ, cá thể dưới hình thức chủ sở hữu duy
nhất. Pháp luật Mỹ gọi hình thức này là cá thể kinh doanh (sole proprietorship hoặc
individual proprietorship), các cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tiến
hành các hoạt động kinh doanh nhân danh tên của họ hoặc tên gọi thương mại mà không
cần phải làm thủ tục xin phép.
Theo luật Malaysia và Singapore, doanh nghiệp tư nhân là hình thức kinh doanh do
một người có thể là thể nhân hoặc pháp nhân thành lập, có toàn quyền quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh, chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của doanh
nghiệp. Theo luật Malaysia và luật Singapore, một công ty có thể trở thành chủ sở hữu


một doanh nghiệp tư nhân. Điều này không được thừa nhận trong luật của Thái Lan và
Philippines. Ở Thái Lan và Philippines, hình thức này chỉ có thể do thể nhân thành lập.
Có thể thấy một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và một số nước
trong quan niệm về loại hình doanh nghiệp này. Nếu như Mỹ coi đây là hình thức kinh
doanh của cá nhân và có thể hoặc không cần phải đăng ký kinh doanh thì các nước
như Việt Nam và Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines lại coi đây là một loại
hình doanh nghiệp và phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Bên cạnh đó, chủ thể của loại hình kinh doanh này cũng được chia thành hai
trường phái: đối với pháp luật của các nước Mỹ, Việt Nam, Thái Lan và Philippines thì

chỉ quy định cho cá nhân, còn đối với pháp luật của Singapore và Malaysia có thể do thể
nhân thành lập. Tuy vậy, về bản chất, loại hình doanh nghiệp này có những đặc điểm
chung mà pháp luật các nước đều thừa nhận là chủ doanh nghiệp có thể toàn quyền định
đoạt công việc kinh doanh của mình, được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu được và phải
mang toàn bộ tài sản để chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
2.1.2. So sánh về loại hình công ty hợp danh
Anh là một nước có truyền thống pháp luật lâu đời về hợp danh. Hợp danh của Anh
được chia làm hai loại là Hợp danh thông thường (hay đầy đủ) (The full partnership)
và Hợp danh TNHH (The limited partnership).
Theo quan niệm của các nhà làm luật Mỹ thì “hợp danh là một sự liên kết tự nguyện
của ít nhất hai người trở lên nhằm thực hiện công việc kinh doanh như những người đồng
sở hữu, vì mục tiêu lợi nhuận”.
Theo luật Singapore, hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh
doanh nhằm thu lợi. Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh theo luật Singapore là 2
và tối đa là 20. Philippines và Thái Lan quy định về hợp danh hữu hạn còn Singapore
và Malaysia thì không có loại hình hợp danh hữu hạn.
Pháp luật Việt Nam cũng giống pháp luật các nước khi quy định hợp danh được
thành lập vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận, phải do ít nhất hai người trở lên thành lập và


là chủ sở hữu chung. Tuy nhiên, nếu như các nhà làm luật Mỹ, Anh, Singapore quan
niệm hợp danh là một sự liên kết, tức là chỉ cần chứng minh giữa hai người có sự liên
kết với nhau để kinh doanh như hai chủ sở hữu vì mục tiêu lợi nhuận thì đó là hợp
danh thì theo luật Việt Nam hợp danh là một công ty.
Về thủ tục thành lập hợp danh, các nước quan niệm hợp danh chỉ là sự liên kết
thì không nhất thiết phải tiến hành các thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (trừ loại hợp danh hữu hạn). Còn những nước xác định hợp danh là công ty thì
chỉ được công nhận là hợp danh khi đã trải qua những thủ tục pháp lý thành lập công ty.
Pháp luật của nhiều nước quan niệm rằng hợp danh có tư cách pháp nhân (luật
Philippine, Việt Nam), nhiều nước lại cho rằng hợp danh không có tư cách pháp nhân

(pháp luật Singapore và Malaysia) hoặc xem xét tư cách pháp nhân của hợp danh thông
qua việc nó có được đăng ký trước cơ quan nhà nước hay không vì ở nước đó hợp danh
có thể đăng ký hoặc không đăng ký, nhưng chỉ khi đăng ký thì mới có tư cách pháp
nhân (pháp luật Thái Lan).
Ngoài ra, việc phân chia hay không phân chia hợp danh thành hai loại thông thường
và hữu hạn cũng tạo nên sự khác biệt giữa pháp luật các nước về vấn đề hợp danh.
2.1.3. So sánh về loại hình công ty cổ phần
Ở Pháp, công ty cổ phần, hay còn gọi là công ty vô danh (Société Anonyme –SA)
được ra đời khá sớm. Ngoài SA, Pháp còn có loại hình công ty cổ phần đơn giản
(Société par actions simplifiée – SAS). Ở Nhật Bản, công ty cổ phần được gọi là
Kabushiki-Kaisha (KK). Loại hình công ty cổ phần của Trung Quốc được quy định tại
Điều 79 Luật công ty Trung Quốc 2005. Pháp luật Mỹ quy định hai loại hình công ty cổ
phần: công ty cổ phần công cộng hay công ty chứng khoán (Public stock companies) và
công ty cổ phần tư nhân (Private stock companies). Tương tự như luật Mỹ, Luật
Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia cũng chia công ty cổ phần thành hai loại.
Luật Philippines gọi là Ordinary Corporation và Close Corporation còn luật Singapore,


Thái Lan, Malaysia gọi là Public Limited Company và Private Limited Company.
Công ty cổ phần của Việt Nam được quy định tại Điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005.
Về bản chất của công ty cổ phần, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước không
có sự khác biệt khi quan niệm đây là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn với đặc
điểm quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của cá nhân, các
thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà
họ góp vào công ty; vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần, trong quá trình
hoạt động, công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công
khai huy động vốn trong công chúng.
Sự khác nhau là trong quy định về số lượng thành viên, cách thức góp vốn, cơ chế
quản lý điều hành công ty cổ phần. Nhật Bản quy định tối thiểu phải có 7 thành viên,
Trung Quốc tối thiểu là 2 tối đa là 200, Singapore và Malaysia không quá 50 cổ đông

còn Philippines không quá 20, Thái Lan không quá 99 cổ đông (đối với công ty cổ phần
hạn chế), còn theo pháp luật Việt Nam số thành viên công ty cổ phần tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
Nhiều nước phân chia công ty cổ phần thành nhiều loại, tương ứng với nó là những
quy chế pháp lý được quy định rất cụ thể cho từng loại (Pháp, Mỹ, Singapore Thái
Lan, Philippines, Malaysia). Nước ta do hình thức công ty cổ phần mới xuất hiện vài
chục năm gần đây, đặc biệt là thị trường chứng khoán cũng mới ra đời nên so với các
nước có bề dày lịch sử hàng trăm năm, pháp luật về công ty cổ phần ở nước ta vẫn còn
khá sơ sài cũng là điều không khó để lý giải.
2.1.4. So sánh về loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
Pháp luật của các nước đều có quy định về loại hình công ty TNHH với những
điểm chung về tính chịu trách nhiệm hữu hạn của nó. Chính vì vậy, trên bảng hiệu, hoá
đơn và các tài liệu giao dịch của loại hình công ty này phải ghi rõ tên công ty gắn với
loại hình công ty “TNHH” để công khai trước các đối tác về tính chịu trách nhiệm (hữu
hạn) của công ty đối với các chủ nợ của mình. Theo pháp luật một số nước, nếu công ty


vi phạm điều này thì phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những người có quan hệ giao
dịch với công ty, bởi sự vi phạm này được coi là sự lừa dối trong kinh doanh.
Tuy nhiên, pháp luật các nước có nhiều sự khác biệt khi quy định về số lượng
thành viên của công ty TNHH, tư cách thành viên tham gia công ty TNHH, sự phân
loại công ty TNHH và tương ứng với nó là cơ chế quản lý, điều hành có thể khác
nhau đối với từng loại công ty TNHH cụ thể. Pháp, Trung Quốc, Việt Nam đều chia hai
loại hình TNHH một thành viên và từ hai thành viên trở nên. Mỹ không giới hạn về số
lượng thành viên cho một công ty TNHH còn Pháp, Trung Quốc và Việt Nam đều giới
hạn không vượt quá 50.
2.2- So sánh về một số điều kiện thành lập doanh nghiệp
2.2.1- So sánh điều kiện về chủ thể
Cùng quy định về chủ thể nhưng pháp luật các nước có hai dạng: hoặc là quy
định chung chung hoặc là quy định cụ thể trong luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp

Philippines và Thái Lan chỉ quy định chung: người sáng lập phải có đầy đủ năng lực pháp
luật còn Luật doanh nghiệp Singapore và Malaysia quy định cụ thể hơn: người từ 21 tuổi
trở lên mới được thành lập doanh nghiệp. Về lý lịch tư pháp, Luật Philippines không quy
định nhưng luật Thái Lan, Singapore và Malaysia đều quy định những người đang làm
thủ tục phá sản mà không được phép của Tòa án cũng không được tham gia thành lập
doanh nghiệp.
Pháp luật Malaysia và Singapore không hạn chế người nước ngoài thành lập hoặc
tham gia vào các công ty. Người nước ngoài đáp ứng được những yêu cầu có thể thành
lập doanh nghiệp theo cách tương tự như người dân địa phương. Còn luật Philippines và
Thái Lan quy định người sáng lập công ty không nhất thiết phải là công dân nước mình
(có thể là người nước ngoài) nhưng phải là người thường trú tại đó. Pháp luật một số
nước còn quy định cụ thể quốc tịch của một số thành viên chủ chốt trong công ty sẽ
được thành lập. Có nước còn quy định riêng những điều kiện về chủ thể tương ứng với
các loại hình doanh nghiệp.


So với pháp luật nhiều nước thì Luật Doanh nghiệp Việt Nam quy định khá cụ thể và
chi tiết những đối tượng không được thành lập và quản lý doanh nghiệp (Khoản 2 Điều
13 Luật Doanh nghiệp). Tuy nhiên, vấn đề xác minh, thẩm định điều kiện về chủ thể vẫn
còn là một bài toán khó đang đặt ra với các cơ quan chức năng của Việt Nam khi xem xét
hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp.
2.2.2. So sánh điều kiện về vốn góp
Luật Liên bang Nga quy định: đối với công ty TNHH thì mức vốn điều lệ tối thiểu
là bằng 100 lần mức lương tối thiểu; đối với công ty cổ phần thì mức vốn điều lệ tối
thiểu là bằng 1000 lần mức lương tối thiểu tại thời điểm thành lập doanh nghiệp. Luật
Cộng hòa liên bang Đức quy định: mức vốn điều lệ tối thiểu đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn là 25.000 Euro, mức tối thiểu của mỗi phần vốn góp là 100 Euro. Vốn tối thiểu
đối với công ty cổ phần là 50,000 Euro. Theo Luật Doanh nghiệp Trung Quốc 2005, vốn
điều lệ tôi thiêu cua môt công ty TNHH la 30.000 Nhân dân tê, công ty cô phân la 5
triêu Nhân dân tê và đôi vơi công ty TNHH môt thành viên là 100.000 Nhân dân tê. Nhà

đầu tư ở Pháp có thể thành lập công ty TNHH chỉ với 1 Euro. Điều này cũng tương tự
như ở Nhật, các công ty này có thể bắt đầu với số vốn rất tượng trưng thậm chí chỉ cần 1
Yên trở lên.
Không chỉ quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu, pháp luật của một số nước còn quy
định rất cụ thể về cách thức góp vốn, tiến độ góp vốn, xác định việc góp vốn.
Như vậy, điều kiện về vốn được quy định khá khác nhau trong pháp luật của các
nước. Có nước quy định, có nước không quy định vốn tối thiểu khi thành lập. Mức vốn
tối thiểu đặt ra cũng rất khác nhau, cơ chế kiểm tra, xác định vốn góp khi thành lập cũng
được chú trọng ở mức khác nhau tuỳ theo quan niệm của nước đó cần sự quản lý chặt chẽ
hay tạo điều kiện thông thoáng cho doanh nghiệp khi thành lập. Việc định tiến độ góp
vốn tại thời điểm đăng ký kinh doanh và khoảng thời gian tiếp sau đó cũng được quy
định khác nhau ở từng nước, đặc biệt, pháp luật Việt Nam không hề quy định về vấn đề
này.


2.2.3. So sánh điều kiện về ngành nghề đăng ký kinh doanh
Pháp luật các nước không quy định cụ thể, chi tiết danh mục các ngành nghề được
phép đăng ký kinh doanh ngay trong luật doanh nghiệp hay luật công ty như những điều
kiện về chủ thể hay về vốn mà thường quy định ở những đạo luật riêng. Có lẽ do các lĩnh
vực ngành nghề rất phong phú, không thể liệt kê trong luật. Thông thường, luật doanh
nghiệp của các nước dẫn chiếu tới luật khác để khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể
lựa chọn ngành nghề phù hợp và thường chỉ quy định chung mang tính gợi mở như được
phép kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm hoặc đối với những ngành
nghề đặc biệt phải thoả mãn những điều kiện nhất định và được sự cho phép của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2.4. So sánh điều kiện về tên của doanh nghiệp
Nhiều nước quy định điều kiện về tên của doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp,
luật công ty như một phần trong các văn bản đó (Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan)
nhưng cũng có nước quy định ở hẳn một đạo luật riêng (Philippine). Đặc biệt, đối với
một số nước lại có yêu cầu riêng về tên doanh nghiệp tương ứng với loại hình doanh

nghiệp (quy định về đặt tên đối với hợp danh trong luật của Thái Lan).
Pháp luật một số nước còn có những yêu cầu riêng về tên đối với từng loại hình doanh
nghiệp bên cạnh những yêu cầu chung và quy định rất cụ thể về việc đăng ký và bảo lưu
tên gọi trong một khoảng thời gian nhất định trong khi làm các thủ tục khác. Việc xử lý
vấn đề trùng tên gọi hay tên gây nhầm lẫn cũng được pháp luật nhiều nước quy định cụ
thể trong luật.
Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể và chi tiết về tên của doanh nghiệp tuy nhiên vấn
đề bảo lưu tên gọi lại không thấy xuất hiện trong Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam
và việc giải quyết tranh chấp về tên gọi, việc chứng nhận tên đã đăng ký coi đó như là
một thứ tài sản vô hình của doanh nghiệp cũng chưa được chú trọng đúng mức như pháp
luật của nhiều nước.
2.3. So sánh về thủ tục thành lập doanh nghiệp


Quy định về trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp trong pháp luật của các
nước không có sự đồng nhất. Có nước quy định chung cho tất cả mọi loại hình doanh
nghiệp và chỉ bổ sung thêm những nội dung cần thiết riêng cho từng loại hình. Có nước
lại quy định trình tự, thủ tục riêng cho từng loại hình ở trong từng đạo luật cụ thể
(Anh, Mỹ). Đây là những nước mỗi một loại hình doanh nghiệp có một đạo luật riêng
điều chỉnh và trong đó quy định luôn trình tự, thủ tục thành lập cho loại hình doanh
nghiệp đó.
2.3.1. Các thủ tục chuẩn bị thành lập doanh nghiệp
Vai trò chính trong giai đoạn này là những người sáng lập. Quy định về sáng lập viên
ở pháp luật các nước khác nhau. Mỹ và Trung Quốc quy định rất cụ thể về sáng lập
viên tuy nhiên ở Việt Nam chưa quy định cụ thể về đối tượng này trong Luật Doanh
nghiệp, đặc biệt là trong trường hợp đó là những người chỉ đứng ra thành lập công ty rồi
bán lại hoặc những người chuyên tiến hành dịch vụ thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật mỗi nước quy định về hồ sơ và các loại giấy tờ cần thiết phải nộp
không giống nhau nhưng đều nhấn mạnh tầm quan trọng và quy định khá chi tiết về điều
lệ và đăng ký điều lệ. Pháp luật nhiều nước đã mẫu hóa, thống nhất các loại văn bản,

giấy tờ để đơn giản, thuận tiện cho cơ quan nhà nước khi xét duyệt cũng như người dân
khi làm các thủ tục.
2.3.2. Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
Việc nộp hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có thể trực tiếp do các thành viên sáng lập tiến hành hoặc có thể thông qua các văn phòng
tư vấn pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Nhiều nước quy định người thành lập
doanh nghiệp phải đến làm thủ tục trực tiếp tại cơ quan quản lý nhà nước nhưng
cũng có nước chỉ cần thông qua hệ thống điện tử.
Tùy theo truyền thống của từng nước, cơ quan đăng ký thành lập doanh nghiệp có thể
là cơ quan hành chính hoặc Toà án. Một số nước như Pháp, Đức, Ba Lan… tổ chức cơ
quan đăng ký thành lập doanh nghiệp nằm trong hệ thống Toà án, nhưng đa phần các


nước như ở Thuỵ Điển, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam… thiết lập một cơ
quan chuyên trách thực hiện công việc này.
Pháp luật nhiều nước đều quy định về lệ phí, tuy nhiên, cơ sở để tính mức lệ phí có sự
khác nhau: có thể ấn định mức khung cho từng loại hình doanh nghiệp và có sẵn trong
bảng niêm yết, có thể là mức lệ phí giao động dựa trên những căn cứ nhất định, chẳng
hạn dựa trên số vốn thành lập. Theo pháp luật Việt Nam, lệ phí đăng ký được xác
định căn cứ vào số lượng ngành, nghề đăng ký kinh doanh; người thành lập doanh
nghiệp phải nộp lệ phí đăng ký doanh nghiệp tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp.
Theo pháp luật Thái Lan, thời gian đăng ký thành lập công ty là 3-4 tuần; Philippin là
15 ngày theo thường lệ, 2 ngày theo “kênh hoả tốc”; Singapore là 10 ngày, Malaysia từ
2-3 tuần; Mỹ từ 1-3 tuần. Còn theo pháp luật Việt Nam, trong thời hạn 3 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Cơ quan ĐKKD phải cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp.
2.3.3. Các thủ tục sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp
Sau khi đăng ký thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành công bố thông tin về nội dung
đã đăng ký. Theo pháp luật Singapore, các công việc doanh nghiệp cần làm ngay

sau khi đăng ký thành lập là: gửi bản khai báo chi tiết về các giám đốc, nhân viên quản
lý, thư ký và kiểm toán viên… trong vòng 1 tháng kể từ khi thành lập với các giấy tờ
khác của công ty.
Theo luật Mỹ, trong vòng 1 tháng sau ngày đăng ký tại cơ quan nhà nước, một công
ty cổ phần bắt buộc phải đăng ký các vấn đề chia sẻ quyền hạn, phân công trách nhiệm
giữa các thành viên sáng lập trong tổ chức của công ty cổ phần tại Cơ quan Thị trường
Tài chính Liên bang. Theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, sau khi doanh nghiệp
được thành lập phải thực hiện nghĩa vụ công bố trên Công báo của Chính phủ tóm tắt
những nội dung ghi trong sổ đăng ký.


Không có sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trong
quy định về những công việc mà doanh nghiệp phải tiến hành sau khi đã đăng ký thành
lập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như đăng thông báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng, thông báo cho các cơ quan chức năng có liên quan, cung cấp thông tin
cho các đối tác kinh doanh và những đối tượng cần quan tâm.
2.4. So sánh về xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp
Theo pháp luật Anh, nếu thành viên không thực hiện các nghĩa vụ thông báo về việc
thay đổi tư cách thành viên, thông thường sẽ bị phạt theo Luật Hành pháp chung, người
nào cố tình gian dối tạo hồ sơ, ký hoặc gửi hồ để đăng ký sẽ bị phạt tù cải tạo với thời
hạn không quá 2 năm. Ở Pháp, những công ty không tồn tại trên thực tế hay mang tính
gian lận sẽ bị vô hiệu, những người sáng lập và người điều hành có thể bị buộc tội đối
với việc lưu hành cổ phần bất hợp lệ. Theo pháp luật Trung Quốc, nếu như khai khống
vốn khi thành lập, thành viên công ty và người định giá phải bồi hoàn cho công ty và
chủ nợ. Thái Lan còn quy định về việc xoá sổ đăng ký những công ty không có hoạt động
gì trên thực tế.
So với các nước, pháp luật Việt Nam quy định về việc xử lý vi phạm pháp luật thành
lập doanh nghiệp khá cụ thể và chi tiết. Pháp luật Việt Nam quy định 3 hình thức xử lý
khi có vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp là xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm.

Từ việc xác định vai trò quan trọng của việc phòng ngừa, răn đe và trừng trị thích
đáng những hiện tượng vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp, pháp luật các nước
đều có những quy định xác định rõ hành vi nào là vi phạm, mức độ vi phạm và biện pháp
xử lý với từng loại vi phạm cụ thể. Tuy nhiên, cũng có thể thấy quan niệm về vi phạm,
mức độ xử lý, các hình thức xử lý vi phạm ở mỗi nước cũng còn có nhiều khác biệt.


Phần 2: Các thủ tục ĐKDN theo các quy định của Luật Đầu tư số 67 được Quốc hội
thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, sau đây sẽ gọi tắt là Luật Đầu tư 2014

Luật Đầu tư năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014 tại Kỳ họp thứ 7, Quốc
hội khóa XIII có hiệu lực từ ngày 01/7/2015, thay thế Luật Đầu tư năm 2005 quy định về
hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư, kinh doanh từ VN ra
nước ngoài.
Luật đầu tư 2014 bao gồm 7 Chương, 76 Điều, gồm
Chương I:

Những quy định chung

Chương II:

Bảo đảm đầu tư

Chương III:

Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư

Chương IV:

Hoạt động đầu tư tại Việt Nam


Chương V:

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài

Chương VI:

Quản lý nhà nước về đầu tư

Chương VII: Tổ chức thực hiện
Cùng 4 Phụ lục (1/ Danh mục các chất ma túy cấm đầu tư kinh doanh, 2/ Danh mục
hóa chất, khoáng vật, 3/ Danh mục các loài hoang dã nguy cấp, quý hiếm, 4/ Danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện)
Luật Đầu tư 2014 sẽ có hiệu lực vào ngày 01/07/2015, và lần này các nhà làm Luật đã
nhanh chóng soạn thảo Nghị định hướng dẫn để phục vụ kịp thời cho việc áp dụng Luật
Đầu tư 2014
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
năm 2014. Ngày 21/4/2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội thảo lấy ý kiến dự thảo
Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư năm


2014.
Dự thảo nghị định hướng dẫn những nội dung nổi bật sau:


Kiểm soát và công bố quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh



Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư:

- Đối tượng:

+ Dự án đầu tư mới quy định là dự án thuộc một trong các trường hợp sau:
_Dự án thứ nhất tính từ thời điểm thành lập của tổ chức kinh tế, trừ trường hợp dự án
hình thành từ việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp
hoặc dự án hình thành từ việc chuyển đổi chủ sở hữu;
_ Dự án có mục tiêu khác với mục tiêu của dự án đang hoạt động;
_ Dự án có cùng mục tiêu với dự án đang hoạt động nhưng thực hiện tại địa điểm khác
với địa điểm của dự án đang hoạt động và hạch toán tài chính độc lập với dự án đó.

+ Dự án đầu tư mở rộng là dự án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
_ Dự án đầu tư mở thêm địa điểm sản xuất, kinh doanh của chuỗi cung ứng sản phẩm,
dịch vụ theo cùng mô hình, thương hiệu;
_ Dự án đầu tư thay thế hoặc đổi mới công nghệ,dây chuyền sản xuất để mở rộng quy
mô, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, giảm ô nhiễm hoặc cải thiện môi trường.
_ Dự án mở rộng quy mô, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, giảm ô nhiễm hoặc cải
thiện môi trường khác theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật Đầu tư.


- Ghi ưu đãi đầu tư trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
+ Căn cứ đề nghị của nhà đầu tư,nội dung dự án đầu tư và đối tượng, điều kiện áp dụng
ưu đãi đầu tư theo quy định tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Cơ quan
đăng ký đầu tư ghi ưu đãi đầu tư tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

+ Nội dung ghi ưu đãi đầu tư theo quy định trên bao gồm:
_ Điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư;
_ Căn cứ áp dụng ưu đãi đầu tư;
_ Hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư quy định tại Khoản 1 Điều 15 Luật đầu tư;
_ Mức ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về thuế và pháp luật đất đai tương ứng
với từng hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư tại Điểm c Khoản này.

- Điều kiện và thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư:
+ Đối với dự án đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư căn cứ ưu
đãi đầu tư quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư để thực hiện thủ tục hưởng ưu
đãi đầu tư tại cơ quan áp dụng ưu đãi đầu tư tương ứng với từng loại ưu đãi đầu tư.
+ Đối với dự án không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà
đầu tư căn cứ điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật đầu tư
và quy định khác của pháp luật có liên quan để tự xác định ưu đãi đầu tư và thực hiện thủ
tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan áp dụng ưu đãi đầu tư tương ứng với từng hình thức
ưu đãi đầu tư.


+ Thời điểm thực hiện dự án đầu tư đối với dự án quy định tại Khoản 2 Điều này được
xác định như sau:
_ Thời điểm được quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án thuộc trường hợp quyết
định chủ trương đầu tư quy định tại các Điều 30, 31 và 32 Luật đầu tư;
_ Thời điểm được cấp phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với
dự án đầu tư có công trình xây dựng không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a Khoản
này;
_ Thời điểm quyết định đầu tư của nhà đầu tư đối với dự án không thuộc trường hợp quy
định tại các Điểm a và b Khoản này.
+ Đối với các dự án đầu tư mà điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư chỉ được xác định sau khi
dự án hoạt động thì nhà đầu tư được áp dụng ưu đãi đầu tư sau khi có cam kết đáp ứng
điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư tại thời điểm hưởng ưu đãi.
+ Tổ chức kinh tế thành lập mới hoặc thực hiện dự án đầu tư từ việc chuyển đổi loại hình
tổ chức kinh tế, chuyển đổi sở hữu, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất được kế thừa các ưu
đãi đầu tư của tổ chức kinh tế hoặc dự án đầu tư trước khi chuyển đổi, chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất trong thời gian ưu đãi còn lại nếu tiếp tục đáp ứng các điều kiện ưu đãi
thuế đầu tư.
• Thủ tục đầu tư
• Quản lý nhà nước về đầu tư



Phần 3: Đăng ký kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện (ĐKKD )


Kể từ thời điểm 2003 cho đến năm 2013, những nỗ lực có hệ thống, có tổ chức
trong cải cách các quy định về giấy phép, điều kiện kinh doanh khác hầu như đã không
còn hoạt động, trong khi đó, xu hướng tạo ra giấy phép mới, tạo ra các điều kiện áp đặt
đối với hoạt động kinh doanh làm công cụ quản lý nhà nước đang có dấu hiệu phát triển
mạnh. Luật Doanh nghiệp hiện là cơ sở pháp lý duy nhất để thực hiện cải cách về điều
kiện kinh doanh và giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý này chưa đủ để thực
hiện cải cách giấy phép kinh doanh một cách triệt để và mạnh mẽ hơn.
Điều đáng ghi nhận là nỗ lực cải cách giấy phép kinh doanh đã được tái khởi động
lại từ đầu năm 2014 khi tiến hành xây dựng và sửa đổi hai Luật doanh nghiệp và Luật đầu
tư. Cải cách lần này về cơ bản tiếp tục tinh thần và phương thức áp dụng trong quá trình
bãi bỏ giấy phép những năm 2000. Tuy nhiên, cải cách lần này đã được thực hiện một
cách có hệ thống hơn, có phương pháp luận rõ ràng hơn và quan trọng và đã đạt được kết
quả ban đầu tốt hơn. Luật đầu tư đã chính thức được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng
11 năm 2014 với những nội cải cách quan trọng về giấy phép kinh doanh và ngành nghề
kinh doanh có điều kiện cụ thể .
Lần đầu tiên đã xác định và công bố công khai ngay trong Luật hai danh mục loại
trừ về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện. Tổng số có 6 hoạt động cấm đầu tư kinh doanh và 267 ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện.
Xác định rõ tiêu chí và cơ sở để ban hành quy định về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện. Chỉ được quy định về điều kiện kinh doanh nếu việc thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó là cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; đồng thời, điều
kiện đầu tư kinh doanh được ban hành phải được bảo đảm công khai, minh bạch, khách
quan, tiết kiệm thời gian, chi phí tuân thủ của nhà đầu tư.

Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh đối
với ngành, nghề đó phải được đăng tải trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc
gia.


Việc sửa đổi, bổ sung thêm hoặc bỏ bớt ngành nghề cấm đầu tư hoặc đầu tư kinh
doanh có điều kiện phải được Quốc hội chấp thuận thông qua việc sửa đổi, bổ sung danh
mục cấm và đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Luật đầu tư.
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
năm 2014. Ngày 21/4/2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội thảo lấy ý kiến dự thảo
Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư năm
2014.

Theo đó, yêu cầu đối với quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh:
+ Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải được tập hợp, công bố tại
Luật đầu tư và đăng tải, cập nhật trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
+ Điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật do
Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ ban hành phù hợp với mục đích, yêu
cầu quy định tại các Khoản 1, 4 Điều 7 Luật đầu tư và phải bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
_ Tên điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện;
_ Nội dung các điều kiện hoặc tiêu chuẩn mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh;
_ Hình thức áp dụng của điều kiện đầu tư kinh doanh phù hợp với quy định tại Khoản 3
Điều 8 Nghị định này; trường hợp điều kiện đầu tư kinh doanh được áp dụng dưới hình
thức giấy phép kinh doanh, giấy xác nhận hoặc chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có
thẩm quyền (sau đây gọi chung là giấy phép), phải quy định những nội dung nêu tại
Khoản 3 Điều này;



_ Cơ quan quản lý điều kiện đầu tư kinh doanh.

Ngoài ra, đầu tư kinh doanh được áp dụng dưới hình thức giấy phép phải bao gồm những
nội dung sau đây:
_ Tên giấy phép;
_ Mục đích của giấy phép;
_ Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ và cấp giấy phép;
_ Điều kiện cấp giấy phép, thời hạn cấp và từ chối cấp giấy phép;
_ Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép;
_ Thời hạn có hiệu lực của giấy phép (nếu có);
_ Lệ phí cấp giấy phép (nếu có);
_ Điều kiện gia hạn và thu hồi giấy phép (nếu có).

- Công bố điều kiện đầu tư kinh doanh:
+ Căn cứ đề nghị của các bộ, cơ quan ngang bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đăng tải điều
kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Mọi thay đổi trên theo quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định có hiệu lực sau ngày
Nghị định này có hiệu lực thi hành phải được Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thông
báo bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày
các luật, pháp lệnh, nghị định được ban hành


Trong thời gian 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của Cơ quan soạn thảo
văn bản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cập nhật nội dung thay đổi về điều kiện đầu tư kinh
doanh trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp

+ Nội dung điều kiện đầu tư kinh doanh được đăng tải theo quy định tại Khoản 1 Điều
này gồm:
_ Tên ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Phụ lục 4 Luật đầu tư;

_ Căn cứ pháp lý;
_ Hình thức áp dụng và nội dung điều kiện đầu tư kinh doanh;
_ Cơ quan quản lý điều kiện đầu tư kinh doanh;
_ Những nội dung quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e khoản 3 Điều 10 Nghị định này
(đối với điều kiện đầu tư kinh doanh được áp dụng dưới hình thức giấy phép).

Phần 4: Cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh tại VN
Bên cạnh những thành công trong quá trình thực thi pháp luật về đầu tư kinh doanh, tất
yếu tồn tại những khó khăn do sự thay đổi trong điều kiện kinh tế, xã hội. Sau 9 năm triển
khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, Luật Đầu tư 2005 đã bộc lộ một
số hạn chế, bất cập không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, cần được sửa đổi, bổ sung.
Một số bất cập cụ thể khi triển khai thi hành Luật Đầu tư 2005 có thể kể đến như:


-

Điều kiện đầu tư và thủ tục đầu tư còn thiếu tính minh bạch, khả thi và đồng bộ,
chưa tạo được một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài.

-

Thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư còn phức tạp, chưa phù hợp chủ trương đơn
giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp

-

Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư và sự phối hợp, hướng dẫn của
trung ương đến địa phương còn chưa được hoàn thiện,… gây khó khăn cho hoạt
động quản lý đầu tư


-

Mặt khác, việc hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và toàn cầu đòi hỏi phải
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, và luật Đầu tư cũng không phải
là ngoại lệ.

Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới về môi trường kinh doanh toàn cầu được
công bố ngày 29/10/2013, Việt Nam đứng thứ 99/189 nền kinh tế, trong khi Campuchia
tăng 23 bậc, Indonesia, Philippines tăng 19 bậc. Ngân hàng Thế giới nhận định, thứ hạng
của Việt Nam không thay đổi mặc dù từ năm 2005 đến nay đã thực hiện 21 cải cách,
nhiều nhất trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương[2]. Do vậy, để thu hút các tập đoàn
kinh tế lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam, thì bảo đảm tính công khai, minh bạch, ổn
định của hệ thống pháp luật phải được ưu tiên nhất hiện nay, trong đó có Luật Đầu tư.
Luật Đầu tư 2014 ra đời như một quy luật tất yếu, mang tinh thần mở rộng cơ hội, sân
chơi hơn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, gỡ bỏ nhiều rào chắn đầu tư trong quy
định trước đây của luật Đầu tư 2005.
Luật này ra đời, mang theo nhiều thay đổi quan trọng như sau:
1. Thay đổi quan trọng nhất của Luật Đầu tư năm 2014 là việc tạo lập cơ sở pháp lý
minh bạch để bảo đảm thực hiện nguyên tắc Hiến định về quyền tự do đầu tư
kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm thông
qua các quy định về ngành, nghề cấm đầu tư và đầu tư kinh doanh có điều kiện.


×