Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

luận văn thạc sĩ nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của công ty bảo hiểm bưu điện thủ đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

PHẠM THỊ QUẾ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ CỦA CÔNG TY
BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN THỦ ĐÔ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

PHẠM THỊ QUẾ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ CỦA CÔNG TY
BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN THỦ ĐÔ
CHUYÊN NGÀNH

: QUẢN TRỊ KINH DOANH

MÃ SỐ

: 60340102



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.LÊ THỊ VIỆT NGA

Hà Nội, Năm 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ kinh tế “Nâng cao hiệu quả kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ của Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ Đô” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

Học viên

Phạm Thị Quế

năm 2017


ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới TS. Lê Thị Việt Nga đã
tận tình hướng dẫn, góp ý trong suốt quá trình tôi làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban lãnh đạo và các anh chị Trưởng phòng kinh doanh trong
Công ty bảo hiểm Bưu điện Thủ đô đã cung cấp những thông tin, số liệu của công
ty giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã cổ vũ động viên tôi trong suốt quá
trình tôi học tập tại trường Đại học Thương mại.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn
còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và
các bạn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Học viên

Phạm Thị Quế


iii

MỤC LỤC


iv

DANH SÁCH HÌNH ẢNH, BẢNG BIỂU
HÌNH

Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức PTI Thủ đô.......................................................................32
Hình 2.2: Thị phần doanh thu phí bảo hiểm năm 2014............................................35
Hình 2.3: Thị phần doanh thu phí bảo hiểm năm 2015............................................36
Hình 2.4: Thị phần doanh thu phí bảo hiểm năm 2016............................................37
Hình 2.5: Doanh thu các chi nhánh tại Hà Nội........................................................38
Hình 2.6: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2014-2016....................39
Hình 2.7: Biểu đồ doanh thu theo nghiệp vụ giai đoạn 2014-2016 (tỷ đồng)..........40
Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh chung (Đơn vị: Tỷ đồng)..........................................43
Hình 2.8 Biểu đồ tỷ lệ bồi thường theo kênh của PTI Thủ đô..................................45
Bảng 2.2: Kết quả doanh thu các phòng kinh doanh................................................46
Hình 2.9: Tỷ trọng doanh thu của từng nghiệp vụ...................................................47
Bảng 2.3: Chi phí bồi thường theo từng nghiệp vụ giai đoạn 2014-2016................47
Bảng 2.4 Số liệu giám định bồi thường của PTI Thủ đô giai đoạn 2015-2016........49
Bảng 2.5 Doanh thu, chi phí bồi thường và hiệu quả kinh doanh chung..................50
Hình 2.10: Hiệu quả kinh doanh theo từng nghiệp vụ của PTI Thủ đô trong giai
đoạn 2014-2016.......................................................................................................51
Hình 3.1 Tỷ trọng doanh thu các ngành...................................................................63
Hình 3.2 Mô hình tổ chức đề xuất...........................................................................65
Hình 3.3 Quy trình bán hàng...................................................................................67
Hình 3.4 Tỷ lệ doanh thu theo kênh năm 2016........................................................72
BẢNG
Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh chung (Đơn vị: Tỷ đồng). Error: Reference source not
found
Bảng 2.2: Kết quả doanh thu các phòng kinh doanh........Error: Reference source not
found


v

Bảng 2.3: Chi phí bồi thường theo từng nghiệp vụ giai đoạn 2014-2016...........Error:

Reference source not found
Bảng 2.4 Số liệu giám định bồi thường của PTI Thủ đô giai đoạn 2015-2016...Error:
Reference source not found
Bảng 2.5 Doanh thu, chi phí bồi thường và hiệu quả kinh doanh chung............Error:
Reference source not found


vi

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
BH
CN
DN
DNBH
HH
PNT
TNDS
TSKT
XCG

Bảo hiểm
Con người
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp bảo hiểm
Hàng hải
Phi nhân thọ
Trách nhiệm dân sự
Tài sản kỹ thuật
Xe cơ giới



1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống và sản xuất kinh doanh, chúng ta luôn luôn bị các rủi ro đe dọa
gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản… Nếu không may gặp phải những rủi
ro đó chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc khắc phục những thiệt
hại để ổn định đời sống.
Để hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra, mọi người chúng ta luôn luôn tìm
cách phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro. Thay vì bằng các biện pháp: né tránh rủi ro,
ngăn chặn rủi ro, chấp nhận rủi ro thì chúng ta có thể chuyển giao rủi ro bằng cách
mua bảo hiểm. Bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay.
Nó góp phần tạo sự an tâm trong quá trình làm việc, ổn định đời sống xã hội.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nghiệp vụ bảo hiểm ngày càng
được quan tâm, xây dựng và phát triển lớn mạnh tương ứng với vị trí của nó trong
thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Việc nghiên cứu sâu sát và đưa ra giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao chất
lượng kinh doanh các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ là rất cần thiết. Vì lý do trên
tác giả xin chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
của Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ Đô” cho luận văn tốt nghiệp của mình.


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị
trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh
tranh gay gắt lẫn nhau. Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh tranh
hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động một cách hiệu quả hơn. Trong

thời gian này, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô cùng quan trọng, nó được
thông qua:
Thứ nhất: nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự
có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực
tiếp đảm bảo sự tồn tại này, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và
phát triển một cách vững chắc. Do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi
hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị
trường hiện nay.
Thứ hai: nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và
tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp
phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị
trường là chấp nhận sự cạnh tranh.
Thứ ba: mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận.
Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh để tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp
phải sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng tiết kiệm
sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận
bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử
dụng tiết kiệm các nguồn lực xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao
trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản ánh doanh
nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh


3

doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài
là tối đa hóa lợi nhuận. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng
cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hoạt

động kinh doanh bảo hiểm đã có sự phát triển vượt bậc cả về doanh thu và các lĩnh
vực liên quan. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia: bảo hiểm có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ các tổ chức, cá nhân, đồng thời huy động nguồn vốn cho đầu tư
phát triển. Bên cạnh đó, thị trường bảo hiểm ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt.
Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, các
công ty bảo hiểm cần phải có những hoạch định chiến lược phát triển kinh doanh,
chiến lược thị trường và chiến lược cạnh tranh một cách đúng đắn và sáng tạo sao
cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, với thực tế của thị trường nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
Là một trong những công ty bảo hiểm lớn tại khu vực Hà Nội, Công ty bảo
hiểm Bưu điện Thủ đô được đánh giá là một trong những doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm có hiệu quả cao. Tuy nhiên, những năm gần đây thị trường bảo hiểm ngày
càng cạnh tranh gay gắt, các công ty bảo hiểm ra đời ngày một nhiều nên tốc độ
tăng trưởng và hiệu quả kinh doanh của Công ty bảo hiểm Bưu điện Thủ đô cũng bị
ảnh hưởng. Do đó, làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề luôn
được đặt ra với Công ty.
Chính vì vậy, sau một thời gian nghiên cứu hiệu quả kinh doanh tại Công ty
bảo hiểm Bưu điện Thủ đô, tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ của Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ Đô” làm đề tài luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề hiệu quả kinh doanh bảo hiểm
phi nhân thọ được công bố, đáng chú ý là một số công trình sau đây:


4

Công trình của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung (2012), Quá trình phát triển thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2012 - Thực trạng và

giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Lao động –Xã hội. Đề tài nghiên cứu
về khía cạnh lịch sử kinh tế và tập trung nghiên cứu những doanh nghiệp bảo hiểm
lớn trong điều kiện thực tế của Việt Nam giai đoạn 1995-2012.
Công trình của tác giả Nguyễn Hồng Trang (2012), Hoạch định chiến lược
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Công ty Bảo Việt Đăk Lăk, Luận văn thạc sỹ
Kinh tế, Trường Đại học Đà Nẵng. Đề tài hoạch định chiến lược phát triển, chỉ ra
năng lực cốt lõi quyết định lợi thế cạnh tranh nhằm đưa ra giải pháp để doanh
nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn lực, xác định đúng hướng đi.
Tác giả Lê Hồng Hải (2011) có công trình: “Kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tham luận Hội thảo khoa
học. Đề tài phân tích những tác động tích cực và tác động tiêu cực của hội nhập
kinh tế quốc tế tới kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của các công ty bảo hiểm Việt
Nam.
Tác giả Nguyễn Thanh Nga (2015) có công trình: “Giám sát thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Học viện Tài chính.
Đề tài nghiên cứu về khía cạnh Tổng quan thị trường bảo hiểm PNT và các công cụ
nhằm giám sát, quản lý thị trường này tại các công ty Bảo hiểm lớn trong điều kiện
thực tế của Việt Nam.
Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (2016): “Hệ thống
kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Học viện Tài chính. Đề tài này nghiên cứu sâu
về quá trình vận hành bộ máy tổ chức nội bộ, các hệ thống kiểm soát được sử dụng
trong nội bộ các công ty BH PNT nhằm ổn định và phát triển bộ máy tổ chức doanh
nghiệp.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề kinh doanh
bảo hiểm nói chung, bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng ở một số khía cạnh khác nhau.
Tuy nhiên, tại Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ đô chưa có một công trình nào đề


5


cập đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ một cách có hệ
thống, từ khuôn khổ lý thuyết, bài học thực tiễn, cũng như phân tích, đánh giá toàn
diện hiệu quả hoạt động bảo hiểm phi thọ tại Công ty. Đó là lý do tác giả chọn đề tài
luận văn: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Công ty Bảo
hiểm Bưu điện Thủ Đô”. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả sẽ phân tích các
kết quả kinh doanh thực tế của công ty dựa trên những chỉ tiêu đo lường hiệu quả
mà các doanh nghiệp bảo hiểm PNT đang sử dụng. Đồng thời chú trọng phân tích
những yếu tố làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của PTI Thủ đô, để
từ đó đưa ra nhận xét đánh giá, đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả kinh doanh của công ty.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đề tài là tìm ra giải pháp phù hợp để nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Công ty bảo hiểm Bưu điện Thủ đô.
Từ mục tiêu cơ bản đó, các mục tiêu nghiên cứu chính được xác định là:
-

Làm rõ bản chất và vai trò của kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và hiệu

quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ;
-

Trình bày thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Công

ty bảo hiểm Bưu điện Thủ đô;
-

Kiến nghị các giải pháp cơ bản và điều kiện thực hiện các giải pháp nâng


cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty bảo hiểm Bưu điện Thủ
đô.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Công
ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ đô
Phạm vi nghiên cứu:
-

Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi Công ty Bảo hiểm Bưu

điện Thủ đô.
-

Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong phạm vi 3 năm: 2014, 2015, 2016.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin
Thông tin sơ cấp: Thu thập thông tin sơ cấp từ việc chạy phần mềm nghiệp vụ
để trích xuất ra các số liệu có liên quan phục vụ cho quá trình phân tích nghiên cứu.
Thông tin thứ cấp: Để phục vụ việc thực hiện luận văn cần tiến hành thu thập
thông tin thứ cấp phục vụ cho nghiên cứu của mình từ các nguồn như: Các báo cáo
nội bộ về quản trị, kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo về thị trường và khách
hàng tại Công ty bảo hiểm Bưu điện Thủ đô cùng các nguồn tài liệu khác như: Giáo
trình, báo, tạp chí, internet,…
Phương pháp xử lý số liệu
Thông tin sau khi thu thập được tác giả xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel
để tính toán.

Từ các chỉ số ở phần lý luận, dựa trên quá trình xử lý số liệu thu thập được tác
giả tiến hành phân tích về hiệu quả kinh doanh của công ty. Quá trình phân tích này
tác giả dựa trên kết quả hoạt động từ quá khứ của doanh nghiệp. So sánh các chỉ
tiêu, từ đó tìm hiểu nguyên nhân và xu thế của nó. Kết quả của quá trình phân tích,
so sánh các chỉ số sẽ là cơ sở để đưa ra các giải pháp và kiến nghị cho công ty.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận cùng với danh mục tài liệu tham khảo, bảng
biểu, sơ đồ, phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương:
-

Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi

nhân thọ.
-

Chương 2: Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh Bảo hiểm phi nhân

thọ tại Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ đô trong giai đoạn hiện nay.
-

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Bảo

hiểm phi nhân thọ tại Công ty Bảo hiểm Bưu điện Thủ đô.


7

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ

1.1 Khái quát về bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Bảo hiểm phi nhân thọ
Trong nền kinh tế hiện nay, Bảo hiểm là một ngành dịch vụ đang phát triển rất
mạnh mẽ và thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong đời sống cũng như tác
động tới các ngành khác trong xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, người ta vẫn chưa thể
xác định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm bắt đầu từ đâu. Nhưng điều được mọi
người công nhận là: Các hoạt động sơ khai, mang tính bảo hiểm đã có từ rất lâu.
Các hoạt động đó đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc sống con người ở mọi lúc, mọi nơi.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả
về quy mô, mức độ và thời gian. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu ấy
cũng phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần dần được quy định lại
theo các tiêu chuẩn khác nhau một cách chính thức, hợp pháp và có tên gọi chung là
Bảo hiểm.
Bảo hiểm có các đặc điểm chung sau:
-

Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm.

-

Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm kinh doanh:
-

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng

như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
-


Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh.

-

Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh

nghiệp nói chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng.
-

Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít.

-

Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính.


8

Từ các phân tích trên đây, chúng ta có thể đưa ra khái nhiệm bảo hiểm phi
nhân thọ như sau:
Bảo hiểm phi nhân thọ là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại qua đó công ty
bảo hiểm cam kết sẽ chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra liên quan đến
tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm.
Bảo hiểm PNT có những đặc điểm sau:
-

Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình:

Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết

mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi lấy những
cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai.
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua các giác
quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình dáng, kích
thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác
quan như cầm nắm, ngửi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách hàng,
các doanh nghiệp bảo hiểm tìm cách tăng tính hữu hình của sản phẩm: chú ý những
lợi ích có liên quan đến dịch vụ: sử dụng những người nổi tiếng, có uy tín tuyên
truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây dựng uy tín của công
ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan trọng của hoạt động marketing. Như vậy, lòng
tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm.
-

Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược:

Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được quyết
định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy móc, nguyên
vật liệu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện quy trình đưa sản
phẩm đến người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được doanh nghiệp mới thu tiền về,
trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận
được. Còn doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảo hiểm
trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên


9

được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính được chính xác
hiệu quả của một sản phẩm bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.

Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi có sự
chấp nhận của Người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm
đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp đồng chính là
giá bán một hợp đồng bảo hiểm.
Ví dụ, công ty bảo hiểm B bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham gia
bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty bảo hiểm
B có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết thúc vào ngày
cuối năm, khi đó trách nhiệm của các công ty bảo hiểm B trước các tổn thất - theo
như thỏa thuận trong hợp đồng - sẽ chấm dứt. Đến ngày cuối năm, công ty bảo hiểm
B mới có thể tính được chi phí triển khai dịch vụ bảo hiểm này. Tương tự như vậy là
chi phí hoạt động của công ty.
Chu trình kinh doanh của bảo hiểm có đặc điểm là công ty bảo hiểm định giá
bán dịch vụ của mình trước khi tính toán được chi phí mình bỏ ra. Đặc điểm này
ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào ra thị trường. Nếu một sản
phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận, công ty bảo hiểm sẽ thu về một
khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro xảy ra cho một số khách hàng nào đó,
công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có
một số ít khách hàng chấp nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ
rơi vào tình trạng thu không đủ chi nếu như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá
cao trong khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực. Mặt khác, chu
trình kinh doanh ngược còn có tác dụng chi phối trách nhiệm đề phòng hạn chế tổn
thất của người được bảo hiểm khi họ đã được một hợp đồng bảo hiểm bảo vệ. Bởi lẽ
nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các hợp đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm
đi (hay nói cách khác, khách hàng sẽ được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất
lớn, khách hàng sẽ phải trả phí cao hơn vào những năm sau.


10

-


Tâm lý người mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này:

Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được nhận
quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so với số phí
phải đóng. Quá trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm
lý. Do chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm linh, nên
nói chung người mua không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy cụ thể những
hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điển hình nhất trong bảo hiểm tử vong hay
thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như một
chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự đảm bảo
về mặt vật chất khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý nghĩ chiều lòng,
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần thiết cho việc lực chọn
và đánh giá những rủi ro có thế đảm nhận. Trong khi tiến hành giao dịch chào bán
dịch vụ, cán bộ bảo hiểm phải chú ý tới đặc điểm này để thuyết phục khách hàng
khi họ nói không quan tâm đến rủi ro và không mong muốn rủi ro xảy ra đối với họ.
Bởi lẽ, tất cả đều không mong muốn những tai nạn, tổn thất xảy ra. Mặt khác, bảo
hiểm là tấm lá chắn cho những điều không mong muốn này. Thông qua thực tế tình
hình thiên tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để
minh chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời hạn bảo hiểm
thường là một năm hoặc ngắn hơn (như bảo hiểm cho một chuyến hoạt động từ A
đến B hoặc một chuyến du lịch ngắn ngày…)
Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi
có rủi ro được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm, thông thường phí
tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm cho những năm tiếp
theo sẽ có sự thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ còn phụ thuộc mức độ rủi ro. Ví
dụ với điều khoản bảo hiểm nếu Người tham gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo

hiểm một vài rủi ro không tham gia thì phí bảo hiểm được xem xét giảm đi, ngược


11

lại nếu mở rộng bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên.
Hoặc cùng một thời gian đi du lịch là 2 ngày nhưng nếu tới khu du lịch có mức độ
rủi ro lớn hơn, như vùng núi rừng nguy hiểm thì phí bảo hiểm cao hơn.
Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các nghiệp vụ khác
như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người được bảo hiểm và
Người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối quan hệ về quyền lợi và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.1.2 Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ
Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm ý nghĩa mà các sản phẩm bảo hiểm
phi nhân thọ được phân chia thành các nhóm như sau:
* Căn cứ theo hình thức tham gia:
Nếu căn cứ theo hình thức tham gia bảo hiểm phi nhân thọ có 2 loại: Bảo hiểm
bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Bảo hiểm tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà việc tham gia hay không phụ
thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Các DNBH đáp ứng
được hay không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ
của doanh nghiệp đó.
Khác với bảo hiểm tự nguyện, loại hình bảo hiểm bắt buộc gồm các sản phẩm
bảo hiểm mà pháp luật quy định các tổ chức cá nhân phải tham gia bảo hiểm và các
DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức trách nhiệm bảo hiểm
theo quy định của nhà nước. Hiện nay tại Việt Nam có một số loại bảo hiểm bắt
buộc như: bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ 3 và hành khách trên xe, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động
tư vấn pháp luật, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm, một số loại bảo hiểm cháy nổ.

* Căn cứ theo đối tượng bảo hiểm:
Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm thì bảo hiểm PNT có 3 loại: bảo hiểm tài
sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người PNT.


12

Bảo hiểm tài sản là thể loại bao gồm những nghiệp vụ có đối tượng là tài sản
có thể tính được giá trị bằng tiền. Có nhiều loại tài sản: những tài sản hữu hình, tồn
tại dưới hình thể vật chất (như nhà cửa, phương tiện vận chuyển, hàng hóa…) và tài
sản vô hình (như phát minh, sáng chế, bản quyền, giọng hát…). Bảo hiểm thiệt hại
do hậu quả tài sản được bảo hiểm bị tổn thất. Thực tế, khi tài sản bảo hiểm bị tổn
thất thì hậu quả để lại không chỉ thiệt hại đối với chính tài sản đó mà còn làm ngưng
trệ, dẫn tới thiệt hại kinh doanh sản xuất và thiệt hại tài chính do phải giải quyết hậu
quả tổn thất.
Thuộc bảo hiểm tài sản bao gồm:
-

Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển

-

Bảo hiểm thân tàu thủy

-

Bảo hiểm xây dựng lắp đặt

-


Bảo hiểm hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí

-

Bảo hiểm cháy

-

Bảo hiểm tiền gửi tiền cất trữ trong kho và trong quá trình vận chuyển

-

Bảo hiểm vật chất các phương tiện

-

Bảo hiểm trong nông nghiệp

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) là một loại trách nhiệm pháp lý, nó
phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp cưỡng chế, nó
được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Tại điều 3.10 Bộ Luật
dân sự của Việt Nam chỉ rõ: “Trách nhiệm bồi thường về thiệt hại vật chất là trách
nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, tính được thành tiền cho người bị hại” [5].
Nghĩa vụ trách nhiệm dân sự thường có 2 loại:


Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: Đây là trách nhiệm nghĩa vụ mà các

bên đã cam kết thỏa thuận trong một hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ cảng A đến cảng B. Hợp đồng vận

chuyển hành khách (vé là hợp đồng). Hợp đồng thuê thuyền viên làm việc trên tàu.


Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: Đây là trách nhiệm phát sinh do

pháp luật quy định mà người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường.


13

Ví dụ: lái xe ô tô đâm vào nhà dân, đâm phải người đang đi trên hè phố. Do
đóng cọc móng nhà làm rung nứt đổ nhà bên cạnh.
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang đặc tính
chung của trách nhiệm pháp lý.


Thứ nhất, được coi là biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thực hiện nghĩa

vụ trách nhiệm đã thỏa thuận (trong hợp đồng).


Thứ hai, có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm theo quy định của luật pháp vì

đã có những hành vi vi phạm pháp luật.
Thông thường thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm này bằng 2 hình thức tự nguyện
tham gia thương lượng thỏa thuận và hình thức cưỡng chế của luật pháp tòa án. Các
nghiệp vụ của bảo hiểm trách nhiệm:


Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.




Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của người vận chuyển trong ngành hàng

không dân dụng


Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh nghiệp



Bảo hiểm trách nhiệm công cộng và trách nhiệm sản phẩm



....

Mặc dù cùng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người phi
nhân thọ trong bảo hiểm thương mại có những đặc điểm chủ yếu sau đây:


Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở

đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khỏe của con
người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống”, “chết” trong bảo hiểm nhân
thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm không được
thể hiện.



Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào

đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ tuổi
quá thấp hoặc quá cao. Bởi vì ở độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn
biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện.
Chẳng hạn ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những


14

em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi. Nhưng ở nước Anh lại quy
định khác, những đứa trẻ dưới 3 tuổi và những người trên 65 tuổi không được các
công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn hơn
và thường là 1 năm như: bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu
thuật…Thậm chí có nghiệp vụ bảo hiểm thời hạn chỉ trong vài ngày, vài giờ đồng
hồ như: bảo hiểm tai nạn hành khách. Do đó, phí bảo hiểm thường nộp một lần khi
ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết
hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng
hạn: bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp…Việc triển
khai kết hợp này làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý… của công ty bảo hiểm
giảm đi từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngành
bảo hiểm, bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai sớm hơn bảo hiểm nhân
thọ, họ vừa triển khai vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế đã chín muồi
mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi
nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người
phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, mãi

đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy
theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có sự khác
nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản như:
phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm…
Điều này cũng thật dễ hiểu vì bảo hiểm thương mại là hoạt động mang tính kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển
khai một sản phẩm mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước.


15

- Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
- Bảo hiểm tai nạn hành khách
- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
- Bảo hiểm học sinh
1.1.3 Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với người
bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện đã định trước
xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Vai trò của BH
PNT được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- BH PNT góp phần đảm bảo ổn định đời sống, ổn định tài chính, từ đó ổn
định về tinh thần cho người tham gia BH và mang lại sự an toàn cho xã hội. Khi gặp
rủi ro thiên tai hay tai nạn bất ngờ, các cá nhân, DN sẽ bị tổn thất về kinh tế hoặc
thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được BH bồi thường hoặc trợ cấp về tài chính, để
người tham gia BH nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, khôi phục và
phát triển sản xuất kinh doanh. Từ việc hỗ trợ tài chính, BH còn đáp ứng nhu cầu về
đảm bảo an toàn cho người tham gia BH, đưa đến cho họ sự tin cậy về sự an toàn và
một chỗ dựa tinh thần.

- Tạo điều kiện ổn định giá cả và cấu trúc giá: BH PNT là tấm lá chắn hữu
hiệu cho các DN, thông qua việc ổn định giá thành sản phẩm. Khi DN không may
gặp các rủi ro bất ngờ, DN sẽ bị thiệt hại về tài chính và chắc chắn sẽ đẩy chi phí
của DN tăng lên. Khi đó nếu giữ nguyên giá để cạnh tranh, thì DN sẽ bị giảm lợi
nhuận hoặc có thể lỗ. Ngược lại, nếu tăng giá thì sẽ mất lợi thế cạnh tranh về giá.
Nếu DN tham gia BH PNT trong lĩnh vực này thì sẽ khắc phục được rủi ro này nếu
xảy ra đối với DN.
- BH PNT góp phần ổn định chi tiêu ngân sách nhà nước. Các tổ chức hoạt
động bằng nguồn ngân sách nhà nước có thể tham gia BH PNT. Thay vì bỏ ra một
số tiền tương đối nhỏ để tham gia BH mà ngân sách nhà nước không phải chi ra số


16

tiền có thể rất lớn để trợ cấp cho các tổ chức/đơn vị khi gặp rủi ro. Mặt khác, BH
PNT cũng góp phần đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các loại thuế.
- BH PNT cung cấp một nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế: Với đặc điểm
trong kinh doanh BH là phí nộp trước, việc bồi thường, trả tiền thực hiện sau đó
một thời gian. Vì vậy, lượng vốn phần lớn có thời gian tạm nhàn rỗi sẽ được đem
đầu tư vào nền kinh tế. Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức bảo hiểm
hoạt động rất mạnh trên thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, đặc biệt là
thị trường vốn. Đóng vai trò là một trung gian tài chính, các tổ chức BH thu hút
vốn, cung ứng vốn và thúc đẩy nhanh sự luân chuyển về vốn, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong nền kinh tế.
- Góp phần tránh và giảm thiểu rủi ro cho xã hội: Một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của hoạt động kinh doanh BH PNT là tạo lập, quản lý quỹ tài chính đủ
lớn, nhằm chủ động đối phó với rủi ro và góp phần làm giảm tổng rủi ro của xã hội.
Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cá nhân hay tổ
chức, DN khó mà xác định được những rủi ro gì mà họ sẽ gặp phải và mức độ thiệt
hại như thế nào, bởi vì rủi ro luôn ngẫu nhiên và bất ngờ. Vì vậy, họ có thể định

trước được kế hoạch tài chính để đối phó với những thiệt hại đó. Đối với các DN
BH, họ có thể tính xác suất rủi ro trên cơ sở quy luật số lớn, từ đó có kế hoạch tài
chính tương đối phù hợp với những hậu quả của các rủi ro có thể gây ra.
- Cuối cùng, tạo công ăn việc làm tăng cường thu nhập: hoạt động bảo hiểm
thu hút một số lao động nhất định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã
hội (theo thống kê, bảo hiểm các nước thu hút 1% lực lượng lao động xã hội).
1.2 Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với
chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì
chúng ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng các phương
pháp định lượng thành các chỉ tiêu hiệu qủa cụ thể và từ đó có thể tính toán so sánh


17

được, lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù có thể đồng nhất và là
biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu… Ngoài ra nó còn biểu hiện mức độ
phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ảnh trình độ khai thác các nguồn lực
trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh. Lúc này thì
phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và nó phải được định tính
thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh trình độ
và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu quả kinh doanh thống nhất với
hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì hiệu quả kinh doanh phản ánh
trình độ và khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
Hiệu quả kinh doanh là hoạt động mà mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
đều nhắm tới. Việc làm thế nào, làm cách nào để nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh là bài toán đặt ra đối với các nhà quản trị.

Theo tác giả Nguyễn Văn Công thì: “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế
xã hội tổng hợp dùng để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong thực
tiễn của con người ở mọi lĩnh vực. Bất kỳ một quyết định nào cũng cần đạt được
phương án tốt nhất trong điều kiện cho phép là giải pháp hiện thực có cân nhắc tính
toán chính xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong từng điều kiện
cụ thể nhất” [7].
Có một số tác giả cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ giữa tỷ
lệ tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ đề cập
đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào
quy trình kinh tế.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả nhận được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm
này là tác giả Manfred Kuhu, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy
kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh". Đây là quan điểm được
nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các
quá trình kinh tế.


×