CHƯƠNG XVII
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Khái niệm hệ thống pháp luật XHCN.
Khái niệm : Hệ thống pháp luật là tổng thể các
QPPL, các nguyên tắc, định hướng và mục đích
của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống
nhất với nhau, được phân thành các chế định
pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các VBQPPL do cơ quan nhà nước ban
hành theo những hình thức, thủ tục nhất định.
Gồm:
Về cấu trúc bên trong: hệ thống pháp luật
được hợp thành từ các quy phạm pháp luật, chế
định pháp luật và ngành luật.
Về hình thức bên ngoài: hệ thống pháp luật
được cấu thành từ các văn bản quy phạm pháp
luật.
1.
1.1 Hệ thống cấu trúc của PL
Hệ thống cấu trúc của pháp luật: là cơ
cấu bên trong của pháp luật, là tổng thể các
quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại
thống nhất, được phân định thành các chế
định pháp luật và ngành luật
* Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất
(tế bào) trong hệ thống cấu trúc PL.
* Chế định pháp luật
Chế định pháp luật bao gồm một số quy
phạm có những đặc điểm chung giống nhau
nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội
tương ứng.
•Ngành luật :
Là hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất
định của đời sống xã hội.
Có 2 căn cứ chủ yếu để phân định các ngành
luật:
Ðối tượng điều chỉnh: là những quan hệ xã hội
cùng loại, thuộc một lĩnh vực của đời sống xã hội
cần có sự điều chỉnh bằng PL. Mỗi ngành luật sẽ
điều chỉnh một loại quan hệ xã hội đặc thù.
Phương pháp điều chỉnh: là cách thức tác động
vào quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của
ngành luật đó. Mỗi ngành luật cũng có phương
pháp điều chỉnh đặc thù.
Có 2 phương pháp điều chỉnh chủ yếu:
+ Phương pháp bình đẳng thoả thuận : là
cách thức tác động mà ở đó nhà nước không
can thiệp trực tiếp vào các quan hệ pháp luật
mà chỉ định ra khuôn khổ và các bên tham gia
quan hệ pháp luật có thể thỏa thuận với nhau
trong khuôn khổ đó, các bên tham gia quan hệ
pháp luật bình đẳng với nhau về quyền và
nghĩa vụ pháp lý.
+ Phương pháp quyền uy phục tùng: là
cách thức tác động mà ở đó một bên trong
quan hệ pháp luật có quyền ra mệnh lệnh, còn
bên kia phải phục tùng.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất của
các quan hệ xã hội, các ngành luật sử dụng
một phương pháp hoặc phối hợp cả hai
phương pháp này. Ngoài ra, do tính đặc thù
của từng ngành luật sẽ có thể sử dụng
phương pháp điều chỉnh riêng biệt.
1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Căn cứ vào tính chất pháp lý, văn bản
pháp luật có thể được chia thành 3 loại: văn
bản quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật
chủ đạo và văn bản pháp luật cá biệt (văn bản
áp dụng pháp luật).
Phân loại: Có nhiều cách phân chia hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó,
căn cứ vào hiệu lực pháp lý, VBQPPL được
chia thành 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới
luật.
Mối liên hệ giữa các VBQPPL: các VBQPPL tồn
tại trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Một là, mối liên hệ về hiệu lực pháp lý.
Hai là, mối liên hệ về nội dung.
Mối liên hệ giữa hệ thống cấu trúc của
pháp luật và hệ thống VBQPPL:
Hệ thống cấu trúc là cơ sở cho việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống VBQPPL (thể
hiện trong hoạt động tập hợp hóa và pháp
điển hóa).
Hệ thống VBQPPL là hình thức thể hiện
hệ thống cấu trúc bên trong của pháp luật.
2. Những tiêu chuẩn cơ bản để xác định mức
độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật
• Tính toàn diện: Thể hiện ở 2 mức độ
+ Ở mức độ chung: đó là sự đầy đủ các ngành
luật, các chế định pháp luật
+ Ở mức độ cụ thể: đầy đủ các QPPL.
• Tính đồng bộ
Hệ thống pháp luật phải có tính thống
nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn
• Tính phù hợp
PL phải phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế xã hội
• Được xây dựng ở trình độ pháp lý cao.
3. Các ngành luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam
•
•
•
•
•
•
•
•
Luật Nhà nước
(Luật Hiến pháp)
Luật hành chính
Luật tài chính
Luật ngân hàng
Luật đất đai
Luật dân sự
Luật lao động
Luật hôn nhân và
gia đình.
•
•
•
•
•
Luật hình sự
Luật tố tụng hình
sự
Luật tố tụng dân
sự
Luật kinh tế
Luật pháp quốc
tế: Công pháp và
tư pháp quốc tế.
4. Xây dựng pháp luật và hệ thống hóa pháp luật
4.1. Xây dựng pháp luật
* Yêu cầu
Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện, sâu
sắc, các quy luật, các hiện tượng xã hội, kinh tế,
chính trị, tư tưởng của thực tiễn khách quan để từ
đó rút ra những giá trị chuẩn mực từ trong nhu cầu
của xã hội.
Nghiên cứu động thái các hành vi pháp luật trong
đó có cả hành vi hợp pháp và hành vi không hợp
pháp để từ đó có thể dự kiến được diễn biến các
hành vi đó trong tương lai.
Phân tích và đánh giá đúng hiệu lực và hiệu quả
của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng các
quy phạm và chế định hiện hành.
Trên cơ sở những việc làm kể trên tiến hành kế
hoạch hoá hoạt động xây dựng pháp luật.
* Nguyên tắc xây dựng.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Nguyên tắc dân chủ XHCN.
Nguyên tắc pháp chế XHCN
Nguyên tắc khách quan
Quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm các giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đề xuất yêu cầu ban hành một
văn bản pháp luật mới hoặc sửa đổi một văn
bản pháp luật hiện hành và thông qua quyết
định về soạn thảo dự án liên quan đến yêu
cầu đã đề xuất.
Giai đoạn 2: Soạn thảo dự án văn bản pháp
luật.
Giai đoạn 3: Thảo luận và thông qua dự án văn
bản pháp luật.
Giai đoạn 4: Công bố văn bản pháp luật.
4.2 Hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hoá pháp luật là hoạt động
nhằm hoàn thiện pháp luật, đưa chúng vào
một hệ thống nhất định.
Công tác hệ thống hoá pháp luật hướng tới
các mục đích:
Tạo ra một hệ thống VBQPPL cân đối,
hoàn chỉnh, thống nhất trong đó các đạo luật
đóng vai trò chủ đạo.
Khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu
thuẫn và những lỗ hổng của hệ thống PL.
Làm cho nội dung pháp luật phù hợp
với những yêu cầu của đời sống, có hình thức
rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
Khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa phân
biệt 2 hình thức hệ thống hoá pháp luật, đó là
tập hợp hoá và pháp điển hoá.
Tập hợp hoá là sắp xếp các văn bản quy phạm
pháp luật, các quy phạm pháp luật riêng biệt
theo một trình tự nhất định (theo cơ quan ban
hành, theo thời gian ban hành, theo cấp độ
hiệu lực pháp lý...). Hình thức hệ thống hoá
này không làm thay đổi nội dung văn bản,
không bổ sung những quy định mới mà chỉ
nhằm loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực
hoặc rõ ràng là mâu thuẫn với văn bản cấp
trên.
Pháp điển hoá là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong đó không
những tập hợp các văn bản đã có theo một
trình tự nhất định, loại bỏ những quy phạm lỗi
thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những
quy phạm mới để thay thế cho các quy phạm
đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống
được phát hiện trong quá trình tập hợp văn
bản, sửa đổi những quy phạm hiện hành, nâng
cao hiệu lực pháp lý của chúng.
Kết quả của công việc pháp điển hoá là
một văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời