Đại học Mở
Lớp Thạc sĩ Luật KT
Khoá 20162018
Đề giữa kỳ
Hãy phân tích, đánh giá những điểm mới trong quy định của pháp luật về hợp đồng
của Bộ luật dân sự năm 2005 so với Bộ luật dân sự năm 2015. Cho ví dụ thực tế minh
họa.
Bài làm:
Sau
1. BLDS 2015 sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng”
Theo Điều 388 BLDS 2005, hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
các bên. Tuy nhiên, quy định này thể hiện phạm vi khá hẹp, chưa bao quát
được phạm vi áp dụng của BLDS là “quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực
pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thn và tài sản trong các quan hệ dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Khái niệm về
hợp đồng dân sự cho thấy những quy định về hợp đồng dường như chỉ áp
dụng trong quan hệ dân sự, trong khi những quy định của BLDS là quy
định chung và có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác trong đời sống. Để
tránh tư tưởng và cách suy nghỉ như trên. BLDS 2015 đã bỏ từ “dân sự”
chính vì vậy thuật ngữ hợp đồng mang tính bao quát, rộng hơn so với quy
định cũ. Đồng thời nhằm để tránh sự phân biệt máy móc giữa hợp đồng
dân sự với hợp đồng kinh tế hay hợp đồng thương mại, lao động v.v… và
bảo đảm rằng các quy định về hợp đồng áp dụng cho tất cả các hợp đồng
trong các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật tư.
2. Đề nghị giao kết hợp đồng: Điều 390 BLDS 2005 khoản 1. Đề nghị
giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
“cụ thể”. Còn Tại khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 quy định như sau: “Đề
nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được
xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề
nghị)”.
ở Bộ luật Dân sự mới 2015 lược bỏ cụm từ “cụ thể”đã mở rộng rõ hơn
1
về bên được đề nghị giao kết hợp đồng không còn chỉ gói gọn giữa bên
đề nghị và bên nhận đề nghị mà còn có thể là bên đề nghị và nhiều bên
nhận được đề nghị trong giao kết hợp đồng, đồng thời mở rộng thêm chủ
thể là “công chúng” mang tính baao quát hơn và phù hợp hơn cho thực tiễn
áp dụng.
Ví dụ:
3. Thông tin trong giao kết hợp đồng. Đây là một quy định mới được bổ
sung trong BLDS 2015 quy định trách nhiệm liên quan đến cung cấp, bảo
mật thông tin khi giao kết hợp đồng. Theo đó nếu một bên có thông tin
ảnh hưởng ảnh hưởng đến chấp nhận giao kết hợp đồng thì phải có
nghĩa vụ thông báo; nếu là thông tin có tính bí mật thì bên nhận thông tin
phải bảo mật. Trường hợp tiết lộ thông tin hoặc không thực hiện nghĩa
vụ thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 387 BLDS 2015).
Hiện nay, nghĩa vụ cung cấp thông tin tồn tại trong một số quy định
chuyên biệt cho những trường hợp cụ thể. Ví dụ, theo khoản 1 Điều 311
BLDS 2005: Người chuyển giao quyền yêu cầu phải cung cấp thông tin
cần thiết, chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền. Hay theo
Điều 422 BLDS 2005: Bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông
tin cần thiết về tài sản mua bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó...;
theo khoản 1 Điều 573 BLDS 2005: 1. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm,
theo yêu cầu của bên bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải cung cấp cho bên
bảo hiểm đầy đủ thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm, trừ
thông tin mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết...
Như vậy, liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp
đồng, BLDS 2005 chưa có quy định chung áp dụng phổ quát. Thực tiễn áp
dụng pháp luật những năm qua, đối với những trường hợp một bên khi
giao kết hợp đồng cố ý không cung cấp thông tin gây bất lợi cho bên kia
khi giao kết hợp đồng, thì toà án thường áp dụng Điều 132, 137 BLDS
2005 để giải quyết, theo đó hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận, bên có hành vi lừa dối sẽ phải bồi thường
thiệt hại. Hoặc có trường hợp một bên cố tình không cung cấp thông tin
dẫn đến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia, và Toà án
đã vận dung quy định chuyên biệt về hợp đồng mua bán nhà ở áp dụng xử
lý đối với trường hợp này.
Khắc phục nhược điểm này, BLDS 2015 đã có bổ sung điểm mới về
thông tin trong giao kết hợp đồng, cụ thể tại Điều 387: 1. Trường hợp
2
một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng
thì phải thông báo cho bên kia biết. 2. Trường hợp một bên nhận được
thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách
nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục
đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. 3. Bên vi phạm
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Có thể thấy rằng theo quy định trên, BLDS 2015 không quy định
hậu quả hợp đồng bị vô hiệu nếu vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin,
nhưng bên vi phạm vẫn phải bồi thường thiệt hại. Việc lược bỏ này là
phù hợp bởi lẽ không phải trường hợp nào việc không cung cấp thông tin
cũng làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của hợp đồng, có những thông tin chỉ
nhằm mục đích “giúp bên nhận thông tin hiểu rõ hơn về đối tượng của
hợp đồng để từ đó quyết định có nên giao kết hợp đồng hay không hoặc
nhằm phát huy chức năng hay giá trị của đối tượng hợp đồng một khi hợp
đồng được giao kết” nên nếu quy định hậu quả hợp đồng vô hiệu khi vi
phạm nghĩa vụ này có trường hợp không cần thiết và có thể bị lạm dụng.
4. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng:
Điều 397 BLDS 2005 có quy định về Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng nhưng chỉ đề cập đến trường hợp “bên đề nghị có ấn định thời
hạn trả lời” mà chưa có hướng xử lý cho trường hợp bên đề nghị không
ấn định thời hạn trả lời. Khi bên được đề nghị nhận được đề nghị giao
kết hợp đồng, nếu đề nghị giao kết hợp đồng có ấn định thời hạn trả lời
thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời
hạn đó. Vậy trong trường hợp nếu bên đề nghị không ấn định thời hạn
trả lời thì sẽ như thế nào? Vấn đề này chưa được nêu trong BLDS 2005.
BLDS 2015 (khoản 1 Điều 394) đã bổ sung thêm quy định này, theo đó khi
bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý. Quy định mới
này đã lấp được “khoảng trống” cho trường hợp khi đề nghị giao kết
không nêu thời hạn.
5. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Sau khi đề nghị được
chuyển đến người nhận, người này có thể trả lời chấp nhận, từ chối
hoặc sửa đổi đề nghị. Trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự
bày tỏ ý chí của người được đề nghị đồng ý ký kết hợp đồng theo những
điều kiện do bên đề nghị đưa ra thông qua hình thức lời nói, văn bản, hành
vi. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trong quá trình giao kết, đôi khi một bên
không nói rõ quan điểm của mình. Nói cách khác, họ đã im lặng trong thời
3
điểm này. Như vậy, im lặng có được xem là giao kết hợp đồng hay
không?. Ở BLDS 2005, Điều 396 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận
toàn bộ nội dung của đề nghị”. Việc quy định không rõ về các trường hợp im
lặng là đồng ý trong quá trình giao kết hợp đồng đã xảy ra nhiều tranh chấp
phát sinh và thực tế Tòa án đã giải quyết im lặng là đồng ý trong quá trình giao
kết hợp đồng mà không cần sự thỏa thuận im lặng là đồng ý. Vấn đề này đã
tồn tại trong BLDS 2005, tuy nhiên đến BLDS 2015 đã được bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp hơn. Theo đó, tại khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 có bổ sung thêm
quy định mới như sau: “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo
thói quen đã được xác lập giữa các bên”.
Khoản 4 Điều 400 BLDS 2005 quy định “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn
bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản”. Như vậy, khoản 4 chỉ đề cập
tới một hình thức chấp nhận trên văn bản là chữ ký nhưng trong thực tế có thể
có chấp nhận hợp đồng theo hình thức khác như điểm chỉ, đóng dấu. Điều 400
BLDS 2015 đã bổ sung “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được
thể hiện trên văn bản”.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 3, 4 BLDS 2005: “Thời điểm giao kết hợp
đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp
đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản”. Điều luật trên đề cập tới xác định thời điểm hợp đồng được giao
kết bằng lời nói và bằng văn bản. Trong thực tế thường xảy ra rất nhiều
trường hợp hợp đồng giao kết bằng miệng nhưng được xác nhận lại bằng văn
bản, nên quy định nêu trên là khong còn phù hợp. Khắc phục nhược điểm này,
khoản 3, 4 Điều 400 BLDS 2015 quy định “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng
lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời
điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản
hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.Trường hợp
hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời
điểm giao kết hợp đồng được xác định bằng lời nói.
6. Về nội dung của hợp đồng: Được quy định tại Điều 398 BLDS 2015. So
với BLDS 2005 thì BLDS 2015 bổ sung thêm quy định “Các bên trong hợp đồng
có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng ” nhằm nhấn mạnh rõ bản
chất của hợp đồng ở mặt câu chữ, nhưng trên thực tế việc các bên có quyền
thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng đã được BLDS 2005 công nhận. BLDS
2015 còn bổ sung thêm “phương thức giải quyết tranh chấp” trong nội dung của
4
hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho hai bên khi ký kết hợp đồng có thể thỏa
thuận với nhau về phương thức giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình
thực hiện hợp đồng.
7. Thực hiện hợp động khi hoàn cảnh thay đổi.
Bộ luật dân sự 2015 đã dành một điều luật để quy định về việc “thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản”. Đây là điểm mới của Bộ
luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005. Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự. Sau khi đã thỏa thuận và giao kết hợp đồng, các bên sẽ tiến hành
thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, trong khi thực hiện hợp đồng hoàn cảnh
có thể có những thay đổi cơ bản khiến cho những điều khoản đã thỏa
thuận trong hợp đồng trở nên không còn phù hợp, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lợi ích của các bên trong hợp đồng.
Tại khoản 1 Điều 420 BLDS 2015 quy định hoàn cảnh thay đổi cơ bản
khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân
khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng; b) Tại thời điểm giao kết
hợp đồng, các bên không thể lƣờng trƣớc đƣợc về sự thay đổi hoàn
cảnh; c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu nhƣ các bên biết trƣớc thì
hợp đồng đã không đƣợc giao kết hoặc đƣợc giao kết nhƣng với nội
dung hoàn toàn khác; d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự
thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; đ)
Bên có lợi ích bị ảnh hƣởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong
khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể
ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hƣởng đến lợi ích.
5