Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những điều cần lưu ý trong SGK lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.7 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN ĐỒNG PHÚ
Trường Tiểu học Thuận Phú I
-
Tên đề tài: NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý TRONG
CHƯƠNG TRÌNH - SÁCH GIÁO KHOA LỚP NĂM
Người thực hiện: Đào Thò Thuyên- giáo viên trường
Tiểu học Thuận phú I.
Đề tài: NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý TRONG CHƯƠNG
TRÌNH - SÁCH GIÁO KHOA LỚP NĂM
I) PHẦNI: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
a. Lý do chủ quan:
Công cuộc cải cách giáo dục nói chung, và việc đổi mới chương
trình, sách giáo khoa nói riêng đã mang lại những hiệu quả to lớn đối
với ngành giáo dục nước nhà, đáp ứng nhu cầu của giáo dục trong thời
kì mới. Giáo viên khi được dạy theo chương trình- sách giáo khoa mới
hết sức phấn khởi vì những ưu điểm không thể phủ nhận của chương
trình này. Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm lớn, chương trình sách
giáo khoa mới vẫn còn 1 số thiếu sót không thể tránh khỏi khiến cho
các giáo viên khi thực hiện chương trình sách giáo khoa mới đã gặp
không ít những khó khăn, làm hạn chế phần nào hiệu quả giáo dục.
b. Lý do khách quan:
Theo chủ trương của ngành giáo dục là tiếp tục nghiên cứu chương
trình SGK để tìm cách khắc phục những hạn chế của chương trình,
đem lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu, nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa lớp Năm nhằøm
góp phần đưa ra những giải pháp giúp GV tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc khi thực hiện chương trình là mục đích nghiên cứu của đề
tài này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:


Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, tôi đã tập trung
vào các nhiệm vụ sau:
2
- Thứ nhất : Nghiên cứu kó các tài liệu thay sách giáo khoa
lớp Năm và tham khảo thêm một số tài liệu thay sách của các khối
khác.
- Thứ hai : Nghiên cứu toàn bộ chương trình- sách giáo khoa
lớp Năm.
- Thứ ba : Thu thập và tổng hợp các tài liệu, các kiến thức,
các kinh nghiệm qua các lớp tập huấn thay sách ở SGD, PGD; đặc
biệt là hội nghò tổng kết thay sách ớ PGD mà tôi đã được dự. Bên
cạnh đó, các kinh nghiệm thu thập được qua các lần giải đáp thắc
mắc của lớp học Bồi dưỡn thường xuyên chu kì III cũng rất có ích.
4. Phương pháp nghiên cứu:
1) Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết :
- Tham khảo các tài liệu về đổi mới chương trình – sách giáo khoa
lớp 5 để nắm vững các mục tiêu, nội dung và phương pháp đổi mới dạy
học.
- Tìm đọc thêm các tài liệu tham khảo về kiến thức, về phương pháp
dạy học ở lớp 5.
2) Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Trong quá trình dạy học, thu thập những điều còn vướng mắc,
những điểm chưa rõ ràng của chương trình và SGK.
-Trao đổi, trò chuyện với đồng nghiệp để tìm hiểu thêm các ý kiến.
- Quan sát, thu thập sự phản hồi của học sinh khi học chương trình
mới.
II) PHẦNII: NỘI DUNG
Chương I: Thực trạng của chương trình và sách giáo khoa
lớp 5:
1. Ưu điểm :

Về ưu điểm của chương trình, SGK mới, các tài liệu, báo chí đã nói
đến nhiều, tôi xin được không nhắc lại. Tôi chỉ nói đến một số ưu điểm
mà tôi thấy được qua thực tế giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy cũng như nghiên cứu chương trình, SGK
lớp 5, chúng tôi thấy về cơ bản sự đổi mới chương trình, SGK rất hay và
3
vô cùng hữu ích mà chúng tôi rất tâm đắc. Giáo viên khi được dạy
chương trình mới rất hứng thú vì nhiều ưu điểm hơn hẳn của chương trình
mới so với chương trình cũ. Thậm chí, tính tích hợp của chương trình mới
đã giúp giảm hẳn một môn đó là môn Sức khỏe. Đến khi Bộ Giáo dục cho
giảm một số bài của môn Kó thuật và giảm số tiết Kó thuật từ 2 tiết/ tuần
xuống còn 1 tiết/ tuần thì chúng tôi thật sự thở phào nhẹ nhõm. Trước
đây, cứ vào ngày thứ ba chúng tôi lại bảo nhau: Hôm nay “chạy” làm sao
để dạy kòp đây? (Vì ngày thứ ba có đến 6 tiết – 6 môn học).
Đến khi bước vào dạy môn Toán, chúng tôi cũng rất vui mừng vì
số lượng bài tập trong một tiết học giảm nhiều so với trước. Trước đây,
trong một tiết học, có khi có đến 5-6 bài tập thì bây giờ chỉ còn 3-4 bài,
nếu bài mới dài thì bài tập chỉ có 2 bài. Hơn thế, số lượng phép tính và độ
khó của các bài tập cũng được giảm nhẹ rất nhiều. Điều này giúp cho học
sinh học Toán một cách nhẹ nhàng và do đó, môn Toán không còn là nỗi
ám ảnh của các em. Mà ngược lại các em thích thú hơn khi học Toán.
Mặt khác, các bài tập, ví dụ trong SGK thường gắn liền với thực tế, giúp
học sinh dễ hình dung và nắm bài tốt hơn. Một ưu điểm nữa là kiến thức
toán còn được tích hợp thêm một số kiến thức về khoa học, lòch sử không
những cung cấp thêm hiểu biết cho học sinh mà còn giúp môn Toán bớt
“khô” . (VD: một con đà điểu cân nặng…, một con chim sâu cân nặng…;
Một con cá heo có thể bơi với vận tốc:…, vận tốc chạy của đà điểu là…
Diện tích rừng Cúc Phương là…), (Bài 1 – Bảng đơn vò đo thời gian, bài
4, tiết Luyện tập số 125… cung cấp kiến thức về năm công bố một số phát
minh quan trọng, năm nào người ta phát hiện ra châu Mó, năm nào và ai

là người đầu tiên bay vào vũ trụ, …). Mặt khác trong SGK toán có in các
hình ảnh minh họa như ảnh của Cô- lôm- bô, ảnh cá heo… giúp học sinh
khi học môn toán thích thú hơn, không nhàm chán.
Về môn Tiếng Việt: Việc sắp xếp các bài học của nhiều môn, phân
môn xoay quanh một chủ đề làm cho mạch kiến thức sâu hơn, khắc sâu
kiến thức cho học sinh hơn. Chẳng hạn, chủ đề “ Cánh chim hòa bình”,
thể hiện trong rất nhiều bài học, không chỉ trong phân môn tập đọc như
trước mà còn trong cả các phân môn như chính tả (Anh bộ đội Cụ Hồ gốc
Bỉ ) Tập làm văn ( Làm đơn tình nguyện vào hội giúp đỡ nạn nhân chất
độc da cam) kể chuyện (Tiếng Vó cầm ở Mó Lai ), LTVC ( Từ trái nghóa-
qua tìm hiểu chính nghóa - phi nghóa-( của cuộc chiến tranh), kể cả âm
4
nhạc. Tôi nghó, nếu như cuối chủ điểm, có một tiết tập làm văn hoặc
LTVC với yêu cầu: “Sau khi học xong chủ điểm “Cánh chim hòa bình”,
em có những suy nghó, cảm nhận gì về hòa bình, về chiến tranh? Hãy viết
lại những cảm nhận đó.” thì rất hay và rất thực tế. Một ưu điểm hơn hẳn
của chương trình mới môn Tiếng Việt là những ngữ liệu trong bài rất
thuyết phục vì nó được lấy từ thực tế, là sự thực 100%. Chuyện kể Tiếng
Vó cầm ở Mó Lai , chuyện Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ, hay chuyện về chú
Mo-ri-xơn tự thiêu để phản đối chiến tranh ở Việt Nam, những số liệu về
tác hại của chất độc da cam … đều là những sự thực 100% nên tránh được
những giáo điều, lý thuyết của chương trình cũ. Những tư liệu dạy học
này có tác dụng giáo dục rất lớn, tác động mạnh đến học sinh và hơn thế,
nó còn mang tính thời sự, là những vấn đề mà cả thế giới đều quan tâm.
Nếu học sinh coi thời sự trên ti vi (dó nhiên, giáo viên phải là người
hướng dẫn để học sinh chú ý), hẳn các em sẽ thấy bài mình học trên lớp
cũng được nói đến. (về vụ kiện của nạn nhân chất độc da cam, về sự kiện
tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân ở Mó Lai trong đó các nhân vật xuất
hiện trong câu chuyện (cựu chiến binh La-ri Côn- bơn) cũng hiện diện
trên báo, đài…)

Cũng như các lớp dưới, những kó năng giao tiếp mà các em được học
qua môn Tiếng Việt rất thiết thực và giúp ích nhiều trong đời sống hàng
ngày. Nội dung của phân môn Tập làm văn phong phú và thiết thực hơn
so với chương trình cũ giúp học sinh đỡ nhàm chán và hứng thú hơn khi
học. (ở chương trình cũ, hầu như học sinh phải “ăn” độc món văn miêu
tả, các thể loại khác cũng có nhưng không đáng kể.) mặc dù các thể loại
khác của chương trình mới tương đối khó (lập chương trình hoạt động,
làm biên bản ) nhưng nếu không đặt mục tiêu quá cao, không đưa vào
chuẩn kiến thức kó năng để kiểm tra đánh giá học sinh mà chỉ yêu cầu ở
mức độ làm quen và nắm các bước cơ bản thì cũng không phải là không
làm được.
Về môn Khoa học, nhìn chung có nhiều ưu điểm hơn chương trình cũ
do SGK in đẹp hơn, tiện dụng hơn (in trên hai trang mở, lệnh làm việc
được mã hóa bằng kí hiệu), tranh ảnh nhiều hơn, nội dung chương trình
cập nhật những vấn đề thiết thực hơn với đời sống đang thay đổi từng
ngày như phòng tránh bò xâm hại, phòng tránh tai nạn giao thông, phòng
tránh một số bệnh thường gặp…
5
Môn Đòa lí, nội dung tinh giản nhiều so với trước đây, nhất là phần
đòa lí thế giới. Trước đây, khi dạy bài “Châu Phi”, GV rất vất vả, phải
xoay như chong chóng mới truyền đạt hết kiến thức, nhưng nay thì nhẹ
nhàng hơn rất nhiều. Mặt khác, kênh hình trong SGK mới phong phú hơn,
đẹpï hơn, giúp học sinh hứng thú hơn khi học, đồng thời, nó là nguồn
thông tin trực tiếp giúp học sinh hiểu thêm về thiên nhiên, phong tục, văn
hóa của nhiều nước trên thế giới. Đó cũng là điểm khác biệt của hai
chương trình: chương trình cũ chỉ chú trọng vò trí đòa lí, đặc điểm tự nhiên,
đặc điểm kinh tế; chương trình mới, thông qua kênh hình cung cấp thêm
những hiểu biết về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, về các công trình
kiến trúc nổi tiếng của các nước trên thế giới.
Môn Lòch sử, nội dung xuyên suốt chương trình không thay đổi, chỉ

thay đổi tên bài và một số câu chữ trong bài, SGK không đưa ra những
nhận đònh mà để học sinh tự cảm nhận. Về phương pháp dạy học thì thay
đổi một cách cơ bản, phương pháp giảng dạy mới phong phú hơn, hiện
đại hơn so với phương pháp cũ. Trong một bài dạy lòch sử, GV có thể sử
dụng rất nhiều phương pháp khác nhau, thông tin trong SGK đến với học
sinh là do các em tự tìm tòi lấy, không như trước đây, GV “kể” cho các
em nghe một, hai lần “câu chuyệân” trong SGK. Sau đó mới đặt câu hỏi
để tìm hiểu nội dung.
Nói tóm lại, những ưu điểm trong chương trình, SGK lớp 5 là không
thể phủ nhận, nhưng bên cạnh ưu điểm, cũng không tránh khỏi những tồn
tại, những vướng mắc gây lúng túng cho GV và học sinh khi thực hiện
chương trình.
2. Những vướng mắc và tồn tại:
2.1: Môn Toán
Nhìn chung, môn Toán không có sai sót lớn, chỉ có một số điểm
sau đây:
1. Bài Giới thiệu hình trụ, giới thiệu hình cầu, ở bài tập số 1
(trang 126), sách GV (trang 204) có đáp án sai: Hình A, C là hình
trụ, trong khi theo hình vẽ SGK thì hình trụ phải là hình A và E mới
đúng.
2. Bài Luyện tập chung (trang 128 - SGK), ở bài tập 1, đề bài ra
chưa chặt chẽ: Ở câu c, có yêu cầu tính thể tích nước trong bể (độ
6
dày kính không đáng kể) trong khi hình vẽ bể cá- SGK trong nước
có 6 con cá! Vậy đáng kể phải lưu ý: Tính thể tích nước và cá trong
bể hoặc GV phải lưu ý HS hình vẽ những con cá chỉ là tượng trưng.
2.2: Môn Tiếng Việt
+ Trong phân môn Tập làm văn, có những bài, theo tôi là khó so với
trình độ học sinh.Ví dụ như yêu cầu viết câu mở đoạn. ( Tiết TLV thứ I –
Tuần 7 ); Làm biên bản 1 vụ việc (Tuần 16 - bài này vừa dài lại vừa

khó). Đặc biệt là dạng bài Lập chương trình hoạt động. Tuy dạng bài này
rất thiết thực và hữu ích nhưng nó quá khó và xa lạ với học sinh ! Khi dạy
bài này (Tuần 20-21) cô trò chúng tôi phải đánh vật với nhau hàng tiếng
đồng hồ mà xem ra học sinh vẫn ngơ ngác, không hiểu gì cả. Mặc dù tôi
đã vận dụng hết khả năng của mình, ko những theo gợi ý trong SGV mà
còn bổ sung thêm cho cụ thể Ví dụ:
- Nêu rõ mục đích thiết thực của việc lập chương trình hoạt động:
như giúp chúng ta chuẩn bò, dự kiến trước được các việc cần làm và
phân công rõ ràng để thực hiện cho tốt, không bò động khi thực hiện một
hoạt động nào đấy, giúp ích cho chúng ta rất nhiều về sau này, khi
chúng ta phải làm chủ gia đình, phải đứng ra tổ chức, lo toan một việc gì
đấy.
Nói về sau này là vì bây giờ khi tổ chức một việc gì thì người đứng
ra lập chương trình là thầy cô chủ nhiệm hoặc tổng phụ trách hay cũng
phải họp cán bộ lớp - toàn những em ưu tú lại và bàn bạc hướng dẫn thì
các em mới làm được. Cho nên, vừa qua, khi làm dạng bài này, cả lớp
tôi và các lớp khác cũng thế, đếm trên đầu ngón tay, chỉ có 2-3 em gọi
là biết làm bài. Mặc dù trước đó, tôi đã dặn dò kó các em về xem bài,
chuẩn bò và tham khảo thêm sách Những bài văn mẫu. Có nhiều em, khi
tôi hỏi: Một chương trình quyên góp ủng hộ các bạn vùng lũ lụt bao
gồm những hoạt động nào thì các em đều không trả lời được.
Theo tôi có 2 lí do khiến dạng bài trở nên khó đối với học sinh vì:
* Thứ nhất: Học sinh không nắm được các hoạt động mà SGK yêu
cầu bao gồm những việc gì vì có thể bản thân em đó chưa tham gia các
hoạt động đó.
7

×