Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TÍCH LŨY VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.01 KB, 39 trang )

TÝch lòy v¨n häc

10 LỜI KHUYÊN ĐỂ CÓ MỘT GIỜ HỌC TỐT
Dưới đây là 10 lời khuyên giúp giáo viên
điều khiển một giờ học thành công. Những
lời khuyên có thể giúp giáo viên giảm được
những tình huốngsư phạm và không bị gián
đoạn tiết học bởi những học sinh gâyrối.
1. Đặt nội quy ngay từ đầu
Nhiều giáo viên thường mắc lỗi bắt đầu một năm học mới với kế hoạch cho các quy tắc
rất lỏng lẻo. HS nhanh chóng nắm bắt được các tình huống trong mỗi giờ học và nhận ra
những gì chúng sẽ được cho phép, những lỗi nào được bỏ qua. Một khi GV “lờ” đi những
sự quậy phá hoặc những nguyên tắc trong lớp học không đủ mạnh để chấn chỉnh, dập tắt
các trò nghịch ngợm thì rất khó để bắt đầu hay tiếp tục điều khiển lớp tốt hơn. Vì vậy
ngay từ đầu, GV phải đề ra nội quy rõ ràng và tuân thủ nó.
2. Công bằng là chìa khoá
HS hoàn toàn có thể phân biệt điều gì là công bằng và điều gì thì không. Vì thế, GV phải
đối xử bình đẳng đối với tất cả HS nếu mong được HS tôn trọng. Nếu GV không đối xử
với tất cả HS một cách công bằng, những HS bị đối xử không công bằng sẽ không thích
thú làm theo những quy tắc trong lớp học. Hãy chắc chắn rằng ngay cả HS xuất sắc nhất
trong lớp cũng có khả năng phạm lỗi, và học trò đó cũng đáng bị phạt về lỗi của mình.
3. Giải quyết những rắc rối với càng ít sự gián đoạn càng tốt
Nếu có một vài HS đang nói chuyện riêng và bạn đang đưa ra câu hỏi trong phần giới
thiệu bài mới, gọi một trong các HS đó đứng dậy trả lời câu hỏi của bạn để thu hút HS
quay trở lại bài học. Nếu bạn phải dừng mạch bài học để giải quyết rắc rối thì bạn đang
"đánh cắp" thời gian quý báu học tại lớp của những HS hiếu học.
4. Tránh các vụ gây lộn trong lớp học
Bất cứ khi nào có đánh nhau, cãi vã giận dữ trong lớp học thì sẽ có một người thắng và
một người thua. Dĩ nhiên với vai trò là một GV, bạn cần phải giữ trật tự và quy tắc trong
lớp học. Tuy nhiên, nên giải quyết những vấn đề vi phạm kỉ luật mang tính cá nhân riêng
tư (bên ngoài lớp học) tốt hơn là làm HS "mất mặt" trước bạn bè. Cũng không phải là ý


1
TÝch lòy v¨n häc

kiến hay nếu bêu riếu, trách móc, phê phán, HS đó như một ví dụ điển hình về vi phạm
nội quy lớp học. Mặc dù HS khác sẽ thắng nhưng có thể bạn sẽ đánh mất cơ hội thực sự
dạy HS kia bất cứ điều gì nữa.
5. Ngừng sự phá rối với một chút hài hước
Đôi khi những tiếng cười lại giúp "kéo" mạch lớp học trở lại như cũ. Tuy nhiên, nhiều
GV nhầm lẫn giữa những câu hỏi hài hước với lời châm chọc. Trong khi sự hóm hỉnh có
thể nhanh chóng "hoá giải" tình huống sư phạm thì lời mỉa mai có thể làm tổn thường
mối quan hệ của bạn với học trò tham gia vào. Hãy dùng việc đánh giá tối ưu nhất nhưng
hãy nhận ra rằng có những điều học trò này nghĩ là trò vui, học trò kia lại nhận thấy bị
xúc phạm.
6. Giữ niềm tin tưởng lớn trong lớp
Hãy tin tưởng rằng HS là những trẻ ngoan ngoãn, chứ không phải là quậy phá. Tăng
cường điều đó thông qua cách bạn nói với học trò. Khi bạn bắt đầu một ngày học mới,
bạn hãy nói những mong muốn của bạn với học trò. Ví dụ, bạn có thể nói "Sau khi thảo
luận nhóm, cô (thầy) muốn các con giơ tay và được gọi lên trước khi bắt đầu phát biểu ý
kiến. Cô cũng hi vọng các con sẽ tôn trọng ý kiến của bạn mình và lắng nghe những gì
bạn các con nói".
7. Kế hoạch dự trù
Giáo viên nên tránh thời gian "chết" trong giờ học. Nếu trong thời gian rảnh rỗi đó, bạn
cho phép học sinh nói và nói mỗi ngày, tự bạn tạo cho các em một thói quen xấu - nói
chuyện. Để tránh điều này, hãy lên kế hoạch dự trù, đưa thêm các hoạt động vào phần
cuối của giáo án. Khi bạn có nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, bạn sẽ khai thác sâu
thêm nội dung bài học và tránh được thời gian nhàn rỗi trong tiết học.
8. Luôn luôn nhất quán
Một trong những điều tệ nhất mà người giáo viên mắc phải là không nhất quán trong việc
thực thi nội quy lớp học. Nếu một ngày bạn "lơ" đi một trò quậy phá trong lớp, một thái
độ học tập thiếu nghiêm túc, và ngày hôm sau bạn chì chiết một HS vì một lỗi nhỏ, HS

của bạn sẽ nhanh chóng mất đi sự kính trọng đối với bạn. Học trò có quyền mong bạn đối
xử nhất quán hàng ngày. Tính khí thất thường không được có trong lớp học. Một khi bạn
đánh mất sự kính trọng của HS, bạn sẽ đánh mất luôn sự chăm chú vào bài giảng.
9. Hãy đặt ra các nội quy có thể hiểu được
Bạn cần chọn ra nguyên tắc của bạn. Bạn cũng cần làm cho các nguyên tắc thật rõ ràng.
HS cần hiểu cái gì được và cái gì không được chấp nhận. Hơn nữa, bạn nên lường trước
hậu quả nếu bạn phá bỏ nguyên tắc.
2
TÝch lòy v¨n häc

10. Bắt đầu mỗi ngày học sảng khoái
Mẹo này không có nghĩa là bạn không đếm, hay đếm sai tất cả các lỗi vi phạm trước đó,
ví dụ, nếu HS có ba sự hối hận muộn mặn thì hôm nay nghĩa là các em có bốn. Điều đó
có nghĩa rằng bạn nên bắt đầu buổi dạy mỗi ngày với sự tin tưởng HS sẽ ngoan. Không
nên có định kiến rằng HS này luôn quậy phá giờ học hàng ngày trong tuần, thì hôm nay
em lại sẽ nghịch ngợm. Do đó, bạn sẽ không đối xử với HS ấy một cách khác biệt làm em
đó gây mất trật tự thêm.
Phạm Hải Hà
Giáo dục Thủ đô số 47
Một sự thật đẹp hơn huyền thoại
Những điều ít biết về cô gái trong bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao
Nhà thơ Vũ Cao trong một lần trò chuyện với khoa Văn Trường CĐSP HN, ông kể:
Có nữ sinh đã khóc nói với ông rằng "Bác ơi cháu thương bác quá, vì bác đã mất người
yêu". Ông cũng không biết giải thích sao với cô nữ sinh đa cảm. Bài thơ "Núi Đôi" được
ông sáng tác nhân lần ông nằm điều trị tại bệnh viện 74 ở Sóc Sơn. Ông đã nghe được
câu chuyện từ đồng đội và dân làng Phù Linh về một cô gái đã hy sinh anh dũng ở Núi
Đôi để bảo vệ một đoàn cán bộ khi cô mới chỉ chừng 20 tuổi. Vào thời đó, nhiều chuyện
thực xung quanh cuộc sống riêng và hoạt động cách mạng của cô ít được biết rõ. Và thế
là câu chuyện người ta lưu truyền bằng tình cảm khâm phục và tự hào đã tạo nên một
huyền thoại đối với thế hệ trẻ sau này. Năm 1975, có một người đàn ông tìm đến gặp nhà

thơ Vũ Cao, lúc đó nhà thơ mới vỡ lẽ: Liệt sỹ Trần Thị Bắc - cô gái Núi Đôi đó đã có
chồng, một anh bộ đội Cụ Hồ và chuyện đời, chuyện tình của họ còn cảm động hơn nhiều
những gì chúng ta đã nghe kể…
* Vùng đất đã trở thành huyền thoại.
Xuân Dục- Đoài Đông là bên này và bên kia hai ngọn núi đôi, thuộc Xuân Đoài -xã
Phù Linh (Lạc Long cũ)-Sóc Sơn-HN. Xuân Đoài gồm có 3 xóm: xóm Núi Đôi-xóm
Giữa-xóm Chùa. "Xóm Chùa cháy đỏ những thân cau" chính là quê hương của cô gái
Trần Thị Bắc ngày xưa - Cô gái được nhắc đến trong bài thơ "Núi đôi".
Trước những năm 1950, Lạc Long là vùng địch hậu, là trọng điểm giằng co giữa ta và
quân Pháp. Núi Đôi vừa chứng kiến những tang tóc đau thương vừa ghi tạc những tấm
gương anh dũng của quân và dân ta. Cho đến nay những chứng tích xung quanh Núi Đôi
vẫn còn với những bốt lave, Miếu Thờ, Núi Đôi, bốt Thá…Lạc Long có 3 đồn Tây án
3
TÝch lòy v¨n häc

ngữ giữa xã như chảo lửa và bị cô lập bởi vành đai trắng do địch tạo ra. Trong hoàn cảnh
khốc liệt đó, người dân Lạc Long vẫn một lòng kiên trung và đây trở thành một trong
những xã tiêu biểu về chiến tranh du kích thời chống Pháp với nhiều tên tuổi được ghi
nhận trong đó có ông Nguyễn Văn Vấn, xã đội phó từng vác dao chém Tây giữa chợ
huyện, lập nhiều chiến công trong các cuộc phá đồn tây và từng là Chiến sỹ thi đua toàn
quân…
Trở về Núi Đôi bây gờ hai ngọn núi vẫn còn đó, cây rừng tái sinh đã phủ xanh che đi
những sườn núi lở lói sặc mùi thuốc súng năm nào. Những đồn bốt đã rêu phong, trở
thành chỗ chơi trốn tìm của trẻ nhỏ… Rưng rưng giữa lối vào xóm Chùa, những đổi thay
khiến người ta cảm nhận nỗi đau dường như đã chôn sâu vào lòng người sau hơn nửa
thập kỷ trôi đi.
Trong ký ức của những người dân ở đây, điều được nói nhiều nhất lại là huyền thoại
về cô gái Núi Đôi. Có những em bé hồn nhiên bảo: "Cô ấy tên là Ngát, là Hương…" Có
người bảo cô không có ai thân thích, có người khẳng định "cô ấy chưa hề có người yêu,
còn trẻ lắm mới 17-18 tuổi thôi". Chỉ hỏi riêng chuyện: "Anh đi bộ đội "sao trên mũ"

ngày ấy là ai ?" Mỗi người nói một phách: Là ông A, ông B… Có lẽ thời chiến tranh
khốc liệt, chẳng phải ai cũng có điều kiện hiểu về người khác một cách chân tơ kẽ tóc.
Song cũng có thể, người ta chỉ muốn nghĩ về cô gái Núi Đôi bằng những thêu dệt như
trong huyền thoại, tuy sai thực tế, nhưng chung quy cũng vì một sự mến mộ đối với
người đã khuất.
* Và một cuộc đời có thật.
Liệt sỹ Trần Thị Bắc là con gái đầu của một gia đình có truyền thống yêu nước. Các
bác, các cậu của cô đều là cơ sở của Cách mạng, là du kích. Có người là liệt sỹ, có người
từng bị giặc bắt. Bố cô những năm đó cũng là xã đội phó xông pha gan dạ, bị địch bắt tra
tấn chết đi sống lại. Lớn lên giữa những người như vậy, mới chỉ 15 tuổi Bắc đã tham gia
các hoạt động của các đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông
liên lạc, tiếp tế cho đội du kích trong những lần đi bắn tỉa đồn Tây. Năm 1950, cô được
cử đi học y tá rồi trở về kiêm nhiệm thêm việc cứu thương. Có lần theo đội du kích đi bắn
tỉa, cô bị đạn của kẻ thù bắn xướt qua mặt để lại vết thương ngay dưới khoé mắt. Nhưng
cô không hề biết sợ hãi.
Là một cô gái xinh đẹp, hát hay và khéo ăn nói, năm 1951, Bắc được giao cả 3 nhiệm
vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.
Thời đó, người ta thấy có một cô gái hàng ngày quẩy gánh đi buôn bán, chiều chiều
lại quanh quẩn quanh khu đồn Tây để cắt cỏ. Những tên lính đồn chẳng những không
nghi ngờ mà còn tỏ ra quý mến Bắc. Cô ra vào đồn Tây tương đối dễ dàng, gánh nước
giúp bọn lính đồn, lân la trò chuyện với chúng. Bắc làm quen được với những tên Tây chỉ
huy để thăm dò tin tức và gây dựng được một nhân mối bao gồm hai cai ngụy, một người
làm thợ mộc trong đồn Tây và một vợ Tây… Những người này đã thường xuyên cung
4
TÝch lòy v¨n häc

cấp cho Bắc những thông tin về kế hoạch hoạt động của lính đồn, nhiều điều cơ mật của
địch. Với những thông tin quý báu do Bắc đem về, quân ta đã tránh được rất nhiều tổn
thất trong cuộc đấu tranh với quân Pháp. Sau này, khi nguy cơ bọn Pháp có thể lần ra
nhân mối, cô đã tìm cách đưa hai người cai ngục được giác ngộ chạy thoát ra vùng kháng

chiến.
Vào ngày 12/3/1954, nhóm cán bộ của ta họp tại Lương Châu để chuẩn bị cho kế
hoạch đánh phục kích địch. Tiên lượng sau khi ta đánh thì địch sẽ tức tối điên cuồng và tổ
chức vây ráp càn quét, cấp trên lệnh rút bớt cán bộ nằm vùng ra vùng tự do để tránh tổn
thất. Đoàn cán bộ di chuyển ra vùng tự do ngay trong đêm hôm đó gồm có trên 30 người.
Bắc được cử dẫn đoàn đi vì hai lẽ: Cô thông thạo địa bàn, gan dạ và khôn khéo trong ứng
phó khi có tình huống xấu. Mặt khác, bản thân cô cũng có dấu hiệu bị lộ, nên đã được
lệnh chuyển công tác, hoặc sẽ về làm quân báo của huyện đội hoặc về phòng y tế huyện.
Ngày 21/3 cũng là ngày Bắc về Núi Đôi thì gặp ổ phục kích của địch. Bọn địch bắt được
Bắc, bịt miệng cô dự định ém chờ bắt nốt những người đi sau. Biết điều đó, Bắc đã chống
cự quyết liệt. Cô cố kêu to và lao vào tên Tây chỉ huy túm lấy bộ hạ hắn. Tên này đau
điếng quên mất việc lớn, kêu rống lên. Một tên lính lê dương đứng cạnh đã lôi Bắc ra và
xả trọn băng đạn vào ngực cô. Đoàn cán bộ của ta ra khỏi Lương Châu nghe tiếng súng
biết là bị lộ đã lui lại chờ đến khi địch rút. Khi anh em du kích và quân báo huyện tới nơi
Bắc giằng co với địch thì Bắc đã hy sinh. Máu loang đỏ ối trên ngực cô bắt đầu se lại.
Những viên đạn của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Bắc được anh em thay nhau cõng
vượt vành đai trắng ra đến Cầu Cốn-Vệ Sơn-xã Tân Minh và được đồng đội an táng ở
đây.
Đội Hoè, chỉ huy quân đồn Miếu Thờ, có mặt trong trận phục kích đó, sau này kể lại:
Hôm ấy bọn địch huy động cả lính đông gấp đôi, gồm quân của bốt Núi Đôi và bốt Miếu
Thờ vì nghi du kích đang đào hầm hố quanh bốt. Bắc đã lọt vào giữa ổ phục kích, nếu cô
không đánh động thì còn nhiều cán bộ bị bắt.
Dân làng thương tiếc Bắc nói với nhau: "Cái Bắc nó muốn sống thì vẫn có cơ hội, vì
nó quen biết với bọn Tây, có thể van xin chúng tha cho. Mặt khác, nó cũng mới chỉ bị
tình nghi là du kích thôi". Nhưng điều đáng nói lại ở chỗ, Bắc có thể tìm đường thoát cho
mình nhưng cô đã chọn cái chết vì những người khác.
Sau này khi Phù Linh được công nhận là xã anh hùng và chuẩn bị xét chọn phong tặng
danh hiệu anh hùng đối với một số cá nhân xứng đáng. nhiều người đã có ý kiến: Phải
truy tặng danh hiệu anh hùng cho cô gái Núi Đôi năm xưa. Tuy thành tích của liệt sĩ Trần
Thị Bắc khiêm nhường hơn những bậc cha chú đi trước nhưng cô lại được lòng dân yêu

mến, bởi cô đã sống đẹp và dám chết khi cần thiết. Cũng phải nói thêm, phải đến lần thứ
ba chuyển mộ và sau khi bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao ra đời vào năm 1956,
Trần Thị Bắc mới được công nhận là liệt sĩ. Tuy nhiên trong lòng dân và trong trái tim
những người thân đồng đội, Bắc vẫn đẹp và còn mãi.
5
TÝch lòy v¨n häc

• Chuyện tình đẹp nhưng mỏng như lá.
Anh bộ đội "sao trên mũ" ấy là Trịnh Khanh người cùng quê Lạc Long. Chúng tôi
tìm đến thôn Hậu Dưỡng - xã Kim Chung - Đông Anh - Hà Nội. Ông Trịnh Khanh
bây giờ đã ngoài 70 tuổi là một lão thành Cách mạng, nguyên Chủ nhiệm khoa Lịch
sử, Viện Mác-Lê Nin. Khác với dự đoán của chúng tôi, ông cởi mở nhưng rất đúng
mực khi chúng tôi gợi về "một miền ký ức" mà ông ít khi nhắc tới, cả với những
người bạn đồng niên.
"Năm ấy đại đội tôi đóng quân ở gần khu sơ tán, tôi tình cờ quen một cô gái đồng
hương đang theo học một lớp y tá tại đó. Có chung nhiều điều để chia sẻ, chúng tôi trở
nên thân thiết. Nhưng rồi chúng tôi cũng phải xa nhau, mỗi người một nhiệm vụ. Bẵng đi
đi gần hai năm, năm 1952, tôi mới gặp lại Bắc khi cô ấy tiếp tục theo học lớp y tá của
tỉnh. Chúng tôi đã hẹn ước với nhau. Trong suốt thời gian đó, Bắc thường xuyên sang
chơi, nấu cơm cho cả mấy anh em trong tiểu đoàn chúng tôi. Mọi người đã gọi cô là "dâu
của tiểu đoàn". Đó là thời gian ngắn ngủi chúng tôi sống trong hạnh phúc của những
người yêu nhau. Rồi Bắc quay về Phù Linh. Tháng 1/1953, Tiểu đoàn 64 của tôi đang
phải đương đầu với một trận càn của một binh đoàn Pháp. Trước trận đánh, người chỉ huy
của tôi đùa: "Sau trận này sẽ duyệt cho thằng Khanh về cưới vợ". Anh em ai cũng mừng
cho tôi, chẳng ai ngờ sau đó ít phút người chỉ huy đó đã hy sinh vì đạn pháo của địch. Và
phải 1 năm sau tôi mới có dịp đi tìm Bắc ở vùng tự do Hồng Kỳ. Nói đến chuyện làm lễ
cưới chúng tôi đều khóc. Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, chúng tôi lại chẳng có tiền
mua thuốc nước mời bạn bè, đồng đội. Bắc trở về hậu địch gặp mẹ. Và thật bất ngờ, mẹ
Bắc đã cõng theo cậu em út từ hậu địch ra mang theo bánh kẹo để chúng tôi làm lễ cưới.
Đêm đó chúng tôi được mọi người chuẩn bị cho một ổ rơm trên đồi. Hai ngày sau chúng

tôi lại chia tay nhau và đó là cuộc chia ly vĩnh viễn…"
Chợt nhớ câu
"Phiên chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng",
Tôi thắc mắc, tại sao trong bao năm, không thấy ai nói chuyện cô Bắc năm xưa có
chồng? Ông Khanh cười buồn: Chúng tôi cưới nhau ở vùng tự do, quê hương ở vùng địch
hậu nên ít người biết ngoài những người thân thích. Vả lại tiếng là cưới nhưng cũng chỉ
được sống cuộc sống vợ chồng có 2 ngày thôi. Sau này, người ta cũng đinh ninh như thế,
tôi cũng chẳng giải thích. Nhắc lại chi một chuyện đau buồn. Năm 1975, tôi tìm gặp nhà
thơ Vũ Cao để cảm ơn ông, nhà thơ lúc đó cũng mới kêu lên: "Thế Bắc có chồng rồi à?"
6
TÝch lòy v¨n häc

Sau 3 tháng kể từ ngày cưới, ông Khanh nhận được một lúc 3 lá thư, 1 lá của đồng
đội, một của vợ ông nhắn đã gửi cho ông chiếc đồng hồ và cái áo len, 1 lá của nhà báo tin
vợ ông đã hy sinh. Ông đau đớn đến lặng người, nhưng hoàn cảnh kháng chiến nên phải
đến hoà bình lập lại ông mới được trở về tìm mộ vợ.
Chiều hôm ấy, những người dân thấy một anh bộ đội thờ thẫn bên gò Cầu Cốn. Người
em của liệt sỹ Trần Thị Bắc nhận ra anh rể, khóc oà. Kể về ngày đó, ông Khanh nghẹn
ngào không nói thành lời. Ông đọc cho chúng tôi nghe khổ thơ:
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Chưa hề gặp người lính cụ Hồ năm nào đã yêu người liệt nữ nhưng sự hình dung của
nhà thơ đã nói được những gì thổn thức trong lòng ông Khanh.
Sau này, khi nỗi buồn nguôi đi, chính mẹ vợ ông, tức mẹ đẻ của liệt sỹ Trần Thị Bắc
đã thân chinh đi hỏi vợ lần nữa cho ông. Ông Khanh kết hôn lần thứ hai với em gái một

đồng đội đã hy sinh. Người đàn bà thứ hai trong đời ông, thật may, là người hiểu lẽ đời
và sống có tình có nghĩa. Bà đã về quê bà Bắc, gặp gỡ họ mạc và các cụ thân sinh ra
người đã khuất. Ai cũng quý mến và xem hai vợ chồng bà như người trong nhà. Bây giờ
khi đã ngoài 70, không thể đi lại nhiều, ông Khanh vẫn cho các con về Núi Đôi vào các
dịp giỗ Tết.
Ông Trần Văn Nhuận, người em út đã chứng kiến đám cưới của anh chị mình bùi ngùi
kể: "Anh tôi (ông Khanh) là người chu đáo, người vợ sau này cũng rất tốt. Giờ đây chúng
tôi không chỉ coi anh ấy như là anh rể mà coi anh ấy như là ruột thịt". Một lần đài truyền
hình về Sóc Sơn quay phóng sự và khẳng định: Liệt sỹ Trần Thị Bắc là liệt sỹ cô đơn
không ai cúng giỗ". Những người em của bà Bắc đã khăn gói lên nhà anh rể vào đúng
ngày gỗ chị. Họ thấy trên bàn thờ mâm cơm ngát mùi khói hương và lặng lẽ khóc.
Những thêu dệt về thân thế của người liệt nữ vẫn không chấm dứt. Bà đã đi vào phim với
một hình ảnh được thêu dệt như thế. Nhưng ít ai biết có một đời thực không tô vẽ, phóng
đại vẫn đẹp mãi giữa cuộc sống thường ngày này và đẹp cả trong tình cảm ấm áp của
người thân cònsống.

Vĩnh biệt Vũ Cao ...Núi vẫn đôi mà thơ mất Anh..
Ngày 17/9/2007 GDTĐ
7
TÝch lòy v¨n häc

Gặp cô gái trong bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ
Tố Hữu
Chị Phạm Thị Viễn ngày nay.
ND - Nhân dịp kỷ niệm 35 năm Chiến thắng "Ðiện Biên Phủ trên không", chúng tôi đã tìm về
làng Tương Mai ngày xưa gặp lại chị Phạm Thị Viễn, cô gái trong bài thơ “Việt Nam máu và
hoa” của Tố Hữu.
Trong bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ
Tố Hữu có câu: "Trắng khăn tang em chẳng khóc
đâu/ Hỡi em gái mất cha, mất mẹ...". Cô gái được

nhắc đến trong hai câu thơ trên là chị Phạm Thị
Viễn, một trong những pháo thủ của Nhà máy cơ khí
Mai Ðộng đã từng hạ gục chiếc máy bay F111- A
cánh cụp cánh xòe vào đêm 22-12-1972.
Từ ký ức mất mát đau thương...
Ðã bước vào cái tuổi 57, nhưng gương mặt người nữ pháo thủ năm ấy vẫn giữ được nét
tươi nhuần của thời xuân sắc. Tiếp chúng tôi trong căn nhà giản dị nằm sâu trong con
hẻm ngoằn ngoèo của phố Tương Mai, chị bảo: Nơi này xưa kia chính là cánh đồng
Tương Mai đấy. Chị đã cất nhà trên thửa ruộng 5% của gia đình, kề bên hố bom đã từng
vùi xác cha chị trong cái đêm 26-12 kinh hoàng ấy.
Rưng rưng trong ký ức thời gian, chị đưa chúng tôi ngược về những năm tháng khó khăn
và đau thương nhất trong cuộc đời chị. Sinh năm 1951 trong một gia đình đã nghèo lại
khá đông con, năm 1966, chị phải khai tăng tuổi để vào học nghề tại Nhà máy cơ khí Mai
Ðộng.
Là công nhân thợ nguội nhưng đất nước đang chiến tranh, phân xưởng của chị vừa sản
xuất vừa phải tham gia chiến đấu. Năm 1967, giặc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá
miền bắc. Trong một lần mang rau ra chợ bán, mẹ chị vì nhường hầm cho mấy cháu nhỏ
mà bị trúng bom B52. Vệt bom giết chết người mẹ thân yêu của chị cũng chính là vệt
bom đã làm chị bị thương khi đang cùng đồng đội sửa nhà giúp một anh cùng tổ. Chị
được đưa vào bệnh viện cấp cứu nhưng đang lúc bom đạn ùng oàng, gia đình không sao
tìm được chị.
Mãi đến hôm sau chị mới nhận được tin mẹ mất. Mang cả vòng băng quấn to sụ trên cổ,
chị vừa chạy vừa khóc, quá trưa mới về đến nhà. Trước mắt chị là cảnh đổ nát hoang tàn.
Chị đã không kịp gặp mẹ và cũng không còn nước mắt để khóc mẹ, chỉ biết ôm chặt cậu
em trai út lúc ấy mới bốn tuổi vào lòng. Không còn mẹ, căn nhà của gia đình chị sao mà
trống vắng đến rợn người. Người anh lớn nhất của chị là bộ đội, lại đang chiến đấu ở xa.
Chị tuy đã là "người nhà nước" nhưng cũng chỉ mới 17 tuổi đầu. Sau chị còn đến năm
đứa em thơ dại. Vậy là vừa đi làm ở nhà máy, vừa trực chiến trên trận địa, chị còn phải
8
TÝch lòy v¨n häc


thay mẹ phụ bố nuôi dạy các em. Cứ thế ròng rã mấy năm trời vất vả, cực nhọc. Thương
con gái ngày nào cũng phải đi bộ đến Nhà máy làm việc, bố chị dự định bán xong mẻ cá
dưới ao sẽ mua cho chị chiếc xe đạp, nhưng ông đã không kịp làm điều đó.
Bố chị không bao giờ còn thực hiện được dự định đó nữa.- Giọng chị bỗng lạc đi,
chìm trong tiếng nấc. Ðôi vai gầy guộc khẽ rung lên. Phải một lát sau chị mới trấn tĩnh
được.
Những ngày tháng cuối cùng của năm 1972, khi đế quốc Mỹ tráo trở đem bom B52 dội
xuống thành phố Hà Nội và Hải Phòng, bố chị vội vàng đưa ba đứa em trai đi sơ tán. Lúc
này chị đã là tự vệ của nhà máy nên phải trực chiến trên trận địa cả ngày lẫn đêm. Mỗi
lần về nhà lấy gạo mang đi, ông thường dặn dò con rất kỹ. Từ việc ăn ở nơi tập thể khi xa
gia đình đến việc qua lại trông nom nhà cửa mỗi lúc ông đi thăm các em. Ông còn tin cậy
chỉ cho chị nơi ông cất tiền dành để mua xe. Thế mà...
... Suốt mấy ngày liền bom Mỹ dội tan hoang thành phố. Trận địa của chị cũng chưa một
phút thảnh thơi. Các chị thay nhau trên mâm pháo. Ngủ cũng chỉ chợp mắt chớp nhoáng.
Ngày 26-12-1972, Hà Nội ngập trong khói bom. Những chùm bom ác nghiệt đã gieo tai
ương thảm khốc xuống các khu dân cư an lành như dẫy phố Khâm Thiên, Yên Viên, Gia
Lâm, Uy Nỗ...
Ðêm ấy, cả thành phố thấp thỏm trong tiếng còi báo động chốc chốc lại rú lên kinh
hoàng. Một loạt B52 bất ngờ dội xuống làng Tương Mai. Rạng sáng hôm sau, chị đang
trực chiến trên trận địa thì hai cô em gái của chị hốt hoảng chạy lên mang theo một tin sét
đánh: "Chị ơi, bố bị bom thả chết rồi!". Ba chị em ôm nhau nước mắt chan hòa. Chị đưa
hai em về nhà, nhưng không sao tìm được thi thể bố. Căn hầm nơi ông thường ẩn nấp bây
giờ là một hố bom sâu hoắm. Mãi ba ngày sau chị mới được tìm thấy bố nhưng chỉ còn
một phần thân thể rách nát. Chị chỉ nhận ra bố qua vạt áo bông đẫm máu.
Ðến chiến công hạ gục chiếc máy bay F111-A...
Kể về chiến công đêm 22-12-1972, chị bảo đó là chiến công của cả tập thể. Ngày ấy các
chị còn trẻ lắm, tất cả đều trên dưới 20 tuổi. Trung đội chị có 11 người được trang bị hai
khẩu súng máy cao xạ. Trận địa được đặt ngay sau nhà máy có nhiệm vụ yểm trợ đơn vị
pháo 100 mm nằm giữa cánh đồng Mai Ðộng.

Ðêm 21-12, không khí chiến đấu đánh trả lũ giặc trời vô cùng sôi sục. Khẩu đội chị được
lệnh đi tiếp đạn cho đơn vị pháo 100 ly. Người chị tuy mảnh mai nhưng chẳng hiểu sao
vẫn đủ sức nâng quả đạn nặng hơn 40kg lên vai mà chạy. Mãi gần 2 giờ sáng các chị mới
quay lại trận địa. Bỗng có tiếng người hét to lẫn trong tiếng gầm rú của máy bay: Trận
địa Lĩnh Nam trúng bom rồi, khu tập thể nhà máy sập rồi! Thế là chẳng kịp nghỉ ngơi,
các chị lại lao đi cứu sập. Cấp cứu người bị thương, chôn cất người chết xong thì trời
cũng tang tảng sáng. Lúc này khẩu đội nhận được lệnh di chuyển pháo về trận địa Vân
Ðồn.
Tại đây đã có hai khẩu pháo của Nhà máy cơ khí Lương Yên, một khẩu của Nhà máy Gỗ,
thêm hai khẩu của Nhà máy cơ khí Mai Ðộng là năm khẩu. Chỉ huy liên đội tự vệ này là
trung úy Hoàng Minh Giám, một sĩ quan trẻ vừa được Quân khu Thủ đô điều ra hỗ trợ.
Anh Giám đã từng chỉ huy rất nhiều trận đánh nên các chị tin lắm. Làm xong công tác
chuẩn bị như cân chỉnh pháo, cắm cọc phương vị xong thì trời đã sâm sẩm tối. Ðã được
9
TÝch lòy v¨n häc

trên thông báo rất có thể đêm nay địch sẽ đánh vào thành phố nên cả trận địa đã chuẩn bị
sẵn sàng. 21 giờ 30 phút đêm 22-12, còi báo động rú lên, toàn thành phố tắt điện. Máy
bay địch xuất hiện. Chúng bay thấp, dọc sông Hồng, như mọc ra từ những cụm khói. Hà
Nội dày đặc lưới lửa. Tiếng người chỉ huy dõng dạc vang lên: "Tất cả nòng súng quay về
hướng 14. Sẵn sàng!" Mọi thông số đã chuẩn bị xong, chỉ còn chờ máy bay đến đúng tầm
ngắm.
Khi nghe dứt hiệu lệnh: "Một điểm xạ ngắn, bắn!". Năm khẩu pháo đồng loạt đạp cò. Ở
vị trí pháo thủ số 1, chị nhìn thấy rất rõ chiếc máy bay bay rẹt qua đầu, phần đuôi của nó
lóe sáng... 30 phút sau có một chiếc xe quân sự của quận Hai Bà Trưng chạy vào thông
báo với cả trận địa một tin vui: Chính họ vừa hạ gục chiếc máy bay F111-A "cánh cụp
cánh xoè". Cả khẩu đội ôm nhau hò reo vui mừng khôn xiết.
Và mối duyên thơ với nhà thơ Tố Hữu
Thật tình cờ, vẫn trong chiến dịch 12 ngày đêm máu lửa ấy, một lần nhà thơ Tố Hữu đến
thăm trận địa của chị khi chị và khẩu đội đang trực chiến trên mâm pháo. Vành khăn tang

trắng trên mái đầu xanh của cô pháo thủ trẻ măng đã khiến nhà thơ hết sức xúc động.
Ông ân cần thăm hỏi động viên cả khẩu đội rồi nói chuyện với chị hồi lâu. Sau đó ít lâu,
một người bạn của chị đã mang tặng chị bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố
Hữu. Bài thơ ấy có bốn câu mà chị nhớ mãi:
"...Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt em làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ..."
Sau chiến dịch "Ðiện Biên Phủ trên không", pháo được kéo về trận địa cũ. Chị lại cùng
trung đội tự vệ vừa sản xuất, vừa trực chiến. Năm 1979, Nhà máy được trang bị thêm một
đại đội pháo 37mm, với cương vị đại đội phó chị gắn bó với trận địa mãi đến năm 1989
mới trở lại nhà máy làm việc. Năm 1991, do hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, chị xin
về hưu với mức lương khiêm tốn. Vất vả bươn chải đủ nghề, chị cũng đã nuôi dạy các em
khôn lớn trưởng thành. Hai con chị, một cháu đã là bộ đội, cháu còn lại cũng có công ăn
việc làm ổn định.
Cô pháo thủ Phạm Thị Viễn của 35 năm về trước bây giờ đang là người cán bộ phường
năng động, xông xáo. Vừa là tổ trưởng đảng, tổ phó tổ dân phố 49- khu dân cư 10
(phường Tương Mai), chị còn là người cán bộ phụ nữ gương mẫu, nhiệt tình và có uy tín
đối với bà con khu phố.
Vieát cho con
Ngày mai, lần đầu tiên con được đứng nghiêm chào lá cờ Tổ quốc và hát
quốc ca. Từ nay, mỗi sáng thứ hai hàng tuần, con sẽ cùng tất cả các bạn, các
anh chị lớp trên đứng nghiêm trang như thế, chào cờ Tổ quốc và hát quốc ca
10
TÝch lòy v¨n häc

Con trai thân yêu của mẹ!
Ngày mai, con dự lễ khai giảng đầu tiên trong cuộc đời. Nắng thu trải vàng trên lối
con đi, óng ánh trên mái tóc, long lanh trong mắt con và các bạn. Ngày khai trường của
các con đầy hoa, bóng bay và những lá cờ đỏ sao vàng nhỏ xíu...

Ngày mai, lần đầu tiên con được đứng nghiêm chào lá cờ Tổ quốc và hát quốc ca. Từ
nay, mỗi sáng thứ hai hàng tuần, con sẽ cùng tất cả các bạn, các anh chị lớp trên đứng
nghiêm trang như thế, chào cờ Tổ quốc và hát quốc ca: "Đoàn quân Việt Nam đi, chung
lòng cứu quốc, bước chân rộn vang trên đường gập gềnh xa...". Con hãy lắng nghe và
nhập tâm giai điệu hùng tráng của bài Quốc ca- Bài học đầu tiên về Tổ quốc thân yêu. Và
giai điệu của bài Quốc ca sẽ thấm vào hồn con trong suốt 12 năm học phổ thông, cho tới
khi con lớn lên, trưởng thành..., để con biết nuôi dưỡng lòng tự hào là người Việt Nam.
Những ngày vừa qua, con đã kịp tới lớp làm quen với cô giáo, với các bạn... Nhưng lễ
khai giảng ngày mai mới thực sự là mốc quan trọng, đánh dấu năm học mới chính thức
bắt đầu. Con sẽ phải cố gắng bỏ thói quen nói chuyện với các bạn trong lớp như ở lớp
mẫu giáo, con sẽ phải viết đúng từng nét như cô dạy, phải tập làm những phép tính đơn
giản đầu tiên: cộng, trừ... Thật chẳng dễ dàng gì khi phải ngồi lặng yên như thế trong suốt
một tiết học. Nhưng con thân yêu ơi, nếu con chú ý lắng nghe từng lời cô dạy, con sẽ thấy
những con chữ và những phép tính khô khan ấy mới đáng yêu làm sao...
Những chữ cái nếu để tách rời thật chẳng có gì hấp dẫn, nhưng nếu ghép chúng vào
với nhau sẽ tạo nên sự biến hoá diệu kỳ. Chữ cái B và chữ cái A ghép với nhau lại thành
chữ: BA- là ba con hàng ngày chăm sóc, đưa đón con đi học. Chữ cái M ghép với chữ cái
E, thêm dấu nặng, thế là thành chữ MẸ- mẹ ngày đêm lo lắng, vun vén cho con từ miếng
cơm, ngụm nước, từ khi con còn tí xíu như em búp bê, cho đến khi lớn cao ngang ngực
mẹ và còn lo mãi cho khi con trưởng thành...
Rồi từng ngày, từng ngày qua đi. Con sẽ học thêm nhiều điều mới lạ. Con biết đọc
truyện, đọc sách. Con sẽ bước vào một thế giới của biết bao điều kỳ diệu, những điều đã
từng diễn ra, đang diễn ra và những điều con người mơ ước trên thế gian này. Những con
chữ sẽ đưa con đến những chân trời mới lạ của sự hiểu biết, mà chẳng bao giờ có giới hạn
tận cùng...
Và những phép tính. Thật tự nhiên, thật dễ dàng làm sao... Một cộng Một bằng Hai.
Mẹ và Ba cộng lại bằng Hai, rồi thêm con nữa là Ba, rồi thêm Em con nữa là Bốn... Cứ
thế, cuộc sống với biết bao điều kỳ diệu, đôi khi chỉ bắt đầu bằng những phép cộng giản
dị, mà ngay ngày đầu tiên đi học con đã có thể làm được. Cộng thêm niềm vui, Trừ đi
những nỗi buồn, Nhân thêm hạnh phúc, rồi Chia những khó khăn... Những phép tính đầu

tiên trong đời vẫn là những phép tính con nhớ nhất trong hàng ngàn, hàng vạn phép tính
trong cuộc đời con sẽ gặp, đưa con bước chân vào cánh cửa của Khoa học ...
Rồi con sẽ thấy đi học vui biết chừng nào, rồi con sẽ yêu cô giáo và các bạn rất nhiều.
Con sẽ thấy lớp học như là một gia đình thứ hai, ở đó, con phải biết lắng nghe và chia sẻ,
phải biết nhường nhịn và cùng gắng sức, phải biết cùng thi đua mà không đố kỵ, biết yêu
lẽ phải và ghét sự dối trá... Lớp học với con là một thế giới mới- thế giới đó sẽ cùng con
đi từng bước, từng bước trên con đường bồi đắp tri thức...
Con trai thân yêu...
Ngày mai, con sẽ thấy tiếng trống trường thật rộn rã... Trong cặp sách có hình vịt Đô-
11
TÝch lòy v¨n häc

nan của con, vở mới trắng tinh, sách giáo khoa thẳng nếp, bảng đen kẻ ô không một vết
xước... Tất cả đã sẵn sàng cùng con tiến bước. Con đừng quên, bố mẹ đã phải vất vả như
thế nào để cho con một sự khởi đầu tinh khôi như thế. Ngày xưa, bố mẹ đều là út trong
gia đình 8-9 anh chị em, cuốn sách giáo khoa qua tay các anh chị đến lượt bố, mẹ tuy
được giữ gìn cẩn thận vẫn không rách, không nhàu, nhưng giấy đã ngả màu vàng theo
thời gian, bìa đã sờn. Chiếc bảng đen đến khi mẹ đi học đã mờ cả dòng kẻ, ông ngoại
phải lấy chiếc đinh nhọn đầu kẻ lại cho rõ dòng. Đến hôm nay, những bài tập, bài kiểm
tra năm xưa của mẹ tuy đã bị cũ, rách bởi thời gian, nhưng mẹ vẫn còn "giữ được lề" con
ạ, bởi ở đó ghi những điểm 9, điểm 10, là kết quả mà mẹ luôn nỗ lực, là công lao, đạo
đức, tình cảm và tấm lòng cao cả của thầy cô, ông bà và cả gia đình; là sự khẳng định
từng ngày trưởng thành về nhân cách cũng như tri thức của mẹ... Những ngày đó, bố mẹ
đi dép cao su đi học, mặc quần áo vá, quản bút bằng gỗ, bằng tre. Nhưng ngày khai giảng
nào cũng vậy, vô cùng náo nức với những cảm xúc khó diễn tả. Với ba mẹ, mỗi ngày đi
học là một ngày vui...
Cuộc sống của các con ngày càng được vun đắp đủ đầy hơn thời cha mẹ xưa, mẹ rất
mong con luôn ngập tràn niềm vui khi tới lớp, rồi mỗi ngày con sẽ lớn lên, trưởng thành
hơn trong niềm vui đó. Nhưng con có biết không, phía sau sự trưởng thành và niềm vui
thơ ngây ấy của con là bao nỗi vất vả của cha mẹ, thầy cô và những người thân yêu xung

quanh con. Mẹ mong con bây giờ, sau này và mãi mãi, cùng với những kiến thức rộng
lớn của nhân loại mà con thu nhận được thì hãy đừng quên câu thơ ba viết tặng con lúc
đầu đầu đời - khi con tròn tháng tuổi, mà mẹ vẫn thường hát ru con:
"Sữa mẹ không phải công danh
Không phải bạc nén, chẳng cành cao chi
Là tình cha mẹ say mê
Là công nội, ngoại thôn quê dãi dầu
Là lời ơi hỡi đêm thâu
Cánh cò bay lả câu ca đầu đời
Là ngày mưa nắng con ơi !
Là chân đạp đất, đội trời sớm hôm
Là những bà Mụ bên con
Cũng từ đồng ruộng mà lên thánh thần"
Con của mẹ, mẹ hát cho con những lời yêu thương chở đầy nắng đẹp mùa thu nâng
bước chân con tới trường trong ngày khai giảng đầu tiên... Lời hát ấy là tất cả những gì
mẹ ấp ủ, trông mong con sẽ trở thành người có ích trong cuộc đời.../.
Nguyễn Mai Hồng
Mùa thu 2007
NiÒm vui ngµy nhµ gi¸o ViÖt nam
12
TÝch lòy v¨n häc

Mùa thu Hà Nội vẫn được coi là mùa đẹp nhất
trong năm, với làn nắng vàng ong, bừng sáng mỗi
mái nhà, góc phố; với ngọn gió mát thổi dọc các
đường cây, tung bay tà áo dài trắng nữ sinh.
Những ngày thu ấy, người làm nghề dạy học lại có
thêm một dịp để suy ngẫm, chiêm nghiệm để thêm
thấm thía niềm vui nghề nghiệp của mình: ấy là
ngày Nhà giáo Việt Nam.

Không biết đã có người thày nào, đến ngày rời bục giảng, thầm tính lại có bao
nhiêu học trò đã ngồi ở những hàng ghế dưới kia trong suốt cuộc đời dạy học của mình?
Và cũng không biết có người học trò đã trưởng thành nào nhớ lại đầy đủ tưng gương mặt,
tính cách của tất cả các thày giáo, cô giáo đã dạy mình từ thủa ấu thơ đến ngày khôn lớn.
Nhưng ai cũng biết rằng những người thày hết lòng vì học sinh, thương yêu và tôn trọng,
ân cần và nghiêm khắc, trí tuệ và gần gũi với học sinh luôn để lại dấu ấn không bao giờ
phai trong các thế hệ học trò. Họ là những nhà giáo mẫu mực, và điều học đem đến cho
học sinh của mình không chỉ là kiến thức, mà còn là cách nghĩ, lối sống, sự khát khao học
hỏi; trong lòng học sinh, họ không chỉ là hình ảnh người thày trong ký ức, mà còn là hình
mẫu với sức mạnh động viên, dìu dắt, nâng đỡ trong mỗi bước đi… Niềm vui cống hiến
chắc chắn là niềm vui lớn nhất của mỗi người làm nghề dạy học, nhất là khi thấy những
lứa học sinh của mình đang từng bước trưởng thành. Nhiều thày cô giáo thường tâm sự
rằng chính việc thường xuyên tiếp xúc với các em, cùng vui buồn chia sẻ với các em và
hướng dẫn , dạy bảo học trò đã làm cho người giáo viên như giữ mãi tuổi trẻ, tâm hồn trẻ
để vừa là người thày, vừa là người bạn lớn của những lứa học sinh. Những món quà nghề
nghiệp ấy thậyt quý giá biết bao.
Nhưng xã hội ngày càng phát triển. Cùng với sự đi
lên không ngừng của các điều kiện kinh tế - xã hội, tốc
độ tăng trưởng của khoa học – công nghệ, nhu cầu nâng
cao chất lượng giáo dục cũng đặt ra ngày càng cấp thiết.
Chỉ có kiến thức và kinh nghiệm từ quá trình dạy học
chưa đủ. Người thày ngày nay còn phải luôn luôn tự trau
dồi bản thân, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn mới có thể làm tròn được nhiệm vụ.
Những tiết giảng giờ đây không chỉ còn đơn thuần bảng đen, phấn trắng mà đã xuất
hiện nhiều phương tiện, thiết bị hiện đại. Học sinh giờ đây không chỉ tiếp nhận kiến thức
từ ghế nhà trường, mà còn thường xuyên tiếp cận với vô vàn thông tin qua nhiều kênh
giao tiếp. Thật đáng mừng là không khí thi đua, học hỏi trong các nhà trường những năm
gần đây luôn hết sức sôi nổi. Khẩu hiệu Mỗi thày cô giáo là một tấm gương sáng về đạo
đức và tự học đang trở thành điều tâm niệm của đội ngũ giáo viên. Những hoạt động

chuyên môn ngày càng đi vào chiều sâu, hướng tới hiệu quả thực chất, toả tác dụng tích
cực vào phong trào đổi mới dạy học. Năm học 2007-2008 này, Hà Nội có 1.027 trường
học, với 34.191 giáo viên. Nếu nhân dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam, mỗi thày cô
13
TÝch lòy v¨n häc

giáo có 1 giờ dạy tốt thực chất thì cả thành phố đã có hơn ba chục nghìn giờ dạy tốt, góp
phần làm cho phong trào đổi mới dạy học đạt nhiều hiệu quả thiết thực hơn. So với các
tình thành trong cả nước, Hà Nội đã sớm đảm bảo 100% giáo viên đạt chuẩn đào tạo. Với
sự quan tâm của thành phố, nhiều hoạt động bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nhà giáo
đang được triển khai và đẩy mạnh, nhiều đoàn cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được
tham dự các khoá học ở trong và ngoài nước. Các phong trào sáng kiến kinh nghiệm,
nghiên cứu khoa học được quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện phát triển. Tất cả những cố
gắng ấy đều nhằm một mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ để đáp ứng những đòi hỏi
của thời kỳ hội nhập và phát triển.
Niềm vui nhân ngày kỷ niệm của ngành cũng là dịp để mỗi nhà giáo chúng ta
cùng động viên nhau phấn đấu, học hỏi không ngừng để hình ảnh người thày càng ngày
càng sáng đẹp, xứng đáng với sự quan tâm, tin cậy của Đảng, của dân, sự tôn vinh của
các thế hệ học trò và của toàn xã hội.
Giáo dục thủ đô
Đọc "Cốm đi qua ngõ"
Bây giờ cốm Làng Vòng không phải là của Làng Vòng xưa
nữa. Một cái gì đó như vừa mất không thể tìm lại. Rất hụt hẫng,
rất tiếc. Tôi đã ngồi lặng rất lâu để nhìn lại những chùm ảnh
trên, để nhớ và như để níu giữ…
“Khi đọc bài viết của Lê Nguyễn Khôi và chùm ảnh minh hoạ làm tôi có nhiều cảm
xúc đan xen; vừa yêu một Hà Nội với những nét văn hoá đậm màu sắc thuần Việt: cốm
xanh gói lá sen, chổi rơm và những căn nhà tranh cứ thu về khói bếp um lên vì rang
cốm. Hình ảnh đó làm tôi nhớ quê da diết. Mặc dù tôi không phải là người Hà Nội
nhưng tôi lại rất yêu Hà Nội vì những nét văn hoá xưa vẫn còn giữ lại giữa phồn hoa

đô hội của “thời kỳ tích cực phát triển”.
Song bây giờ cốm Làng Vòng cũng không phải là của Làng Vòng xưa nữa. Một cái
gì đó như vừa mất không thể tìm lại. Rất hụt hẫng, rất tiếc. Tôi đã ngồi lặng rất lâu để
nhìn lại những chùm ảnh trên, để nhớ và như để níu giữ. Tôi biết rằng sự thay đổi này
là theo lẽ tự nhiên phải thế. Và rất nhiều nét văn hoá xưa lại được tu sửa lại cho mới
hơn, hiện đại hơn. Điều này đã và đang diễn ra ở rất nhiều di tích lịch sử và di tích văn
hoá ở các tỉnh thành mà tôi đã đi du lịch. Tôi thiết nghĩ giá mà những làng văn hoá như
“Làng Vòng” Hà Nội vẫn cố giữ nét xưa thì hay biết mấy. Nghĩa là vẫn chỉ là “Làng
Vòng” thôi như những gì mà người dân “phố cổ Hội An” vẫn đang “cố giữ” thì một Hà
Nội vừa hiện đại lại vừa xưa thật đẹp biết bao. Nó sẽ làm cho mọi người yêu và nhớ
Hà Nội hơn“./.
14
TÝch lòy v¨n häc

Ao làng
Một lần về thăm quê, được câu cá bên chiếc cầu ao, ngắm mặt nước lặng như tờ, thỉnh
thoảng những cánh bèo theo gió đưa đẩy làm cho sợi tơ buộc mồi của cần câu đung đưa
như đánh lừa cá đang cắn câu.
Những chiếc ao làng gắn bó với tuổi thơ, giữ mãi những kỷ niệm suốt đời, những cuộc
đi câu, những lần tắm ao thật thú vị, nước ao trong vắt và mát lạnh tha hồ cho lũ trẻ
chúng tôi bơi lội. Bên những chiếc ao làng còn ghi bao sự tích đánh giặc giữ làng. Ngày
xưa làng nào chẳng có lũy tre, bên trong lũy tre đan dày những dãy ao, do lấy đất đắp
lũy mà thành.
Thời chống Pháp, giặc muốn vào làng phải qua lũy tre, vượt qua những dãy ao. Du kích
nhờ những chiến lũy này mà giữ được làng, chống được giặc. Có một lần giặc Pháp
tổng tấn công vào làng, du kích rút xuống hầm bí mật, có những du kích phải chạy
xuống ao, lặn xuống những lớp bèo để tránh giặc. Những chiếc ao làng còn là tiểu môi
trường tạo ra cảnh quan, tự điều chỉnh khí trời, làm mát khi mùa hè nóng nực và làm ấm
áp trong ngày đông tháng giá. Ao hình thành từ thời đầu sinh cơ lập nghiệp của một
dòng họ một xóm bởi thế cả tập thể đó đã có những quy định riêng, chẳng hạn: Cứ đến

tháng Chạp là "mở hội" thu cá. Cả họ, cả xóm nhộn nhịp chuẩn bị gàu, guồng, làm các
lều tạm để ăn ngủ tại chỗ cả ngày cả đêm, để tát ao. Có những ao lớn phải tát cả tuần
mới cạn. Khi cạn những ông chủ hộ xuống bắt cá lớn, còn lại cá nhỏ, tôm tép thì "tháo
khoán" để cho các bà, các chị, trẻ nhỏ xuống "hôi".
Nhiều làng - trước cửa đình, cửa chùa thường có chiếc ao lớn, những chiếc ao này một
thời còn cung cấp nước ăn cho các hộ. Ngày hội đến, ao lại được dùng để múa rối, hoặc
tổ chức các trò vui như bắt vịt, bơi thuyền, đốt pháo... Chả thế, nhiều nơi còn quy định
không được rửa chân ở ao đình, ao chùa. Bởi các cụ cho rằng ao làng là "mắt rồng" là
nơi tích phúc giúp cho làng đa đinh, đa tài, đa lộc, giúp cho dân làng yên vui thịnh
vượng. Để gìn giữ cho ao làng luôn sạch sẽ, hương ước của làng còn ghi rõ: Cứ ngày
mùng một hằng tháng hoặc có nơi quy định "Xuân thu nhị kỳ" tất cả dân làng phải làm
sạch ao, vớt bớt bèo, làm sạch bùn để cho nước ao lúc nào cũng trong sạch. Có nhà thơ
đã viết:
Ao làng trăng tắm mây bơi
Nước trong như nước mắt người tôi thương.
Nhưng thời "tấc đất tấc vàng", những chiếc ao làng đang bị xóa dần. Nhiều người
không thấy cái giá của sự phá hủy môi trường, "tham vàng bỏ ngãi", họ gặm dần, lấn
dần ao để làm nhà, xây hàng quán, cốt để có nhiều tiền nhưng biết đâu cái họa đang đến
gần. Khi mùa hè đến, cả làng nháo lên vì thiếu nước, nắng hè thiêu đốt con người và
không khí ngột ngạt gây tai họa cho cuộc sống cả cộng đồng. Mong sao, những ao làng
vẫn còn mãi với thời gian./.
15

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×