Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị công ty cổ phần tasco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.84 KB, 68 trang )

1
1

1

TÓM LƯỢC
Quản trị là hoạt động tất yếu của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Cổ
phần Tasco nói riêng. Quản trị hiệu quả đem lại hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh cho chính doanh nghiệp. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Tasco,
em đã có những trải nghiệm thực tế bổ ích tại Công ty. Từ quan sát, nghiên cứu và
phân tích thực trạng, em nhận thấy các hoạt động quản trị của Công ty phụ thuộc rất
lớn vào môi trường kinh doanh đặc thù. Vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị Công ty Cổ phần
Tasco” để làm rõ vấn đề này trong bài khóa luận của mình.
Với mục tiêu góp phần hoàn thiện quản trị Công ty Cổ phần Tasco, em xin đi sâu
phân tích những ảnh hưởng của môi trường đặc thù tại Công ty, từ đó nhận định những
thuận lợi và khó khăn trong công tác quản trị để đề xuất những giải pháp phù hợp. Nội
dung đề tài gồm:
Phần mở đầu: Đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về đề tài nghiên cứu qua việc đề
cập đến tính cấp thiết của đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm
vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu đề tài.
Chương 1: Trình bày một số khái niệm và lý thuyết về môi trường kinh doanh mà
đặc biệt là môi trường đặc thù của doanh nghiệp, các yếu tố của môi trường đặc thù,
quản trị và các chức năng quản trị. Đồng thời, đi sâu phân tích ảnh hưởng các yếu tố
môi trường đặc thù đến quản trị doanh nghiệp.
Chương 2: Tập trung phân tích, đánh giá thực trạng ảnh hưởng của môi trường
đặc thù đến quản trị Công ty Cổ phần Tasco. Từ đó nhận định những thuận lợi và khó
khăn trong mối quan hệ giữa Công ty và các yếu tố thuộc môi trường đặc thù để làm
cơ sở cho việc đề xuất giải pháp mang tính khả thi ở chương sau.
Chương 3: Đề xuất các giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
quản trị của Công ty Cổ phần Tasco trước ảnh hưởng của môi trường đặc thù.



1


2
2

2

LỜI CẢM ƠN
Bài khóa luận này hoàn thành cũng là sự đánh dấu kết quả của bốn năm học tập
và rèn luyện tại trường Đại học Thương Mại – nơi em đã được các thầy cô dìu dắt và
truyền tải những kiến thức cũng như kỹ năng và kinh nghiệm sống để chuẩn bị hành
trang cho những bước tiến tiếp theo của cuộc đời. Để hoàn thành bài khóa luận tốt
nghiệp với đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị
Công ty Cổ phần Tasco”, với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, em cũng đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ từ phía nhà trường, thầy cô, bạn bè cùng Ban lãnh đạo và cán bộ
công nhân viên của Công ty Cổ phần Tasco.
Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo Khoa Quản trị Doanh
Nghiệp, trường Đại học Thương Mại, đặc biệt là cô PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Loan
đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt thời gian làm khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công
nhân viên của Công ty Cổ phần Tasco đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để em hoàn thành tốt kỳ thực tập cũng như hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của
mình.
Do thời gian có hạn và kiến thức với kỹ năng tổng hợp còn hạn chế, trong quá
trình làm bài khóa luận không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự bổ
sung, góp ý của các thầy, cô giáo và các cán bộ nhân viên của Công ty Cổ phần Tasco
để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Phạm Hương Thảo

2


3
3

3

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tên bảng biểu

Bảng 2.1.3.2 - Cơ cấu lao động của Công ty cổ phần Tasco năm
2015
Bảng 2.1.3.3 - Tổng mức và cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty
Cổ phần Tasco năm 2013- 2015
Bảng 2.1.3.4 - Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ
phần Tasco
Bảng 2.2.1a - Cơ cấu doanh thu của Công ty Cổ phần Tasco giai
đoạn 2013 – 2015
Biểu đồ 2.2.1b – Mức độ quan trọng của các yếu tố trong
nghiên cứu khách hàng
Bảng 2.2.2.1 Danh sách các nhà cung ứng năm 2015
Bảng 2.2.3.3a : Số lượng, chất lượng lao động của Công ty
Tasco năm 2015
Biểu đồ 2.2.3.3b – Nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
Công ty và nhà cung ứng
Biểu đồ 2.2.3a: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu về sản
lượng căn hộ trung cấp, Hà Nội, 2013 - 2015
Bảng 2.2.3b: Đánh giá đối thủ cạnh tranh của Công ty Cổ phần
Tasco
Biểu đồ 2.2.4 - Ảnh hưởng chủ yếu của cơ quan Nhà nước
Bảng 3.1.1.2 – Mục tiêu tài chính của Công ty Cổ phần Tasco
năm 2015- 2020

Trang
29
30
31
33
35
41

43
44
46
47
49
59

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
STT
1

Tên sơ đồ, hình vẽ
Hình 2.1.2.2 - Sơ đồ tổ chức Công ty Cổ phần Tasco

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
3

Từ viết tắt
QLDA

Ý nghĩa
Quản lý dự án

Trang
27


4

4

4

2
3
4
5
6
7
8

4

BĐS
QLCL
QLRR
TVGS
TVTK
ATLĐ
TNHH

Bất động sản
Quản lý chất lượng
Quản lý rủi ro
Tư vấn giám sát
Tư vấn thiết kế
An toàn lao động
Trách nhiệm hữu hạn



5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Sau nhiều năm tiến hành việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh
nghiệp nước ta đã dần khắc phục các khó khăn ban đầu, dần làm quen và ổn định hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình theo cơ chế mới. Xu hướng tự do hóa và toàn cầu
hóa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có một thị trường mở, các rào cản dần bị loại
bỏ. Bên cạnh đó, cơ chế thị trường mới cũng đem theo sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi
các doanh nghiệp phải tìm cách phát huy tốt nhất nguồn nội lực, đồng thời chủ động
tìm kiếm cơ hội, tránh những rủi ro từ môi trường kinh doanh. Vì vậy môi trường kinh
doanh, mà trước hết là môi trường kinh doanh đặc thù là xuất phát điểm cho mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay đất nước thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
cơ sở hạ tầng. Đây là thời điểm vàng cho các công ty xây dựng và đầu tư hạ tầng giao
thông như Công ty Cổ phần Tasco. Trong khi đó dân số Việt Nam không ngừng gia
tăng cùng với đó là nhu cầu cũng như quan niệm truyền thống của người Việt về nhà
ở đã ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định về hoạt động kinh doanh của Công ty.
Tuy nhiên, môi trường kinh doanh luôn biến động không ngừng, mỗi sự biến động dù
là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung và quản trị
doanh nghiệp nói riêng. Chính vì vậy doanh nghiệp cần nghiên cứu, phân tích môi
trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh doanh đặc thù trong đó bao gồm các
yếu tố: đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung ứng, các cơ quan hữu quan nhằm
hiểu rõ môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động, đồng thời dự đoán được chính
xác những biến động nhằm quản trị doanh nghiệp hiệu quả, đem lại thành công cho
doanh nghiệp.

Qua quá trình nghiên cứu thực tế ở Công ty Cổ phần Tasco, nhận thấy tầm ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường kinh doanh đặc thù tới công ty giai đoạn hiện nay rất
lớn. Hơn nữa, mỗi yếu tố lại có mức độ tác động tới quản trị công ty là khác nhau. Vì
những điều trên, nhận thức được tính cần thiết và yêu cầu thực tiễn của vấn đề, để có
thể nghiên cứu chuyên sâu vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu ảnh
hưởng của yếu tố môi trường đặc thù tới quản trị Công ty Cổ phần Tasco”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.


6

Nghiên cứu môi trường kinh doanh của doanh nghiệp không những có ý nghĩa to
lớn với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa cho cả nền kinh tế quốc gia. Doanh
nghiệp là chủ thể của nền kinh tế, Không thể phủ nhận sự đóng góp của các doanh
nghiệp tới sự phát triển chung của nền kinh tế. Các doanh nghiệp có trách nhiệm hoàn
thành mục tiêu kinh tế đã được Nhà nước định hướng và đặt ra, từ đó xây dựng nền
kinh tế bền vững, phát triển phồn thịnh. Môi trường kinh doanh luôn tạo ra những biến
động và những tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
vậy đó luôn là vấn đề được các nhà quản trị quan tâm và nghiên cứu. Trong những
năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Thương
-

Mại về vấn đề này như:
Nguyễn Thị Bích Diệp (2008), Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh
doanh đặc thù nhằm hoàn thiện quản trị Công ty Cổ phần SIMCO Sông Đà, Luận văn
tốt nghiệp trường Đại học Thương Mại. Luận văn nghiên cứu lý thuyết về quản trị và
môi trường kinh doanh đặc thù, ảnh hưởng của môi trường đặc thù đến quản trị công
ty từ đó đề xuất giải pháp khắc phục những khó khăn trong quản trị công ty đang gặp

-


phải.
Nguyễn Thị Trang (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường kinh doanh
đặc thù tới hoạt động quản trị của công ty TNHH Thương mại và dược phẩm Phương
Đông, Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Thương Mại. Khóa luận đã đánh giá được
những tác động tích cực và tiêu cực mà môi trường đặc thù ảnh hưởng đến quản trị
công ty. Trên cơ sở đó kiến nghị và đề xuất các giải pháp trong hoạch định, tổ chức,

-

lãnh đạo và kiểm soát phù hợp với công ty.
Nguyễn Trang Nhung (2007), Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh
doanh đặc thù nhằm hoàn thiện công tác quản trị Công ty Cổ phần May Bắc Giang,
Luận văn tốt nghiệp trường Đại học Thương Mại. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu lý
thuyết và thực tiễn ảnh hưởng các yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị công ty từ đó
qua phương pháp định tính và định lượng đề xuất giải pháp hoàn thiện quản trị công ty
dưới tác động của môi trường đặc thù.
Qua tìm hiểu em nhận thấy các đề tài trên đều tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ cùng
một góc độ là bắt đầu tiếp cận từ cơ sở lý luận, tổng quan về môi trường kinh doanh
đặc thù, đồng thời tiếp cận từ thực tiễn, khảo sát đánh giá thực trạng ảnh hưởng của
môi trường kinh doanh đặc thù đến quản trị doanh nghiệp. Từ đó đưa ra các kiến nghị
đề xuất nhằm hoàn thiện quản trị tại doanh nghiệp nghiên cứu. Các đề tài trên đều đã


7

đạt được những kết quả như mục tiêu đã nêu trong đề tài: làm nổi bật được cơ sở lý
luận làm tiền đề nghiên cứu thực tiễn ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đặc thù,
làm rõ được ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đặc thù đến quản trị Công ty, đưa
ra được các kết luận chính xác và trọng tâm. Từ đó có thể giúp công ty nhận thức được

tầm quan trọng của môi trường kinh doanh đặc thù và đưa ra giải pháp thích hợp giúp
công ty phát triển.
Nhận thấy tầm quan trọng của môi trường kinh doanh đặc thù đến các doanh
nghiệp trong nền kinh tế hiện nay, bên cạnh đó chưa có đề tài nào được nghiên cứu về
môi trường kinh doanh đặc thù trong ba năm trở lại đây tại Công ty Cổ phần Tasco. Do
đó em quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù
tới quản trị Công ty Cổ phần Tasco” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu đề tài là đề xuất giải pháp hoàn thiện quản trị Công ty Cổ
phần Tasco dưới tác động của môi trường đặc thù đến năm 2020. Để hoàn thành được
mụa tiêu trên, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về môi trường đặc thù và ảnh hưởng
của các yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị công ty, làm cơ sở khoa học cho việc
khảo sát thực tế và đề xuất giải pháp.
- Phân tích đánh giá thực trạng ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đặc thù đến
quản trị Công ty Cổ phần Tasco làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản trị Công ty dưới tác động của
môi trường đặc thù.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của yêu tố môi trường đặc thù
tới quản trị Công ty Cổ phần Tasco.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Môi trường kinh doanh đặc thù tại miền Bắc của Công ty.
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu dữ liệu về các yếu tố thuộc môi trường đặc thù
của Công ty Cổ phần Tasco trong 3 năm gần đây (2013-2015).
- Về nội dung: Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đặc thù tới quản
trị doanh nghiệp trên cơ sở những lý luận kết hợp với thực tiễn tại công ty kinh doanh.



8

Đề tài đề cập đến bốn yếu tố môi trường kinh doanh đặc thù chính, bao gồm: khách
hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà cung ứng, các cơ quan hữu quan.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
5.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Trong quá trình thu thập thông tin, em đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát hiện trường: Thời gian thực tập tại phòng kinh doanh
em đã thu thập những thông tin về khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh để có
những nhận định khái quát về môi trường đặc thù của công ty.
- Phương pháp điều tra trắc nghiệm: Sử dụng các mẫu phiếu điều tra trắc nghiệm
dưới dạng chuyên sâu bao gồm các câu hỏi mang tính định lượng để thu thập thông tin
về vấn đề nghiên cứu. Em tiến hành đưa ra 3 mẫu phiếu điều tra: dành cho cán bộ công
nhân viên trong Công ty (tổng số phiếu điều tra là 17 phiếu), cho khách hàng (5 phiếu)
và cho nhà cung cấp (8 phiếu) . Mẫu phiếu được đưa vào phần phụ lục.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Đưa ra các câu hỏi mở cho các cán bộ Công
ty để làm rõ những điều mà phiếu điều tra trắc nghiệm không thể đưa ra.
5.1.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Thu thập các dữ liệu được lưu giữ ở các phòng/ ban trong Công ty và các tài liệu
có liên quan bên ngoài Công ty.
- Nguồn dữ liệu bên trong Công ty: Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, Báo
cáo Tài chính, Cơ cấu nhân sự ( 2013-2015).
- Nguồn thông tin bên ngoài Công ty: Các giáo trình, sách nghiên cứu khoa học,
luận văn của các khóa trước, thông tin trên các website, tạp chí khoa học,…
5.2 Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp định lượng: thống kê, so sánh, lập bảng tính… Đây là các phương
pháp sử dụng để tổng hợp các dữ liệu dưới dạng con số, tỷ lệ so sánh.
- Phương pháp định tính: tổng hợp, phân tích kinh tế, quy nạp, diễn dịch… Đây

là các phương pháp dựa vào các kết quả của phương pháp định lượng để đi sâu phân
tích, bóc tách bản chất của vấn đề nghiên cứu.
6. Kết cấu đề tài.


9

Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được chia làm ba phần:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù
đến quản trị doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đặc thù
đến quản trị Công ty Cổ phần Tasco
Chương 3: Đề xuất và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản trị Công ty Cổ phần
Tasco dưới tác động của môi trường kinh doanh đặc thù.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ
MÔI TRƯỜNG ĐẶC THÙ ĐẾN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.

Không một tổ chức nào có thể tồn tại như một hòn đảo độc lập, chúng luôn tồn
tại dựa vào sự tác động và ảnh hưởng qua lại bởi rất nhiều tác nhân vận động xung
quanh mà chúng ta thường gọi chung là môi trường hoạt động. Nếu tổ chức là doanh
nghiệp thì môi trường hoạt động được gọi là môi trường kinh doanh. Có nhiều quan
điểm khác nhau về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tùy vào cách tiếp cận.
Tuy nhiên có thể hiểu rằng môi trường kinh doanh là tổng hợp các yếu tố (tự nhiên,
chính trị, kinh tế, xã hội, …), các điều kiện khách quan và chủ quan mà doanh nghiệp
chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Đó là tổng thể những điều kiện, những yếu tố bên trong và bên ngoài tác động

đến doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và có hiệu
quả.
Như vậy ta có thể rút ra khái niệm chung nhất về môi trường kinh doanh như sau:
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố, điều kiện
khách quan và chủ quan bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, có mối liên hệ tương
tác lãn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Dù theo cách tiếp cận nào, ta đều có thể hiểu phạm trù về môi trường kinh doanh
là khá rộng. Nếu nó gây ảnh hưởng và tác động một cách khách quan tới hoạt động
của doanh nghiệp thì được gọi là môi trường bên ngoài của doanh nghiệp; nếu môi
trường mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được những tác động và tầm ảnh hưởng của


10

nó thì được gọi là môi trường bên trong doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể xem xét các
nhân tố hình thành nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp:
• Môi trường bên ngoài gồm môi trường chung và môi trường đặc thù
- Môi trường chung: bao gồm các lực lượng rộng lớn có ảnh hưởng đến các quyết định
chiến lược trong dài hạn của doanh nghiệp. Ví dụ: văn hóa, kinh tế, chính trị, luật
pháp,…
- Môi trường đặc thù: Là môi trường của ngành kinh doanh mà doanh nghiệp
đang hoạt động, bao gồm một tập hợp các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh
nghiệp và đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ phía doanh nghiệp. Trong đó 4 yếu tố
chính là: Khách hàng, nhà cung ứng, đối thủ cạnh tranh và các cơ quan hữu quan. Đây
là những cá nhân, tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, quyền lợi của họ

1.1.2

có liên quan, gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Môi trường bên trong bao gồm các yếu tố như văn hóa doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng,
vốn, người lao động,…
Môi trường kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp tồn tại được luôn chịu sự tác động và ảnh hưởng qua lại bởi
rất nhiều tác nhân vận động xung quanh. Môi trường kinh doanh đặc thù là một bộ
phận của môi trường kinh doanh bên ngoài nên nó chứa đựng các tác nhân bên ngoài
doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ngoài
ra, nó tạo nên sự khác biệt, là những yếu tố môi trường riêng của từng doanh nghiệp và
làm cho nó phân biệt với các doanh nghiệp khác.
Có nhiều quan điểm và ý kiến đề cập tới khái niệm cũng như yếu tố thuộc môi
trường kinh doanh đặc thù. Khóa luận xin được tiếp cận khái niệm môi trường kinh
doanh đặc thù của doanh nghiệp như sau:
Môi trường kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp là những yếu tố môi trường
kinh doanh riêng của từng doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp phân biệt với doanh
nghiệp khác. Nói cách khác môi trường kinh doanh đặc thù là môi trường chứa đựng
các tác nhân ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó bao gồm các cá nhân hay tổ chức ở bên ngoài doanh nghiệp mà quyền lợi
của họ có liên quan gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Yếu tố môi trường kinh doanh đặc thù về cơ bản bao gồm: Khách hàng, nhà cung
cấp, đối thủ cạnh tranh, các cơ quan hữu quan. Những yếu tố này tác động trực tiếp và
ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo World Economic


11

Forum ( Diễn đàn kinh tế thế giới), các yếu tố môi trường kinh doanh đặc thù của
doanh nghiệp hiện nay có nhiều thay đổi. Xu hướng vận động của môi trường kinh
doanh thường phù hợp và thích ứng biến đổi của nền kinh tế. Khi hội nhập kinh tế thế
giới, sự cạnh tranh công bằng bắt buộc các cơ quan nhà nước không còn có thể can

thiệp quá sâu vào công việc của bản thân mỗi doanh nghiệp cũng như tác động tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên lĩnh vực công ty đang hoạt
động kinh doanh chịu nhiều tác động từ phía các cơ quan hữu quan nên bài viết xin
được đi sâu nghiên cứu các yếu tố môi trường kinh doanh đặc thù của công ty bao
gồm: Khách hàng, nhà cung ứng, đối thủ cạnh tranh, các cơ quan hữu quan theo quan
điểm thông thường.
- Khách hàng: là người có nhu cầu về sản phẩm hàng hóa (dịch vụ) và có khả
năng thanh toán, người đang và sẽ mua hàng của doanh nghiệp. Khách hàng có thể là
người tiêu dùng trực tiếp hoặc các trung gian phân phối như các đại lý, nhà bán buôn,
bán lẻ,…
- Nhà cung ứng: các cá nhân, tổ chức cung cấp các nguồn lực đầu vào, nguyên
vật liệu… cho doanh nghiệp để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ.
- Đối thủ cạnh tranh: là các cá nhân, tổ chức tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào
lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp và gây tác động tới kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Các cơ quan hữu quan: bao gồm các cơ quan Nhà nước, các cơ quan tổ chức địa
phương, hiệp hội các ngành hàng, các cơ quan bảo vệ môi trường…
1.1.3 Quản trị doanh nghiệp
Quản trị là một thuật ngữ thông dụng được sử dụng thường xuyên trong đời sống
của chúng ta, nhất là trong nền kinh tế hóa, người người kinh doanh, nhà nhà kinh
doanh như hiện nay. Tuy nhiên, khái niệm quản trị được nhìn nhận theo nhiều khía
cạnh và góc độ khác nhau. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những định nghĩa hay khái
niệm khác nhau trong các tài liệu nghiên cứu về quản trị:
-

Quản trị là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm

-

đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường

Quản trị là tổng hợp các hoạt động được thực hiện nhằm đạt được mục đích (đảm bảo
hoàn thành công việc) thông qua sự nỗ lực (sự thực hiện) của những người khác. [5]


12
-

Quản trị là một quá trình do một hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp các hoạt
động của những người khác để đạt được những kết quả mà một người hành động riêng
rẽ không thể nào đạt được. [2]
Từ những quan điểm trên đây, có thể rút ra khái niệm chung nhất về quản trị như
sau:
Quản trị là hoạt động nhằm đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả bằng sự
phối hợp các hoat động của những người khác thông qua hoạch định, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm soát các nguồn lực của tổ chức.
Như vậy, có thể thấy thứ nhất, quản trị là hoạt động của một hay một số người
nhằm phối hợp các hoạt động của người khác để đạt được mục tiêu. Thứ hai, sự phối
hợp các hoạt động được thực hiện thông qua hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát
các nguồn lực của tổ chức. Thứ ba, quá trình hoạt động đòi hỏi sử dụng nhân tài, vật
lực đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả nhất. Cuối cùng, quản trị là một khoa học,
một nghệ thuật và là một nghề.
1.1.3.1 Hoạch định
Có thể nói hoạch định giữ vai trò mở đường cho các chức năng quản trị khác
trong doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phụ thuộc vào công tác
hoạch định nhằm đạt được kết quả mà hoạch định đã xác định. Có rất nhiều quan điểm
về hoạch định. Những quan điểm được sử dụng nhiều, dễ hiểu và tiêu biểu là:
- Theo Harold Koontz. Cyril Odonnel: “Hoạch định là quá trình xác định mục
tiêu và quyết định phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục tiêu.”
- Hoạch định là quyết định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi nào làm
và ai làm cái đó.

- Hoạch định là quá trình lao động trí óc, liên quan đến tư duy và ý chí của con
người về tương lai phát triển của tổ chức, về những dự định mong muốn của nhà quản
trị.
- Hoạch định là việc xác định rõ những công việc phải làm ( tổ chức, lãnh đạo,
kiểm tra) và tiến hành thực hiện; cách thức thực hiện và các nguồn lực cần huy động
thực hiện mục tiêu
- Hoạch định là “đối phó sự bất định” bằng một bản kế hoạch chi tiết để đạt được
mục tiêu đã đặt ra (R.Kreitner. Management. .ed. Boston Houghton mitthin 1998, page
160). Do đó nó vừa có tính dự báo nhưng cũng vừa thể hiện ý chí, sự can thiệp của con
người nhằm đạt được mục tiêu với chương trình hoạt động cụ thể, những biện pháp cụ
thể.


13

- Hoạch định là quá trình ra quyết định cho các hoạt động tương lai…
Tổng hợp các quan điểm trên, ta có thể hiểu:
Hoạch định là một quá trình liên quan đến tư duy và ý chí của con người, bắt
đầu bằng việc xác định mục tiêu, định rõ chiến lược, chính sách, thủ tục, quy tắc, các
kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu.
Hoạch định cũng chỉ rõ các giai đoạn mà tổ chức phải trải qua để thực hiện các
mục tiêu đã xác định. Quá trình này ( ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định…)
được lặp đi lặp lại thành một chu kỳ.
Từ cách tiếp cận trên, có thể thấy hoạch định là một quá trình lao động trí óc đặc
biệt. Đó là sự suy nghĩ về tương lai phát triển của tổ chức, về những dự định và mong
muốn của các nhà quản trị và cách thức mà họ dự định thực hiện để đạt được mong
muốn đó.
Trên thực tế, hoạch định và dự báo giống nhau ở chỗ đều đề cập đến thời tương
lai của sự vật, hiện tượng, quá trình nhưng lại khác nhau ở chỗ trong khi dự báo là
những nhận định, đánh giá tình hình như một sự việc sẽ xảy ra mà không có sự can

thiệp của con người nhằm làm thay đổi xu hướng vận động hoặc kết quả; ngược lại
hoạch định đòi hỏi các nhà quản trị phải tích cực can thiệp làm thay đổi xu hướng vận
động, thúc đẩy sự vận động cho phù hợp với mục tiêu đã xác định của tổ chức, tìm mọi
biện pháp để có thể đạt được mục tiêu đó.
Như vậy, hoạch định là một quá trình liên tục gồm một loạt các hành động và
việc tạo lập quan hệ nhịp nhàng giữa các hành động và quyết định để đạt được kết quả
mong muốn. Quá trình liên tục này được gọi là tiến trình hoạch định. Công tác hoạch
định giúp tăng khả năng thành công của nhà quản trị nhờ phân tích và dự báo trước
được những thời cơ, thách thức, khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện mục
tiêu. Từ đó chủ động có giải pháp nắm bắt thời cơ, hạn chế rủi ro. Đồng thời, hoạch
định định hướng hoạt động của tổ chức, thống nhất suy nghĩ và hành động, tập trung
vào những mục tiêu và nhiệm vụ trọng yếu trong từng thời kỳ. Hoạch định còn là cơ
sở cho việc phân quyền, nhiệm vụ, thực hiện sự phối hợp các yếu tố, bộ phận trong tổ
chức, tạo sự chủ động sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ, công việc cho các bộ phận và
thành viên trong tổ chức; là cơ sở triển khai các hoạt động tác nghiệp; là cơ sở cho
kiểm tra và điều chỉnh.
1.1.3.2 Tổ chức


14

Nếu như hoạch định là xác định việc phải làm, làm như thế nào khi nào làm và ai
làm thì tổ chức phân chia quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bộ phận, cá nhân trong tổ
chức, từ đó làm cơ sở triển khai đúng người đúng việc. Với cách tiếp cận này, ta có
khái niệm về tổ chức:
Tổ chức là quá trình xác định các công việc cần phải làm và những người làm
các công việc đó, định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bộ phận và các
nhân cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận và cá nhân này trong khi tiến hành công
việc, nhằm thiết lập một môi trường thuận lợi cho hoạt động và đạt đến mục tiêu
chung của tổ chức.

Từ định nghĩa trên ta có thể thấy tổ chức là một quá trình hai mặt: một là, phân
chia tổ chức ra thành các bộ phận; và hai là, xác lập các mối quan hệ về quyền hạn
giữa các bộ phận.
Tổ chức có vai trò quan trọng trong quản trị doanh nghiệp, là chất bôi trơn để hệ
thống hoạt động liên tục, không bị gián đoạn, đạt hiệu quả cao. Công tác tổ chức tạo
“nền móng” cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung và cho hoạt động quản trị nói
riêng. Công tác hoạch định, lãnh đạo, kiểm soát đều phải dựa trên một cấu trúc tổ chức
nhất định, nói cách khác, mọi hoạt động quản trị căn bản trên cũng phải được tổ chức
sao cho phù hợp và hiệu quả. Mục tiêu của tổ chức là sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của doanh nghiệp, đặc biêt là nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật. Việc phân
công lao động khoa học, phân quyền hợp lý và xác định tầm hạn quản trị phù hợp sẽ
tạo điều kiện cho nhân viên phát huy tốt nhất năng lực sở trường của họ. Mặt khác sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng và đa dạng hóa tổ chức, nâng cao tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo cho đội ngũ các nhà quản trị.
Nếu công tác tổ chức không được thực hiện tốt sẽ gây nhiều khó khăn phức tạp
cho công tác quản lý. Có khoảng từ 75- 80% những vấn đề khó khăn, phức tạp trong
công tác quản trị phải được xem xét, giải quyết bắt đầu từ những nhược điểm của công
tác tổ chức. Hơn nữa, phần lớn các khuyết điểm mắc phải trong một tổ chức là do sự
coi thường và vi phạm các quy luật của tổ chức.
Tổ chức hiệu quả tạo ra văn hóa doanh nghiệp – nền tảng của sự hợp tác giữa các
thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp.
1.1.3.3 Lãnh đạo
Lãnh đạo là một chức năng không thể thiếu trong quản trị doanh nghiệp. Dưới
góc độ tổ chức, lãnh đạo đóng vai trò điều hành doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
Lãnh đạo như thế nào là một nghệ thuật mà các nhà quản trị luôn mong muốn đạt được


15

nhằm nâng cao uy tín của bản thân cũng như vị thế của doanh nghiệp. Có nhiều khái

niệm về lãnh đạo:
- Lãnh đạo là năng lực gây ảnh hưởng đến nhân viên hay tổ chức để thúc đẩy họ
tự nguyện thực hiện mục tiêu của tổ chức.
- Lãnh đạo là tạo động lực, hướng dẫn và gây những ảnh hưởng khác tới con
người để họ tích cực làm việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Là hoạt động nhằm tác động đến nhận thức của nhân viên qua đó điều chỉnh
được hành vi và hoạt động của họ nhằm đạt được mục đích của mình.
- Những tác động mà nhà quản trị bao gồm: thuyết phục, động viên (tạo động
lực), chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh, uốn nắn, bằng thủ đoạn, bằng uy tín,...
Từ những quan điểm kể trên, có thể rút ra khái niệm về lãnh đạo chung nhất mà
khóa luận xin được tiếp cận là:
Lãnh đạo là hoạt động cần thiết thực hiện chức trách của nhà quản trị nhằm
gây ảnh hưởng ( thúc đẩy) đến nhân viên để họ tự nguyện, nhiệt tình thực hiện mục
tiêu của tổ chức.
Lãnh đạo đóng vai trò không thể thiếu trong công tác quản trị doanh nghiệp bởi
sản phẩm hoạch định và tổ chức có trở thành hiện thực hay không tùy thuộc vào hiệu
quả của lãnh đạo. Sau khi đã xác định mục tiêu đúng thì sự thành bại của công tác tổ
chức phụ thuộc phần lớn ở chức năng lãnh đạo. “Các hoạt động quản trị như lập kế
hoạch, tổ chức và ra quyết định chỉ là những cái kén nằm im cho đến khi người lãnh
đạo khơi dậy một động lực trong con người và dẫn dắt họ hướng đến mục tiêu”. Chức
năng lãnh đạo có liên quan đến việc ra quyết định, truyền đạt và tổ chức thực hiện các
quyết định quản trị bằng cách giao việc, ủy quyền, động viên , đề bạt, khen thưởng cấp
dưới; từ đó tích cực hóa tinh thần và thái độ làm việc của người lao động, điều đó lại
liên quan trực tiếp đến năng suất và hiệu quả kinh doanh, đồng thời giúp nâng cao
năng lực, phẩm chất của nhân viên và tạo ra bầu không khí lành mạnh, sức mạnh tinh
thần của doanh nghiệp. Hơn nữa, chức năng lãnh đạo thể hiện tài năng của các nhà
quản trị không phải ở lý luận mà là ở hoạt động thực tiễn. Thông qua các chức năng
này có thể đánh giá được năng lực thực tiễn của các nhà quản trị một cách khách quan.
1.1.3.4 Kiểm soát
Chức năng cuối cùng và không kém phần quan trọng của quản trị là kiểm soát.

Nếu như hoạch định vạch ra mục tiêu, tổ chức phân công nhiệm vụ và quyền hạn, lãnh
đạo điều hành để đạt được mục tiêu đó thì kiểm soát đánh giá, đo lường mức độ thực
hiện so với mục tiêu đề ra, kịp thời điều chỉnh để đạt được mục tiêu ban đầu. Vì vậy có
thể tiếp cận khái niệm về kiểm soát một cách dễ hiểu nhất như sau:


16

Kiểm soát là quá trình đo lường kết quả thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn,
phát hiện sai lệch và nguyên nhân, tiến hành các điều chỉnh nhằm làm cho kết quả
cuối cùng phù hợp với mục tiêu đã được xác định.
Qua cách tiếp cận trên, có thể thấy kiểm soát vừa là một quá trình kiểm tra các
chỉ tiêu, vừa là việc theo dõi các ứng xử của đối tượng. Kiểm soát không chỉ dành cho
những hoạt động đã xảy ra và đã kết thúc, mà còn là sự kiểm soát đối với những hoạt
động đang xảy ra và sắp xảy ra. Trong quá trình kiểm soát, có hai yếu tố luôn tham gia
vào kiểm soát, đó là nhận thức và phản ứng của người kiểm soát và đối tượng kiểm
soát. Điều này thể hiện ở chỗ: trong quá trình kiểm soát, nhà quản trị phải trả lời các
câu hỏi sau đây: kiểm soát cái gì, kiểm soát khi nào, kiểm soát ở đâu, kiểm soát như
thế nào, chờ đợi thấy cái gì ở kiểm soát,... Như vậy, kiểm soát là quá trình 2 mặt: quá
trình thụ động và chủ động. Việc đo lường các kết quả thực hiện, thông qua việc theo
dõi các chỉ tiêu, phản ánh các hoạt động đã diễn ra trong quá khứ cho thấy tính thụ
động của kiểm soát. Tuy nhiên, mặt chủ động được thể hiện qua sự hướng về tương lai
của kiểm soát, đó là việc phát hiện những sai lệch giữa kết quả thực hiện với kết quả
mong muốn, làm rõ nguyên nhân của chúng để có những hành động điều chỉnh đảm
bảo cho việc thực hiện các mục tiêu đã xác định. Chính vì vậy, nếu xét cả quá trình thì
kiểm soát là hoạt động mang tính chủ động của nhà quản trị.
Như vậy, kiểm soát giúp nhà quản trị nắm được tiến độ và chất lượng thực hiện
công việc của các cá nhân, bộ phận trong tổ chức, từ đó tạo ra chất lượng tốt hơn cho
mọi hoạt động trong tổ chức; Kiểm soát giúp nhà quản trị đối phó kịp thời với những
thay đổi của môi trường, giúp cho các tổ chức thực hiện đúng các chương trình, kế

hoạch với hiệu quả cao. Kiểm soát tạo thuận lợi cho thực hiện tốt việc phân quyền và
cơ chế hợp tác trong tổ chức.
Có thể thấy rằng, kiểm soát là một hệ thống phản hồi quan trọng đối với công tác
quản trị. Chính nhờ hệ thống phản hồi này mà các nhà quản trị biết rõ thực trạng của
tổ chức mình, những vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết, từ đó chủ động tìm các biện
pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
1.2. Nội dung ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù đến quản trị doanh nghiệp

1.2.1 Ảnh hưởng của khách hàng
Khách hàng là yếu tố quan trọng, một bộ phận không thể tách rời trong môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp: có khách hàng thì doanh nghiệp mới tồn tại; hay
nói cách khác có cầu thì mới có cung. Sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được hình


17

thành từ nhu cầu của khách hàng, hay khách hàng là người quyết định đầu ra của
doanh nghiệp, là yếu tố nuôi sống doanh nghiệp: doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận từ
việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Trước đây, khi nền kinh tế chưa phát triển,
khối lượng sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, thì
mục tiêu trước mắt của xã hội lúc đó là làm thế nào để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ để
đáp ứng nhu cầu thị trường. Do đó khách hàng chỉ là người bị động đón nhận hàng hóa
và dịch vụ từ nhà cung ứng, không có quyền lựa chọn hay gây sức ép đến hoat động
kinh doanh của doanh nghiệp. Ngày nay, với sự phát triển của công nghiệp cùng nền
kinh tế thị trường, hàng hóa và dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng, chất lượng
ngày càng được nâng cao. Lúc này khách hàng đã được đặt đúng vị trí của mình, là
trung tâm của mọi hoạt động kinh doanh, là người quyết định sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chịu nhiều sức ép từ phía khách hàng khi:
-


Ngành gồm nhiều công ty nhỏ và người mua là một số ít và lớn
Người mua thực hiện mua sắm với khối lượng lớn
Ngành phụ thuộc vào người mua.
Người mua có thể chuyển đổi cung cấp với chi phí thấp
Người mua đạt tính kinh tế khi mua sắm từ một vài công ty cùng một lúc
Người mua có khả năng hội nhập dọc
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khó
khăn như hiện nay, doanh nghiệp muốn đứng vững thì phải luôn đáp ứng và thỏa mãn
nhu cầu khách hàng: chỉ bán những gì khách hàng cần, chứ không bán những thứ mà
doanh nghiệp có. Tuy nhiên, nhu cầu của người tiêu dùng rất phong phú, đa dạng và
phức tạp. Trên thực tế, một doanh nghiệp lớn đến đâu cũng không thể thỏa mãn hết các
nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, các doanh nghiệp thường tập trung vào một đoạn thị
trường, hay tập khách hàng mục tiêu. Như vậy, doanh nghiệp có thể tập trung hơn để
thỏa mãn các khách hàng của mình, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tìm hiểu về nhu
cầu của khách hàng, có thể tham khảo tháp nhu cầu của nhà kinh tế học Maslow, trong
đó:

-

Nhu cầu sinh lý: là nhu cầu cơ bản của con người để tồn tại như: ăn ở, mặc,…
Nhu cầu an toàn: là nhu cầu được bảo vệ, tránh những đe dọa đến tính mạng, sức khỏe,

-


Nhu cầu xã hội: là nhu cầu được giao tiếp với những người xung quanh và tham gia

-

các hoạt động xã hội.

Nhu cầu tôn trọng: muốn được công nhận, được người khác tôn trọng


18
-

Nhu cầu tự thể hiện bản thân: là nhu cầu thể hiện năng lực, khả năng, sự đóng góp của
mình cho xã hội
Bên cạnh xác định nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần tìm hiểu thói quen,
sở thích, thị hiếu, văn hóa, tập quán của người tiêu dùng, đồng thời phân loại khách
hàng nhằm định hình được các tập khách hàng khác nhau, từ đó có cách ứng xử phù
hợp. Với mục đích đó, có thể phân chia khách hàng như sau:

-

Theo vị trí địa lý: Khách hàng trong nước và khách hàng quốc tế. ( khách hàng trong

-

nước lại chia theo vùng miền, địa phương, các đơn vị nhỏ hơn…)
Theo thành phần kinh tế: Khách hàng là cá nhân, tập thể, tổ chức chính phủ, phi chính

-

phủ, các trung gian thương mại,…
Theo mối quan hệ với doanh nghiệp: khách hàng truyền thống, khách hàng mới, khách
hàng tiềm năng.
Mỗi nhóm khách hàng có những đặc điểm và tính chất nhất định. Đối với hoạch
định, phân loại khách hàng một cách khoa học, chính xác giúp doanh nghiệp có được
những ứng xử phù hợp với từng nhóm khách hàng. Nhu cầu của khách hàng gần như

vô tận nhưng họ bị ràng buộc bởi khả năng thanh toán. Chính vì thế, khách hàng sẽ lựa
chọn hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu nhiều nhất so với giá thành của sản phẩm.
Nhiệm vụ của nhà quản trị doanh nghiệp là trả lời được các câu hỏi: ai là khách hàng
của doanh nghiệp? Họ cần loại sản phẩm dịch vụ gì? Họ mua khi nào? Mua ở đâu? Tại
sao khách hàng chọn mua loại hàng hóa đó? Trả lời được các câu hỏi này thì mới thực
sự hiểu được khách hàng và tìm được hướng đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu khách hàng
cũng như chủ động nắm bắt các cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp.
Đối với tổ chức, phân tích ảnh hưởng của khách hàng giúp ích tối đa cho việc
tác nghiệp các mục tiêu đã được hoạch định, đảm bảo thỏa mãn tối đa nhu cầu khách
hàng. Bộ phận làm việc trực tiếp với khách hàng cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
bộ phận khác để phục vụ khách hàng hiệu quả.
Đối với lãnh đạo, nghiên cứu ảnh hưởng của khách hàng giúp nhà quản trị xác
định và hình thành yêu cầu với nhân viên, từ đó thực hiện tuyển dụng, đào tạo có định
hướng để phù hợp với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tạo điều kiện
thúc đẩy doanh số và thị phần thông qua các chính sách lương thưởng đối với nhân
viên và tạo ấn tượng với khách hàng thông qua công tác marketing.
Đối với kiểm soát, phân tích ảnh hưởng của khách hàng giúp doanh nghiệp thực
hiện chặt chẽ quy trình hoạt động nhằm đem đến cho khách hàng sản phẩm chất lượng,


19

mẫu mã như cam kết, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng. Sự kiểm
soát chặt chẽ sẽ nhanh chóng và kịp thời phát hiện sai sót nếu có, từ đó có biện pháp
giải quyết thích hợp, giảm phát sinh các chi phí và công việc không cần thiết.
1.2.2

Ảnh hưởng của nhà cung ứng
Bản thân doanh nghiệp không thể độc lập tạo nên giá trị sản phẩm nếu không có
sự tham gia của các nhà cung ứng. Nhà cung ứng được biết đến là một mạng lưới gồm

các tổ chức có liên quan thông qua các mối liên kết phía trên và phía dưới, trong các
quá trình và hoạt động khác nhau, tham gia vào quá trình sản sinh ra giá trị thông qua
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Nhà cung ứng được phân lam ba loại chủ yếu sau:

-

Nhà cung ứng thiết bị, nguyên vật liệu.
Nhà cung ứng nguồn nhân lực.
Nhà cung ứng tài chính, các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm.
Nếu như khách hàng là yếu tố đảm bảo đầu ra cho hoạt động kinh doanh, từ đó
tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp thì nhà cung ứng lại là yếu tố đầu vào phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, nhà cung ứng đóng vai
trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi yếu tố đầu
vào là tiền đề cơ bản cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng,
ổn định và đạt kết quả theo đúng kế hoạch. Như vậy, nhà cung ứng có sức ép nhất định
đối với doanh nghiệp bởi nguy cơ tăng giá đầu vào hay giảm chất lượng của sản phẩm
dịch vụ. Nhà cung ứng có quyền lực và sức ép lớn khi:
- Sản phẩm của họ khó thay thế được và là quan trọng đối với công ty.
- Công ty không phải là khách hàng quan trọng của họ.
- Sản phẩm của họ khác biệt đến nỗi mà có thể gây ra tốn kém cho công ty khi
chuyển đổi.
- Đe dọa hội nhập xuôi chiều về phía khác nghành và cạnh tranh trực tiếp với
công ty.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn mong muốn tối thiểu
hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận, đáp ứng tốt nhất nhu cầu. Để đạt được điều này,
các nhà quản trị luôn phải tư duy làm thế nào để mua được hàng hiệu quả với chi phí
thấp mà chất lượng tốt, luôn đầy đủ không bị gián đoạn, dự trữ hàng như thế nào cho
hợp lý... Do đó các doanh nghiệp nên nghiên cứu tình hình biến động cung cầu trên thị
trường nhằm dự đoán chính xác nhất số lượng cần mua, hạn chế rủi ro xảy ra, đồng



20

thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm lấy thời cơ của thị trường. Đứng trước sự
biến động khó lường của thị trường, các nhà quản trị doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ
về các nhà cung ứng tiềm năng trước khi đưa ra quyết định lựa chọn nhà cung ứng
chính cho mình; vận dụng sáng tạo nguyên tắc “nên mua hàng của nhiều nhà cung
ứng” nhằm phân tán rủi ro và tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng, đem lại lợi
thế cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp nên chọn ra một số nhà cung ứng
chính để xây dựng mối quan hệ làm ăn bền vững dựa trên sự tin tưởng và giúp đỡ lẫn
nhau, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên. Đây là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp
và nhà cung ứng có thể hợp tác với nhau, tạo chữ tín trong quan hệ làm ăn lâu dài đồng
thời giúp doanh nghiệp luôn tỉnh táo, sáng suốt trong đàm phán.
Đối với hoạch định, nghiên cứu ảnh hưởng của nhà cung ứng giúp nhà quản trị
của công ty có cái nhìn tổng thể, từ đó đưa ra quyết định lựa chọn nhà cung ứng có lợi
nhất cho doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí, nâng cao lợi nhuận kinh doanh. Hơn nữa, khi
tìm hiểu nhà cung ứng, doanh nghiệp nắm được khả năng của họ, giúp ích cho việc ra
quyết định khi mua hàng, đảm bảo mua hàng hiệu quả.
Đối với tổ chức, việc phân tích ảnh hưởng của nhà cung ứng yêu cầu các bộ phận
chức năng trong doanh nghiệp hoạt động phối hợp chặt chẽ với nhau trong vấn đề mua
hàng và dự trữ hàng hóa. Nếu một bộ phận không có đủ điều kiện cơ sở vật chất kỹ
thuật thì sẽ ngưng trệ trong quá trình hoạt động của cả doanh nghiệp.
Đối với lãnh đạo, nghiên cứu ảnh hưởng của nhà cung ứng giúp nhà quản trị xác
định được các mối quan hệ với nhà cung ứng quan trọng, từ đó thiết lập quan hệ gắn
bó lâu dài với họ, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên. Đồng thời, nhà quản trị có cơ
sở để lựa chọn nhà cung ứng có thể thay thế trong các trường hợp khẩn cấp.
Đối với kiểm soát, phân tích ảnh hưởng của nhà cung ứng hỗ trợ doanh nghiệp
trong công tác mua hàng hiệu quả thông qua việc nghiên cứu biến động của thị trường,
phải đảm bảo kinh doanh có lợi. Nguồn vốn và lao động cũng cần phải theo dõi và dự

báo chính xác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh.
1.2.3 Ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là những cá nhân hay tổ chức có khả năng thỏa mãn nhu cầu
của các khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp bằng cùng một loại sản phẩm (dịch vụ)
có cùng nhãn hiệu, cũng một loại sản phẩm nhưng khác nhãn hiệu, những sản phẩm có


21

khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp. Tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt,
nhất là trong ngành sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, sự vận động và phát triển còn
làm cho sự cạnh tranh trở nên phức tạp hơn khi có sự tham gia của sản phẩm thay thế.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải đối đầu với nhiều loại đối thủ cạnh
tranh. Vì vậy sự nhận dạng và hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với doanh nghiệp. Tồn tại các dạng đối thủ cạnh tranh tiêu biểu như
sau:
• Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Là những cá nhân, tổ chức cùng kinh doanh trong ngành, trực tiếp cạnh tranh với
doanh nghiệp về cùng loại sản phẩm với các chức năng tương tự, cùng thỏa mãn nhu



cầu của khách hàng.
Mức độ cạnh tranh giữa các công ty hiện tại trong ngành thể hiện ở:
Các rào cản rút lui khỏi ngành
Mức độ tập trung của ngành
Mức độ tăng trưởng của ngành
Tình trạng dư thừa công suất
Đặc điểm của sản phẩm/ dịch vụ

Các chi phí chuyển đổi
Tính đa dạng của các đối thủ cạnh tranh
Tình trạng sang lọc trong ngành
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Là những doanh nghiệp hiện không cạnh tranh trong ngành nhưng có khả năng

gia nhập thị trường.
• Đối thủ cạnh tranh sản xuất các sản phẩm thay thế:
Là các doanh nghiệp từ ngành/ lĩnh vực kinh doanh khác nhưng sản xuất
sản phẩm cùng thỏa mãn nhu cầu như nhau của khách hàng.
Các sản phẩm thay thế hạn chế lợi nhuận tiềm năng của ngành bằng cách đặt một
ngưỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh có lãi.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là yếu tố nhất định phải có để tạo ra
bước nhảy vọt đối với sự phát triển của xã hội, ‘Nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất,
giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường”. Nếu ví thị trường như
một chiếc bánh thì đối thủ cạnh tranh là người chia phần cái bánh đó với doanh
nghiệp. Nếu đối thủ cạnh tranh mạnh hơn doanh nghiệp thì họ sẽ lấy được phần bánh
nhiều hơn, cũng có nghĩa là lợi nhuận cao hơn. Các đối thủ cạnh tranh quyết định tính
chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành. Cạnh tranh luôn
khiến cho doanh nghiệp khát khao chiến thắng, buộc doanh nghiệp phải luôn tìm cách
đưa ra những giải pháp mới và hiệu quả hơn cho những vấn đề trong kinh doanh. Vì


22

vậy một doanh nghiệp muốn đứng vững trên sân chơi chung thì luôn chấp nhận cạnh
tranh. Để hoạt động kinh doanh thành công, doanh nghiệp cần biết về các đối thủ cạnh
tranh nhiều như biết về chính công ty và khách hàng của doanh nghiệp.
Đối với hoạch định, trước hết, phân tích ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh giúp
doanh nghiệp xác định đối thủ cạnh tranh và đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của họ.

Khi biết được những hành động của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ hiểu rõ hơn
về những sản phẩm và dịch vụ nên chào bán; nên tiếp thị chúng như thế nào cho hiệu
quả; và công ty định vị mục tiêu kinh doanh như thế nào. Từ đó, nhà quản trị doanh
nghiệp sẽ có những quyết định chiến lược đúng đắn để đưa doanh nghiệp đi đến mục
tiêu đã xác định. Bên cạnh đó, nghiên cứu ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh giúp
doanh nghiệp rút kinh nghiệm từ những sai lầm của đối thủ, có chiến lược cạnh tranh
hợp lý, có phương pháp phản ứng lại trước những thông tin bất lợi cho doanh nghiệp
để chuyển biến thành cơ hội.
Đối với tổ chức, nghiên cứu ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh đến quản trị công
ty giúp công tác tổ chức được hoàn thiện hơn, tránh những sai lầm trong tổ chức mà
đối thủ đã gặp phải. Việc phân chia nhiệm vụ và quyền hạn trong doanh nghiệp cần
linh hoạt, tránh chồng chéo dẫn đến kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đồng thời cần tuyển dụng những nhân viên có đủ trình độ và kỹ năng theo yêu
cầu với mức lương thưởng đủ đáp ứng những nhu cầu cơ bản của họ. Văn hóa doanh
nghiệp và các mối quan hệ giữa các đồng nghiệp, giữa lãnh đạo với nhân viên cũng là
một sức thu hút và giữ chân người lao động khỏi đối thủ cạnh tranh.
Đối với công tác lãnh đạo, nghiên cứu ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh giúp nhà
quản trị điều hành công ty hiệu quả. Từ hoạch định và phân cấp chức năng, nhiệm vụ
giữa các phòng ban trong doanh nghiệp, nhà quản trị sẽ xây dựng mối quan hệ giữa
các bộ phận chức năng nhằm tạo sự gắn kết và có sự phối hợp chặt chẽ giữa họ trong
công việc, tận dụng tối đa nguồn lực để cạnh tranh công bằng và hiệu quả. Bên cạnh
đó, nhà quản trị xác định được các mối quan hệ liên quan cần thiết để tạo dựng và phát
triển thêm, nâng cao cơ hội cho doanh nghiệp hoạt động trong tương lai.
Cạnh tranh có hiệu quả hay không cần đến sự kiểm soát của nhà quản trị cạnh
thông qua việc đánh giá kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra để kịp thời điều chỉnh
nếu cần thiết. Vì vậy công tác kiểm soát phải được tiến hành thường xuyên và chính
xác để cạnh tranh hiệu quả, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.


23


1.2.4 Ảnh hưởng của cơ quan hữu quan
Trên phương diện quản lý Nhà nước, các cơ quan hữu quan đại diện cho luật
pháp, theo dõi và quản lý các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của mình thì doanh nghiệp chịu sự tác động của các cơ quan
hữu quan như:
- Cơ quan Nhà nước: có vai trò xây dựng hành lang pháp lý, kiểm tra, giám sát
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù hợp với pháp luật. Thông qua
chính sách, nghị quyết, cơ quan Nhà nước giúp các doanh nghiệp hoạt động theo đúng
định hướng phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường,
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế. Mọi doanh nghiệp khi
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải chịu sự quản lý giám sát của cơ quan
Nhà nước và địa phương.
- Hiệp hội ngành hàng: Thể hiện vai trò là tổ chức tập hợp và taăng cường sự hợp
tác giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp.
Các hiệp hội ngành hàng đưa ra các quy định đối với doanh nghiệp để tránh các gian
lận thương mại và cạnh tranh không công bằng. Khi doanh nghiệp tham gia vào các
hiệp hội này thì bắt buộc phải tuân thủ theo các quy định một cách nghiêm ngặt và
chịu sự quản lý chặt chẽ của hiệp hội.
Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp chịu sự tác động của các cơ
quan hữu quan. Sự tác động của các cơ quan hữu quan có thể trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước Việt Nam quản lý
điều tiết các doanh nghiệp thông qua hệ thống luật pháp và các công cụ vĩ mô nhằm
định hướng nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đã xác định.
- Hệ thống luật pháp: Nhà nước ban hành hàng loạt các luật liên quan đến quy
chế hoạt động của doanh nghiệp như Luật thuế xuất nhập khẩu (1990), Luật phá sản
(1993), Luật thương mại (1996), Luật doanh nghiệp (2000),... Bên cạnh đó Chính phủ
còn có các nghị định, thông tư nhằm cụ thể hóa các điều luật.
- Các công cụ quản lý vĩ mô: Trong từng giai đoạn cụ thể, Nhà nước ban hành
các chính sách vĩ mô như chính sách thương mại, chính sách lao động và tiền lương,

chính sách tài chính và tín dụng, chính sách đầu tư..., hoặc thông qua các công cụ như
thuế, hạn ngạch, lãi suất ngân hàng,... để quản lý các doanh nghiệp.


24

Bằng những cách này, Nhà nước có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cũng có thể
gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp đồng thời kiểm tra, giám sát quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung, các cơ quan Nhà nước luôn muốn tạo
lập, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự can thiệp ở mức hợp lý vào
các hoạt động kinh doanh là rất cần thiết bởi Nhà nước giữ vai trò tạo lập môi trường
kinh doanh thuận lợi và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào
các hoạt động kinh doanh. Vì vậy, các nhà quản trị không nên né tránh sự kiểm soát
của Nhà nước mà cần nắm vững và tuân thủ luật pháp. Bên cạnh đó, phải linh hoạt tận
dụng những điều kiện thuận lợi mà Nhà nước tạo ra, đồng thời biến khó khăn, rủi ro
thành cơ hội cho doanh nghiệp phát triển bền vững. Không những thế, các nhà quản trị
phải dự báo những thay đổi trong chính sách, công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước để
có thể ứng xử kịp thời.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đang cố gắng cải thiện môi trường chính trị,
hành lang pháp lý, giảm bớt các thủ tục hành chính, lựa chọn định hướng phát triển,
đổi mới và đề ra các chính sách thích hợp nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi,
mở cơ hội cho các doanh nghiệp có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển chung của
đất nước.
Đối với hoạch định, việc phân tích ảnh hưởng của các cơ quan hữu quan rất quan
trọng. Từ các dữ liệu đó, nhà quản trị doanh nghiệp xác định được quy trình làm việc
với các cơ quan Nhà nước trong quá trình hoạt động, đồng thời chủ trương tạo quan hệ
tin cậy, thân cận để có thể thuận tiện hơn trong các thủ tục hành chính. Hơn nữa, nhà
quản trị có cơ sở để xây dựng mục tiêu kinh doanh hợp pháp, phù hợp với định hướng
phát triển của đất nước. Nếu doanh nghiệp hoạt động phạm pháp, kinh doanh trái phép
sẽ bị ngừng hoạt động. Vì vậy, các cơ quan hữu quan có tầm ảnh hưởng to lớn đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với tổ chức, nghiên cứu ảnh hưởng của các cơ quan hữu quan giúp tổ chức
có sự thống nhất trong tư tưởng, tạo nên một tập thể có sự đoàn kết. Các cơ quan hữu
quan đề ra các luật định và các cá nhân và tổ chức cần tuân thủ nghiêm ngặt. Vì vậy,
mọi nhân viên trong công ty cần biết rõ những điều được làm và những điều bị cấm để
thực hiện công việc của mình hợp pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu ảnh hưởng của các
cơ quan hữu quan khiến các thành viên của công ty nhận thức rõ tầm ảnh hưởng của


25

các cơ quan Nhà nước, từ đó làm việc có sự cân nhắc, kỹ lưỡng hơn, đảm bảo kinh
doanh hợp pháp và không bị gián đoạn.
Đối với lãnh đạo, phân tích ảnh hưởng của các cơ quan hữu quan đòi hỏi các nhà
quản trị phải luôn gương mẫu, đi đầu trong thực thi pháp luật và các chính sách của
Nhà nước. Nếu không được sự cấp phép từ phái các cơ quan hữu quan, hoạt động của
doanh nghiệp sẽ bị gián đoạn, thậm chí ngừng lại. Vì vậy, các nhà lãnh đạo phải xây
dựng mối quan hệ thân thiết với các cơ quan hữu quan, đồng thời ra những quyết định
sáng suốt, hợp tình hợp lý để không bị vướng mắc trong quá trình hoạt động. Bên cạnh
đó, phải đào tạo, bổ sung các thông tin về luật và các chính sách sửa đổi được cập nhật
liên tục cho nhân viên để làm việc hiệu quả cao.
Đối với kiểm soát, ảnh hưởng của các cơ quan hữu quan khiến doanh nghiệp
luôn phải cập nhật các chính sách, luật định thay đổi thường xuyên và liên tục, đôi khi
chồng chéo lên nhau không biết phải theo văn bản nào. Bên cạnh đó, các thủ tục hành
chính tại các cơ quan Nhà nước còn nhiều bất cập, tốn thời gian và rắc rối, gây gián
đoạn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, nhà quản trị cần thường
xuyên theo dõi, cập nhật các thông tin, sự thay đổi của hệ thống pháp luật, các chính
sách đầu tư phát triển của Nhà nước; Phản ánh, đóng góp các ý kiến liên quan đến
những bất cập trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, các văn bản có liên
quan trong hoạt động kinh doanh của Công ty nhằm đưa ra phương hướng khắc phục,

giải quyết hiệu quả.
1.3

Sự cần thiết nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đặc thù đến quản
trị doanh nghiệp
Về cơ sở lý luận, có thể nói không có một doanh nghiệp nào tồn tại và phát triển
bên ngoài môi trường kinh doanh nói chung và môi trường kinh doanh đặc thù nói
riêng. Giữa doanh nghiệp và các thành phần yếu tố của môi trường kinh doanh luôn có
sự tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng hoàn thiện. Sự tác động của môi
trường kinh doanh đến hoạt động quản trị của doanh nghiệp gồm đồng thời các tác
động chủ quan và khách quan, trực tiếp và gián tiếp. Môi trường kinh doanh có thể tạo
điều kiện thuận lợi, cơ hội cho doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có thể gây khó
khăn, trở ngại cho doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp. Vì vậy,
doanh nghiệp phải nghiên cứu, phân tích môi trường kinh doanh để hoạch định các
chiến lược, chính sách kinh doanh, đồng thời hoàn thiện công tác quản trị doanh


×