Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục hòa NHẬP TRẺ KHUYẾT tật ở TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.85 KB, 14 trang )

ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC HÒA NHẬP TRẺ KHUYẾT TẬT Ở TRƯỜNG MẦM NON”
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội, bên cạnh trẻ em bình thường luôn tồn tại một bộ phận trẻ em
khiếm khuyết về thể chất hoặc rối loạn những chức năng nhất định. Đó là trẻ em
khuyết tật. Sự gia tăng dân số, kéo theo số trẻ khuyết tật ngày càng tăng. Nếu như
trong xã hộ lạc hậu, sự nghèo đói, sự thiếu hiểu biết, thiếu chăm sóc là nguyên
nhân dẫn đến khuyết tật thì trong xã hội văn minh, sự lạm dụng các chất hóa học
trong trồng trọt, chăn nuôi, trong chế biến thực phẩm, nạn ô nhiễm môi trường, sự
tác động của các chất, tia phóng xạ… lại là nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ khuyết
tật ngày càng tăng.
Do nhiều lí do khác nhau, đại bộ phận trẻ khuyết tật ít được hoặc không được
ra lớp hoặc đến lớp một thời gian sau đó phải bỏ học.
Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến những đối tượng khuyết
tật. Điều này được thể hiện qua một số văn bản sau.
- Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Nhà nước
tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”.
- Điều 16, pháp lệnh về người tàn tật ngày 30/7/1988 quy định “Việc học tập
của trẻ tàn tật được tổ chức, thực hiện bằng các hình thức học hòa nhập trong các
trường phổ thông, các trường chuyên biệt dành cho người tàn tật, cơ sở nuôi dưỡng
người tàn tật tại các gia đình”. Trong mục tiêu chiến lược giáo dục trẻ khuyết tật là
đến năm 2015 hầu hết trẻ khuyết tật ở Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận
một nền giáo dục có chất lượng và được trợ giúp để phát triển tối đa tiềm năng,
tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội, trong đó mục tiêu cụ thể là đến năm
2010 đảm bảo cho 70% trẻ khuyết tật được đi học.
Kế thừa truyền thống nhân ái của dân tộc Việt nam “Thương người như thể
thương thân”, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến những người khuyết tật
trong xã hội, nhất là đối với trẻ em. Trong điều kiện đất nước đang gặp nhiều khó
khăn, kinh tế còn chậm phát triển chúng ta đang từng bước xây dựng, thực hiện
chính sách và biện pháp giúp đỡ người khuyết tật nói chung, nhất là giúp đỡ trẻ em


bị khuyết tật về thể chất lẫn tinh thần vuotự qua khó khăn để hòa nhập với cuộc
sống cộng đồng.

1


* Điểm mới của đề tài.
Nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật chính là tạo môi trường sống, môi
trường học tập hòa nhập tốt nhất cho trẻ khuyết tật ở lứa tuổi mầm non qua đó tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ khuyết tật được tham gia học cùng trẻ bình thường ở các
trường lớp mầm non.
Tất cả những quyền lợi mà trẻ khuyết tật có được đòi hỏi giáo viên phải chăm
sóc tận tình trong học tập và sinh hoạt, được các bạn trong lớp cảm thông, giúp đỡ.
Đặc biệt được ban giám hiệu nhà trường, các cô giáo có các biện pháp quan tâm,
giúp đỡ trẻ hòa nhập.
Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là xu hướng chung của hầu hết các nước trên
thế giới và đã được Bộ GD - ĐT Việt Nam xác định là con đường chủ yếu để thực
hiện những quyền cơ bản của mọi trẻ em, đặc biệt là quyền được giáo dục. Đây
cũng là cơ hội để mọi trẻ em, trong đó chú trọng đến trẻ khuyết tật, trẻ khó khăn
được tiếp cận nền giáo dục bình đẳng, có chất lượng.
Là giáo viên mầm non với lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với nghề nghiệp tôi
luôn trăn trở, suy nghĩ phải làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật trong trường mầm non ngày được nâng cao, góp phần hạn chế những
khiếm khuyết cho trẻ, để trẻ vững bước vào đời, hòa nhập với cộng đồng và là
những người con có ích cho xã hội, cho đất nước.
Xuất phát từ lý do trên luôn thôi thúc tôi tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề tài
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở
trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu cho bản thân với hy vọng việc làm này sẽ
góp phần tích cực và có hiệu quả hơn trong việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở
trường mầm non.

1.2 Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật ở trường mầm non” có thể được áp dụng trong trường mầm non nơi tôi
giảng dạy nói riêng và trong các trường mầm non nói chung.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1 Thực trạng:
Năm học 2018-2019, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 3 - 4
tuổi với tổng số 26 cháu trong đó có 1 cháu khuyết tật khiếm thị. Trong quá trình
thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật bản thân tôi nhận
thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:

2


* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ về cơ sở vật chất đặc biệt là sự chỉ đạo
sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và đào tạo huyện, ban giám hiệu nhà
trường và tổ chuyên môn trong đó có nội dung giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
- Trường được đầu tư trang bị CSVC, mua sắm đồ dùng dạy học phục vụ
cho trẻ đổi mới, hiện đại tạo cho tiết học hấp dẫn, sinh động nên thuận lợi cho công
tác giảng dạy.
- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện cho giáo viên
được tập huấn học hỏi kinh nghiệm về giáo dục trẻ khuyết tật.
- Trong nhà trường xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết luôn quan tâm giúp
đỡ lẫn nhau, người dạy lâu năm chia sẻ kinh nghiệm cho người mới vào dạy nên
tôi được học tập thêm rất nhiều về chuyên môn nghiệp vụ.
- Bản thân tôi có trình độ chuyên môn nghiệp vụ trên chuẩn, yêu nghề, mến
trẻ, đồng thời có sự phối kết hợp đồng đều giữa 2 giáo viên trong lớp cùng nhiệt
tình chăm sóc - giáo dục trẻ nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng.
- Phụ huynh học sinh luôn tin tưởng, tận tình phối hợp với giáo viên trong

việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
Ngoài những thuận lợi trên bản thân tôi nhận thấy rằng thuận lợi lớn nhất đó
chính là được sự quan tâm, tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, sự động
viên khích lệ của đồng nghiệp, gia đình đã giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng
dạy của mình.
* Khó khăn:
- Giáo viên chủ nhiệm lớp không được đào tạo về chuyên biệt giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật mà chỉ được tập huấn, kiến tập về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật.
- Đồ dùng đồ chơi dành riêng cho trẻ khuyết tật còn ít gây khó khăn cho giáo
viên trong việc giáo dục trẻ.
- Trẻ không dùng thị giác để khám phá xung quanh, nhạy cảm với ánh sáng.
- Trẻ đôi khi không kiểm soát được hành vi của bản thân.
- Trẻ thường tự ti, mặc cảm, không dám hòa nhập với bạn bè.
- Trẻ không thể thực hiện một số khả năng tự phục như: Đi vệ sinh, tự xúc
cơm ăn, mặc, cởi quần áo…

* Khảo sát thực tiễn:
3


Ngay từ đầu năm học khi mới tiếp nhận trẻ khuyết tật khiếm thị tôi đã tiến
hành khảo sát cháu và thấy kết quả như sau:
- Trẻ hoảng sợ, không dám hòa nhập với bạn bè.
- Trẻ không thể thực hiện một số khả năng tự phục vụ như: Đi vệ sinh, mặc
cởi quần áo, xúc cơm ăn, uống nước...
- Trẻ không biết gọi cô, gọi bạn giúp đỡ khi có nhu cầu.
- Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế phát âm chưa rõ từ, rõ câu.
- Không tham gia được các hoạt động học tập, vui chơi với bạn bè.
- Phụ huynh còn e dè, không dám đưa con đến trường.

* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân sinh lý:
+ Theo nhiều công trình nghiên cứu của các ngành sinh lý học, tâm lý học,
giáo dục học thì có 40% trẻ khuyết tật chưa tìm hiểu được nguyên nhân, 60% các
trường hợp khác nhau gây nên khuyết tật của trẻ như: bị tổn thương não, nhiễm
độc từ môi trường, sự di truyền...
- Nguyên nhân tâm lý và các yếu tố khác:
+ Gia đình của trẻ khó khăn về kinh tế nên không có sự quan tâm đúng mức,
sự chấp nhận số phận có những đứa con khuyết tật dẫn đến việc nhiều phụ huynh
không muốn đưa trẻ hòa nhập cộng đồng đến trường lớp.
+ Đứa trẻ bị mặc cảm bỏ rơi hoặc vì lỗi khuyết tật của mình nên không
muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, không muốn đến trường.
+ Công tác tổ chức phối hợp giúp trẻ khuyết tật của các tổ chức đoàn thể
chưa mạnh.
+ Việc tập huấn cho giáo viên về các kĩ năng dạy trẻ khuyết tật còn nhiều
hạn chế cũng như sự đầu tư cho trẻ khuyết tật chưa đầy đủ với mục tiêu trong giai
đoạn hiện nay.
+ Một số phụ huynh chưa phối hợp để làm hồ sơ khuyết tật cho trẻ
Với kết quả khảo sát thực tế trên tôi thấy việc giáo dục trẻ khuyết tật học hòa
nhập đang là vấn đề đặt lên hàng đầu và đây cũng là lý do tôi chọn đề tài “Một số
biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm
non”
2.2. Các giải pháp:
Nâng cao chất lượng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non
đang là một xu hướng phổ biến trên thế giới nói chung và đặc biệt đang được triển
khai ở một số nước có hệ thống giáo dục đặc biệt phát triển. Đây là một nhiệm vụ
cao cả của giáo viên để giúp trẻ tìm thấy cuộc sống mới và có một chân trời mới
4



tốt đẹp, tươi sáng hơn. Nhận thức được điều đó, tôi đã tìm ra các giải pháp để giúp
trẻ khuyết tật tự tin, mạnh dạn và có thể hoà nhập được với các bạn trong lớp, hứng
thú tham gia vào các hoạt động mà cô giáo tổ chức.
* Giải pháp 1: Khảo sát khuyết tật của trẻ.
Là một giáo viên chủ nhiệm trực tiếp phụ trách lớp có trẻ bị khuyết tật bản
thân tôi đã tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình cũng như tìm hiểu nguyên nhân, đặc
điểm tâm sinh lí của trẻ:
* Các đặc điểm về năng lực bù trừ của trẻ khuyết tật:
- Sự nhạy cảm thính giác của trẻ mù.
- Sự nhạy cảm thị giác của trẻ điếc.
- Sự khéo léo đôi chân của trẻ liệt chi.
* Nội dung cần tìm hiểu nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật bao gồm:
+ Sự phát triển về thể chất: Sự phát triển cân đối của cơ thể về hình dáng bề
ngoài, khả năng vận động (bò, ngồi, đứng, đi, chạy, nhảy), khả năng lao động ( tự
phục vụ, lao động giúp đỡ gia đình,…) phát triển các giác quan.
+ Khả năng ngôn ngữ - giao tiếp: Khả năng nghe, đọc, hiểu ngôn ngữ, ngôn
ngữ diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, kỹ năng phát âm, sử dụng từ vựng, khả
năng giao tiếp.
+ Khả năng nhận thức: Khả năng tri giác, khả năng ghi nhớ, khả năng tư
duy, suy nghĩ, phán đoán, giải quyết vấn đề…
+ Quan hệ xa hội: Mối quan hệ của trẻ đối với mọi người, hành vi ứng xử,
cảm xúc, tình cảm.
+ Môi trường phát triển của trẻ: Môi trường ăn, ở, vệ sinh, chăm sóc sức
khỏe, giáo dục - văn hóa - xã hội.
Với nhiều đặc điểm khuyết tật ở trẻ bản thân giáo viên ở lớp luôn phải đặc
biệt chú ý đến trẻ. Và từ đó đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp với trẻ để trẻ
cùng được học tập và giao lưu với các bạn trong lớp.
* Giải pháp 2: Lập kế hoạch theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ khuyết
tật.
Từ những căn cứ trên, tôi tiến hành lập kế hoạch để theo dõi, đánh giá sự

tiens bộ của trẻ theo từng hoạt động, theo ngày, theo tuần, theo tháng hay học kỳ
một cách cụ thể. Nếu thấy trẻ tiến bộ thì tiếp tục lên kế hoạch học thêm kiến thức;
nếu ngược lại thì tôi sẽ dừng lại để củng cố những kiến thức đã học cho trẻ.
- Khi lên kế hoạch giáo dục theo từng tháng, tuần, tôi luôn đưa ra nội dung
giáo dục và biện pháp giáo dục cụ thể. Khi xây dựng mục tiêu cho trẻ trong giáo
dục hòa nhập tôi đã căn cứ vào:
5


- Bản thân đứa trẻ: Kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sống đã có ở trẻ, những
gì trẻ cần đáp ứng.
- Điều kiện và nguyện vọng của gia đình trẻ.
- Điều kiện của địa phương, nhà trường, lớp học.
* Khi xây dựng mục tiêu cho mỗi trẻ khuyết tật bản thân tôi luôn chú ý các
nội dung sau:
- Mục tiêu hòa nhập xã hội.
- Mục tiêu kiến thức về các môn học.
- Mục tiêu về hành vi ứng xử giao tiếp.
- Mục tiêu giáo dục hành động tự phục vụ.
- Mục tiêu phát triển các khả năng.
Khi xây dựng mục tiêu cho trẻ khuyết tật tôi luôn kết hợp với phụ huynh trẻ,
nhóm hỗ trợ cộng đồng, y tế … cùng xây dựng chi tiết, rỏ ràng, cụ thể.
* Lập kế hoạch:
Khi xây dựng mục tiêu xong, căn cứ vào mục tiêu, tôi tiến hành xây dựng kế
hoạch giáo dục. Kế hoạch giáo dục cần được xây dựng dựa vào điểm mạnh của trẻ.
Vì trẻ có thể phát triển tốt khi sử dụng thế mạnh của mình.
Ví dụ: Kế hoạch chăm sóc - giáo dục cá nhân của trẻ trong 1 tuần như sau:
TT
Yêu cầu
Biện pháp

Kết quả
1 - Trẻ xác định được vị trí - Mỗi ngày cô tập cho trẻ - Trẻ biết quay đầu về
của cửa chính, khu vực xác định được vị trí của hướng cô nhưng chưa
nhà vệ sinh...
cửa chính, khu vực nhà tự tin đi đến hướng cô
vệ sinh...bằng cách gọi gọi.
trẻ để trẻ lắng nghe xác
định được tiến gọi của
cô từ hướng nào sau đó
gọi trẻ đi chậm đến
hướng có cô.
2 - Trẻ biết chủ động giao - Cô kết hợp với 1 số cô - Trẻ nhận biết trả lời
tiếp với cô, với bạn bè, giáo khác và các bạn được tên gọi của 1 số
biết được tên gọi của trong lớp giới thiệu tên, cô và bạn khi được
một số cô giáo trong nói chuyện với trẻ để hỏi.
điểm trường trẻ học và giúp trẻ ghi nhớ giọng
một số bạn bè qua giọng nói và tên của các cô và
nói
các bạn.
3
- Trẻ thực hiện được - Cô giúp trẻ lấy cơm và
6


một số yêu cầu đơn giản
cô giao: tự bưng ly uống
nước và bưng bát ăn
cơm...
- Dạy trẻ đọc thơ thuộc
1- 2 câu ngắn trong bài

thơ, các bài hát đơn giản.

nước hướng dẫn trẻ tự - Trẻ thực hiện được
quan sát, nhắc nhở trẻ cầm ly uống nước song
bưng ly uống nước và chua cầm được bát để
bưng bát ăn cơm
tự ăn cơm.
4
- Dạy trẻ đọc thơ, hát
thường xuyên, ở mọi lúc, - Trẻ đọc được 70%.
mọi nơi: đón trẻ, trả trẻ,
chuẩn bị đi ngủ...
* Giải pháp 3: Xây dựng vòng tay bè bạn.
Với các trẻ bình thường việc kết bạn và duy trì tình bạn giữa trẻ với nhau
mang tính tự nhiên. Nhưng với trẻ khuyết tật luôn gặp khó khăn trong đời sống
hằng ngày, trong hoạt động nhận thức nên trẻ cũng gặp khó khăn trong tình bạn.
Bởi đây là quan hệ được xây dựng từ hai phía và đòi hỏi phải thường xuyên củng
cố, giữ gìn. Để tình bạn của trẻ thực sự có ý nghĩa trong đời sống tình cảm, tạo ra
bầu không khí thân mật, thương yêu, giúp đỡ bạn ngay từ khi mới biết nhau giáo
viên cầm xây dựng vòng tay bè bạn cho trẻ.
Việc tổ chức cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập
giúp trẻ phát triển khả năng tư duy sáng tạo là một yêu cầu hết sức quan trọng. Để
thực hiện được vấn đề này đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu sắc về các
cơ sở khoa học và phương pháp chăm sóc - giáo dục trẻ, phải có kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp. Cô giáo phải linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo, chu đáo và tỉ mỉ để phát
hiện những khả năng tiềm ẩn và đáp ứng kịp thời những nhu cầu đòi hỏi của trẻ,
tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn hòa nhập tham gia hoạt động với các bạn.
Trong các hoạt động, cô giáo là người dẫn dắt, gợi mở, giúp trẻ phát hiện
những tri thức khoa học, trẻ là người chủ động tiếp nhận các tri thức. Từ đó từng
bước tạo cho trẻ thói quen thích tìm tòi khám phá. Đặc biệt trong quá trình chăm

sóc - giáo dục cô giáo phải thường xuyên gần gũi, trò chuyện, động viên, tạo tình
cảm thân thiết để trẻ cảm thấy an tâm khi có cô bên cạnh. Cô giáo cần tạo điều
kiện về thời gian để trẻ được hoạt động dạo chơi, hít thở không khí trong lành. Đây
cũng là cơ hội để trẻ luyện tập, phát triển ngôn ngữ, phục hồi dần các khiếm
khuyết của trẻ khuyết tật. Cô giáo phải là chỗ dựa cho trẻ khuyết tật, dìu dắt trẻ
mỗi khi trẻ tham gia hoạt động, tạo niềm tin và sự an toàn cho trẻ.
Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi tham quan sân trường cô nhắc nhở các
bạn trong lớp giúp đỡ bạn khi chơi, dắt bạn cùng vui chơi với trẻ, nhắc các trẻ khác
không chạy nhảy xô đẩy làm bạn ngã.
7


Trong các hoạt động, cô thường xuyên khuyến khích, gợi mở, kích thích trẻ
khuyết tật tích cực tham gia hoạt động, hoạt động vừa sức không ỷ lại vào người
khác.
Với mong muốn cháu khuyết tật được học hòa nhập cùng các bạn, ngoài sự
quan tâp, giúp đỡ của cô giáo thì sự giúp đỡ của bạn bè cũng là một yếu tố vô cùng
quan trọng. Tôi thiết lập “vòng tay bè bạn” ở trong lớp của tôi dạy; đó là những
cháu ở gần nhà của trẻ bị khuyết tật, và cả những cháu biết quan tâm, giúp đỡ bạn.
Tôi sắp xếp cho trẻ ngồi gần nhau để các cháu hỗ trợ cho bạn trong các hoạt động.
* Giải pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho trẻ.
Môi trường giáo dục có vai trò rất quan trong trong quá trình phát triển toàn
diện cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ khuyết tật. Vì khi có môi trường giáo dục tốt sẽ
giúp phát triển nhân cách cho trẻ, đồng thời giúp trẻ phát triển tiềm năng các tư
chất, các năng lực tinh thần và thể chất. Hơn nữa, trẻ khuyết tật rất nhạy cảm với
mọi tác động bên ngoài. Không những bệnh tật, thiếu dinh dưỡng có thể gây tác
hại lâu dài mà ngay cả những thiếu sót trong cách thức giáo dục, trong quan hệ tình
cảm cũng dễ làm nảy sinh những chấn thương tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển của trẻ. Cho nên giáo viên mầm non có vai trò rất quan trọng trong việc
giáo dục hòa nhập. Cô giáo như mẹ hiền, thay thế mẹ để chăm sóc, giáo dục và

giúp đỡ trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật phải
thường xuyên được cải tiến, đổi mới, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và sở
thích của trẻ. Kiên quyết tránh mọi hình thức gò bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng
thẳng, ức chế tâm lý trẻ. Cô giáo phải thường xuyên trò chuyện, âu yếm, vỗ về trẻ,
tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái, tạo sự thân thiện để trẻ được hòa nhập cùng
với bạn bè, xây dựng nhóm bạn cùng chơi với trẻ, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, thích
đến trường, thường xuyên nhắc nhở giáo dục trẻ trong trường, trong lớp phải yêu
thương, giúp đỡ bạn lúc khó khăn, thấy bạn bị ngã phải đỡ bạn đứng dậy, thấy bạn
buồn, bạn không khỏe thì phải quan tâm hỏi thăm và cùng chơi với bạn…Đây cũng
là cơ hội tốt để giáo dục tình cảm, lòng nhân ái, nhân cách sống và kỹ năng sống
cho trẻ mầm non.
Lớp tôi dạy có 26 trẻ, các trẻ khác đều chơi vui vẻ, hoà đồng cùng các bạn
trong lớp của mình. Riêng cháu Thiên Phúc do bị khuyết tật khiếm thị nên không
chơi với ai, cháu hay ngồi một mình vì vậy đòi hỏi tôi phải thường xuyên để ý,
quan tâm đến cháu, luôn theo dõi những cử chỉ và hành động của cháu, tôi thường
đến bên cháu trò chuyện với cháu, tìm hiểu xem cháu thích chơi gì, thích bài thơ
nào? Lúc đó tôi cho các trẻ khác đọc thơ cho Phúc nghe. Tôi động viên cháu đến
vui chơi cùng các bạn.
8


Ví dụ: Đối với tiết dạy thơ tôi đến bên trò chuyện với trẻ: Con có biết các
bạn vừa đọc bài thơ gì không? Con có thích bài thơ đó không? Con đến ngồi cùng
các bạn để đọc thơ nhé!".
Khi hỏi trẻ, trò chuyện với trẻ tôi thường nhẹ nhàng, vuốt ve âu yếm trẻ, tạo
cho trẻ cảm thấy yên tâm, sự tin tưởng khi nói với cô điều mà trẻ muốn.
Bên cạnh đó, tôi chú ý sắp xếp, tổ chức trang trí lớp một cách gọn gàng, bố
trí cho trẻ vị trí phù hợp như ngồi gần một bạn biết quan tâm, chia sẻ với trẻ; biết
động viên trẻ trong học tập, giáo viên sẽ khơi gợi được sự hứng thú, say mê học
tập của trẻ. Hơn nữa vị trí thuận tiện của trẻ sẽ giúp trẻ tiếp thu nhanh hơn, thuận

tiện hơn trong học tập và tiện cho việc theo dõi, giúp đỡ của giáo viên. Từ đó, giúp
trẻ khuyết tật có cơ hội học tập bạn bè, xoá bỏ mặc cảm, khả năng giao tiếp phát
triển, hình thành nhiều kĩ năng trong sinh hoạt.
* Giải pháp 5: Dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi
Đối với trẻ khuyết tật thì khả năng nhận thức, diễn đạt những ý nghĩ, mong
muốn của trẻ rất hạn chế. Vì thế, việc giáo dục trẻ khuyết tật phải thực hiện một
cách thường xuyên, phải kiên trì, nhẫn nại mới có kết quả tốt.
Trẻ khuyết tật hay quên nên rất khó cho tôi trong việc dạy trẻ. Trẻ thường lơ
đãng, không tập trung khi nghe cô dạy, tôi phải chú ý nhắc nhở cháu nhiều lần. Đối
với các bài thơ, khi dạy trẻ tôi thường đọc rất chậm từng câu ngắn trong bài thơ để
trẻ hiểu. Nếu trong bài thơ có những từ khó tôi giảng giải cho trẻ hiểu và đọc lại
nhiều lần, nhấn mạnh để trẻ đọc theo cô. Mỗi ngày tôi dành 30 phút để dạy riêng
cho trẻ đọc thơ, trò chuyện cùng trẻ. Đối với các câu chuyện, ngoài việc kể cho trẻ
nghe cùng các bạn trong lớp, giờ hoạt động chiều kể cho trẻ nghe nhiều lần, nhấn
mạnh tên của các nhân vật trong câu chuyện.
Do ngôn ngữ bị hạn chế, trẻ khó nhận ra mối quan hệ giữa các sự vật và hiện
tượng xung quanh nên khi cho trẻ tìm hiểu về môi trường xung quanh, tôi cho trẻ
quan sát trực tiếp sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: Cho trẻ tìm hiểu về các loại quả: quả dưa hấu, quả xoài, quả đu đủ …
dùng quả thật cho trẻ sờ, nếm mùi, vị của quả đó để trẻ phân biệt.
Hoặc khi cho trẻ chơi Hoạt động góc, tôi dắt trẻ đến nơi các bạn đang chơi,
giải thích cho trẻ hiểu các bạn của mình đang làm gì: "Bạn Thư đang nấu ăn, Bạn
Thông đang xây nhà" hoặc cho trẻ hát, đọc thơ cùng các bạn ở góc nghệ thuật…
Qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ nói rõ ràng hơn.
Khi mới đến lớp cháu vẫn thường hay đái dầm khi ngủ trưa. Nhiều lần còn
“đi ngoài” ra quần mà không hề hay biết và cũng không nói với cô. Tôi thường hay
khuyên bảo, nhắc nhở cháu, rèn cho cháu thói quen gọi cô để dắt đi tiểu trước khi
9



đi ngủ và đi vệ sinh đúng nơi quy định. Ở trường ở lớp, cô nhắc trẻ và giúp trẻ rửa
tay bằng xà phòng sau khi đi tiêu tiểu, đánh răng sau khi ăn xong, giúp trẻ giữ gìn
vệ sinh thân thể sạch sẽ. Ở nhà, tôi nhờ cha mẹ nhắc nhở, giúp đỡ trẻ để trẻ có thể
tự phục vụ mình.
* Giải pháp 6: Giáo viên tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Bồi dưỡng là hoạt động nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kĩ năng chuyên
môn cho đội ngũ giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non khi mà
những kiến thức, kĩ năng được đào tạo trước đây chưa đủ để thực hiên có hiệu quả
hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong nhà
trường. Nội dung bồi dưỡng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mầm non được thực
hiện thông qua sinh hoạt theo chuyên đề hoặc lồng ghép với nội dung khác trong
sinh hoạt chuyên môn của cơ sở giáo dục mầm non.
Bản thân giáo viên luôn tích cực tham gia các buổi kiến tập huấn về chuyên
môn nghiệp vụ giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non nhằm trang
bị kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn thuộc lĩnh vực giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật mầm non nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả trong việc
giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mầm non nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả trong
việc giáo dục trẻ khuyết tật được hòa nhập một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc tham gia học tập, tập huấn tôi cũng luôn tìm hiểu theo dõi các
chương trình giáo dục trẻ khuyết tật trên tivi, phim ảnh, các phương tiện thông tin
đại chúng để tìm hiểu và có các biện pháp giáo dục phù hợp nhất.
Hiện nay với khoa học công nghệ ngày càng phát triển, tôi cũng tìm hiểu
trên các trang mạng điện tử google, youtobe về các biện pháp giáo dục trẻ khuyết
tật hòa nhập.
Ngoài quá trình tự học tập bồi dưỡng tôi thường xuyên trao đổi chia sẻ kinh
nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ với bạn bè đồng nghiệp trong trường và các
trường khác trên địa bàn. Bản thân tôi cũng học hỏi và có them nhiều kiến thức
giúp cho việc giáo dục trẻ khuyết tật ngày một có hiệu quả hơn.
* Giải pháp 7: Phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh và các tổ chức đoàn

thể trong trường.
Gia đình và nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng trẻ trong những năm tháng đầu
đời. Chính vì vậy việc kết hợp giữa nhà trường và gia đình là một trong những yếu
tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật. Hằng ngày trong những
giờ đón và trả trẻ tôi đều dành một thời gian nhất định để trao đổi với phụ huynh
về những chuyển biến của trẻ và có những đề xuất cần phụ huynh phối hợp.
10


Để tạo điều kiện giúp trẻ phát huy tối đa khả năng của mình, tôi đã in những
bài thơ, câu chuyện, bài hát, vẽ các bức tranh mẫu gửi về cho phụ huynh để lúc ở
nhà, phụ huynh có điều kiện kèm cặp thêm trẻ, dạy trẻ đọc thơ, hát và tập trẻ tô
màu... Đồng thời qua trao đổi với phụ huynh, tôi cũng biết thêm được một số cá
tính của trẻ ở nhà để có hướng rèn luyện, uốn nắn trẻ kịp thời.
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn có mối quan hệ hữu cơ không thể tách
rời, mọi ảnh hưởng của xã hội đều có tác động rất lớn đến quá trình phát triển của
trẻ. Vì vậy, tôi chủ động đề xuất với nhà trường tham mưu với các ban ngành đoàn
thể cho trẻ khuyết tật được hưởng một số chế độ chính sách ưu tiên như: khám và
chữa bệnh miễn phí, tặng quà ngày 1/6, ngày tết trung thu, tặng quà cho trẻ có
hoàn cảnh khó khăn…để tạo động lực giúp trẻ vươn lên trong cuộc sống và động
viên các bậc phụ huynh có trách nhiệm trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ khuyết
tật.
2.3. Kết quả đạt được
Trong quá trình giảng dạy, tiếp xúc với trẻ, bản thân tôi cũng nắm được đặc
điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của trẻ, từ đó xác định được mục tiêu cho
bài dạy phụ hợp cho trẻ, lên kế hoạch giáo dục hợp lý giúp trẻ phát triển đồng đều
và đạt kết quả cao.
- Trẻ đã mạnh dạn, tự tin hòa nhập với bạn bè.
- Trẻ biết đọc và hát thuộc nhiều bài hát, bài thơ, kể được nhiều câu chuyện.
-Trẻ còn biết thể hiện cảm xúc của mình theo giai điệu bài hát.

- Trẻ biết đi lên, xuống cầu thang mà không cần sự giúp đỡ của cô giáo.
- Trẻ biết đi vệ sinh, biết lấy gối để ngủ.
- Trẻ biết gọi cô, gọi bạn giúp đỡ khi có nhu cầu.
Qua sự tiến bộ rõ rệt của cô và trẻ đã tạo được lòng tin cho phụ huynh hơn khi
đưa trẻ đến trường, xóa bỏ được những suy nghĩ ban đầu của việc giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm non, các bậc phụ huynh đã yên tâm hơn khi đưa
con đến trường và thường xuyên hỏi thăm tình hình học tập của trẻ, và hỏi thăm
bài học để phụ huynh về nhà rèn luyện thêm cho trẻ.
3. KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa
Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là thành quả của sự phát triển tư tưởng
nhân văn trong giáo dục. Trên cơ sở một nhân sinh quan đúng đắn về người khuyết
tật. Việc nâng cao chất lượng dạy học trong giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật vừa
đáp ứng nhu cầu giúp cho từng trẻ khuyết tật có điều kiện phát triển tốt vừa tạo
11


được niềm tin và nhận thức đúng đắn trong ngành và ngoài xã hội về phương thức
giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Trường mầm non chính là chiếc nôi giúp trẻ khuyết tật phát triển tiến bộ
hằng ngày, tạo cho trẻ có sự tự tin hòa nhập với cộng đồng, với toàn xã hội.
* Đối với giáo viên:
Qua quá trình thực hiện, bản thân tôi thu nhận thêm nhiều kiến thức và kinh
nghiệm về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, khơi dậy tình cảm của mọi người đối
với những trẻ kém may mắn.
* Đối với trẻ:
Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống, lòng nhân ái, tình thương yêu bạn bè giữa
những trẻ bình thường và trẻ bị khuyết tật nhằm phát triển nhân cách cho trẻ.
Giúp cho trẻ khuyết tật mạnh dạn, tự tin, tạo tâm thế vui vẻ, thích đến
trường.

Phát huy những thế mạnh của trẻ khuyết tật và hạn chế những khiếm khuyết
cho trẻ, giúp trẻ phát triển đầy đủ cả thể chất và tinh thần, tạo cơ hội phát triển toàn
diện để sau này trở thành những người con có ích cho gia đình và cho xã hội.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh có con em bị khuyết tật đã có nhận thức thức đúng dắn về việc
chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật hoà nhập, từ đó phụ huynh đã chủ động trong việc
phối hợp với giáo viên để trao đổi tình hình của trẻ, tìm biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ
hiệu quả.
Phụ huynh có những hiểu biết cơ bản trong việc chăm sóc nuôi dưỡng, tạo
điều kiện để các em học tập, vui chơi, giúp trẻ phát triển khả năng nhận thức, giao
tiếp và kỹ năng xã hội
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
Để nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở các trường mầm
non nói chung và trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn
đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật. Cụ
thể như sau:
- Phòng giáo dục và đào tạo cần hỗ trợ phương tiện, thiết bị dạy học phù hợp
với các loại tật dành cho trẻ khuyết tật học hòa nhập ở các trường.
- Mở các lớp tập huấn về giáo dục hòa nhập cho cán bộ, giáo viên và cộng
đồng
- Tổ chức giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các đơn vị điển hình để làm tốt
công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
- Lớp học cần có tỉ lệ học sinh hợp lý. Khi nhận 1- 2 trẻ khuyết tật, sĩ số lớp
cần được giảm 3 - 5 trẻ để giáo viên có điều kiện giảng dạy và chăm sóc trẻ
Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mà tôi đã
rút ra được trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót
12


nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng của các bạn đồng nghiệp, các cấp

lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều kinh nghiệm hay trong quá trình giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

13


14



×