Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

luận văn kinh tế luật pháp luật về quyền của ngƣời lao động nữ theo pháp luật việt nam thực ti n thực hiện tại công ty cổ phần hoàng hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.01 KB, 50 trang )

TÓM LƯỢC
Nhận thấy được vai trò quan trọng của việc bảo vệ quyền của người lao động nữ
trong quan hệ lao động và một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình thực hiện quy định
pháp luật. Cùng với việc áp dụng không đúng pháp luật về quyền của người lao động
nữ trong thực tế đã và đang đem lại những hậu quả pháp lý bất lợi cho các bên tham
gia vào quan hệ lao động. Sau thời gian thực tập, tìm hiểu về thực trạng áp dụng pháp luật
về quyền của người lao động nữ tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà, cùng với kiến thức được
trang bị ở nhà trường em đã chọn đề tài: “Pháp luật về quyền của người lao động nữ theo
pháp luật Việt Nam - thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà”.
Trong phạm vi khóa luận, em sẽ tập trung đi sâu làm rõ một số vấn đề pháp lý về
quyền của người lao động nữ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà.
Khóa luận bao gồm 03 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về quyền của người lao động nữ, làm rõ các
vấn đề liên quan, trong đó bao gồm: Các khái niệm cơ bản liên quan người lao động,
quyền của người lao động nữ, lịch sử, cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về quyền
của người lao động nữ và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền của lao động nữ: Đánh giá được thực
trạng, những vấn đề bất cập của pháp luật hiện hành; những khó khăn trong vấn đề
thực hiện quyền của người lao động nữ của Công ty Cổ phần Hoàng Hà.
Chương 3: Qua việc nghiên cứu lý luận pháp luật về vấn đề đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà, đưa ra
một số kiến nghị nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hoàn thiện pháp luật, xây
dựng khung pháp lý hoàn chỉnh về quyền của người lao động nữ.


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Thương mại, được sự chỉ bảo tận tình
của các Thầy Cô, em đã có được những kiến thức, bài học quý báu. Đó thật sự là một
món quà vô giá. Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô, đặc biệt là các Thầy giáo,
Cô giáo trong khoa Kinh tế - Luật trường Đại học Thương mại đã dạy dỗ, tạo điều kiện
thuận lợi cho em thực hiện Khóa luận trong suốt thời gian qua.


Em xin cảm ơn ThS. Trần Thị Nguyệt đã tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ trong quá
trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh, các chị nhân viên Công ty Cổ
phần Hoàng Hà đã tạo điều kiện cho em có khoảng thời gian quý báu học tập và
nghiên cứu tại quý công ty.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề pháp lý liên quan, nhưng
do trình độ lý luận, kiến thức bản thân còn có phần hạn chế nên bài khóa luận không
tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự phản hồi, góp ý của Thầy, Cô
giáo để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Lưu Quỳnh Anh


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC
LỜI CẢM ƠN
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết đề tài.................................................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan...................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài.................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................3
6. Kết cấu của khóa luận.............................................................................................4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG NỮ...........................................................................................................5
1.1. Khái quát chung về quyền của lao động nữ........................................................5
1.1.1. Khái niệm người lao động nữ và quyền của người lao động nữ.......................5
1.1.2. Vai trò của người lao động nữ............................................................................9

1.1.3. Phân loại quyền của người lao động nữ............................................................9
1.2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền của lao động nữ......................10
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ quyền của lao động
nữ................................................................................................................................ 11
1.3.1. Quyền của phụ nữ trong các bản Hiến pháp...................................................11
1.3.2. Quyền của người lao động nữ trong các văn bản pháp luật khác...................14
1.4. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ......15
1.4.1. Cơ sở ban hành.................................................................................................15
1.4.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về bảo vệ quyền của lao động nữ...................17
1.5. Yêu cầu pháp luật về bảo vệ quyển của lao động nữ........................................21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA LAO ĐỘNG NỮ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HOÀNG HÀ............23
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng................................................23
2.1.1. Tổng quan tình hình thực hiện quyền của lao động nữ..................................23
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyền của lao động nữ.......................................24
2.2 Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ...................24
2.2.1. Các quy định trong lĩnh vực việc làm, tuyển dụng lao động...........................24
2.2.2. Các quy định về hợp đồng lao động, tiền lương...............................................26
2.2.3. Các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.....................................27
2.2.4. Vấn đề bảo hiểm xã hội....................................................................................28


2.2.5. Vấn đề về an toàn lao động, bảo hộ lao động..................................................28
2.3 Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ và thực tiễn
thực hiện tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà................................................................29
2.3.1 Tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lao động nữ tại Việt Nam......29
2.3.2. Giới thiệu về công ty Cổ phần Hoàng Hà........................................................31
2.3.3. Tình hình thực hiện pháp luật tại công ty........................................................33
2.4 Đánh giá chung....................................................................................................36
2.4.1. Kết quả đạt được...............................................................................................36

2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế trong pháp luật, thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền
phụ nữ ở Việt Nam......................................................................................................36
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VỀ QUYỀN CỦA LAO ĐỘNG NỮ..........................................................................38
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ...............38
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền của lao
động nữ.......................................................................................................................39
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ
quyền của lao động nữ...............................................................................................40
3.4 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu....................................................41
KẾT LUẬN................................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Trong lịch sử phát triển của loài người, phụ nữ luôn là một bộ phận đóng vai trò
không thể thiếu đối với gia đình và xã hội. Đã có rất nhiều văn kiện và văn bản pháp
luật quốc tế đã xác định và đề cao quyền của phụ nữ. Việc quy định quyền của phụ nữ
trong pháp luật là sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với vai trò của nữ giới trong xã hội,
đây là bước tiến trong sự nghiệp giải phóng con người nói chung và giải phóng phụ nữ
nói riêng.
Ngày nay, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội luôn có sự đóng góp không hề
nhỏ của bộ phận lao động nữ. Họ đã và đang tham gia tích cực vào các hoạt động sản
xuất và đóng một vai trò quan trọng trong lực lượng lao động xã hội ở nước ta. Ở Việt
Nam, phụ nữ và nam giới đều bình đẳng trước pháp luật trong mọi đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Lao động nữ là nguồn nhân lực to lớn góp phần quan trọng
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong thời kỳ hội
nhập. Một trong những mục tiêu và nhiệm vụ của pháp luật lao động là khai thác tiềm
năng lao động của đất nước, tạo thêm nhiều việc làm, thúc đẩy sự phát triển của thị

trường lao động. Vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả người sử dụng lao
động và người lao động, bảo đảm mối quan hệ về lợi ích trong quan hệ lao động phát
triển hài hoà và ổn định cũng là yêu cầu cấp thiết. Việc bảo vệ quyền và lợi ích của lao
động nữ, trước hết là quyền bình đẳng với lao động nam không nằm ngoài yêu cầu đó.
Thực hiện nhiệm vụ này, hệ thống pháp luật nước ta nói chung, pháp luật lao động nói
riêng đã có những đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lí nhằm bảo
đảm, bảo vệ quyền của người lao động nữ.
Trong nhiều năm qua Việt Nam đã rất nỗ lực chuyển hóa các quy định của ILO
vào pháp luật lao động, chuyển hóa các quy định, các điều ước quốc tế về quyền con
người vào các quy định tại Bộ luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia
đình…nhưng thực tế tình trạng phân biệt đối xử đối với lao động nữ vẫn tồn tại và việc
bảo đảm, bảo vệ quyền của lao động nữ vẫn chưa hiệu quả. Thực tiễn thi hành pháp
luật lao động đã cho thấy, sự gia tăng nhu cầu sử dụng lao động và tăng thu nhập cho
người lao động không đồng nhất với với sự bảo đảm quyền lợi của người lao động. Do
những đặc điểm về tâm sinh lý, giới tính, lao động nữ thường gặp khó khăn hơn so với
lao động nam trong quan hệ lao động. Với đặc thù về giới và sự tồn tại của quan niệm
“trọng nam khinh nữ” lao động nữ ở Việt Nam vẫn bị yếu thế, gặp nhiều thách thức, bị
xâm phạm về quyền và lợi ích. Từ thực trạng trên cho thấy nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn về quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam nhằm luận giải
1


các vấn đề về quyền của lao động nữ. Từ đó đề xuất và đưa ra các giải pháp, kiến nghị
giúp các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia về lao động và các nhà hoạt động
vì sự tiến bộ của phụ nữ có những biện pháp bảo đảm, bảo vệ thúc đẩy quyền cho lao
động nữ ngày càng tốt hơn.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Quyền của lao động nữ là một vấn đề rất được quan tâm, trong thực tế đã có rất
nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến vấn đề này. Các
công trình nghiên cứu đó tiếp cận nghiên cứu những yếu tố cơ bản của quyền của lao

động nữ trên nhiều phương diện khác nhau.
 Những công trình nghiên cứu có thể kể đến: “Thực hiện quyền bình đẳng cơ
bản của phụ nữ theo CEDAW tại Việt Nam hiện nay”- TS. Lê Mai Anh (2004), “
Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Mai Hiên (Luận
văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2008); “ Bảo
vệ quyền lợi lao động nữ trong pháp luật lao động Việt Nam” của tác giả Bùi Quang
Hiệp (Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm
2007), “Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam ”- Đặng Thị Thơm,…
 Một số các bài viết khác liên quan tới quyền của người lao động nữ trên tạp
chí, Website như: chùm bài viết cuả tác giả Hoàng Thị Kim Quế : "Phụ nữ: những ưu
ái và thiệt thòi - nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9,
2003; Một số vấn đề về phụ nữ, hôn nhân và gia đình trong pháp luật Việt Nam qua
các thời đại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 3/2001, tr. 14-19; "Công
ước của Liên hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ "
của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
Các công trình nghiên cứu, đề tài nêu trên đã đề cập đến vấn đề tổng quát là công
tác quản lý nhà nước trong pháp luật của người lao động nói chung hoặc một số vấn đề
phát sinh thường gặp đối với người lao động nữ nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu riêng và sâu sắc về vấn đề quyền của lao động nữ trong
pháp luật Viêṭ Nam. Do vậy, em quyết định thực hiện đề tài theo hướng nghiên cứu
mới và có ý nghĩa thực tiễn cao “ Pháp luật về quyền của người lao động nữ theo pháp
luật Việt Nam - thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà”. Nội dung sẽ nghiên
cứu nhằm nghiên cứu một cách tổng quát các nội dung chủ yếu về quyền của lao động
nữ theo pháp luật Việt nam. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền điển hình
tại Công ty Cổ phần tái Hoàng Hà để thấy khách quan những thành tựu và hạn chế của
hệ thống pháp luật về vấn đề này. Từ đó đề xuất một số định hướng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về quyền của lao động nữ.

2



3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Xuất phát từ những lý do thực tế và ý nghĩa của việc nghiên cứu pháp luật về quyền
của người lao động, qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà, em đã quyết
định lựa chọn đề tài của mình là: “ Pháp luật về quyền của người lao động nữ theo pháp
luật Việt Nam - thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà ”.
Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
 Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền của người lao động nữ .
 Thực trạng pháp luật việt nam về quyền lao động nữ và thực tiễn thực hiện tại
Công ty Cổ phần Hoàng Hà .
 Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của lao động nữ ở Việt Nam.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận chung về pháp luật quyền của
người lao động nữ và những kiến nghị hoàn thiện.
Mục tiêu nghiên cứu: luận giải những vấn để lý luận của pháp luật Việt Nam,
những quy định pháp luật, thực trạng thực hiện về quyền của lao động nữ. Phân tích,
đánh giá việc thực hiện những quy định đó tại Công ty Cổ phần Hoàng Hà; qua đó đề
xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền của lao động nữ nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: trong giới hạn của luận văn này đi sâu nghiên
cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quyền của người lao động
nữ. Cụ thể, khóa luận nghiên cứu các vấn đề chung của pháp luật lao động Việt Nam
về quyền của lao động nữ và thực trạng thực hiện quy định pháp luật trong doanh
nghiệp hiện nay. Trong đó:
Phạm vi không gian: Khóa luận giới hạn nghiên cứu các quy phạm pháp luật trên
lãnh thổ đất nước Việt Nam, do nhà nước Việt Nam ban hành.
Phạm vi thời gian: Khóa luận nghiên cứu các quy định hiện hành của Việt Nam
liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài, và các số liệu thống kê về Công ty Cổ
phần Hoàng Hà trong ba năm trở lại đây từ 2014 - 2017.

5. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài khóa luận cần giải quyết được 3 vấn đề
có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: (1) Một số lý luận cơ bản về quyền của lao động
nữ. Mục đích của phần này là phân tích một số vấn đề chung về khái niệm, đặc điểm,
vai trò của người lao động nữ. Đồng thời, nêu rõ cơ sở lý luận về sự ra đời cũng như
nội dung của pháp luật về xử lý kỷ luật lao động. (2) Thực trạng pháp luật về quyền
của lao động nữ và thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần Hoàng Hà. Mục đích của

3


phần này là phân tích về hệ thống pháp luật điều chỉnh quyền của lao động nữ ở doanh
nghiệp. Từ đó tìm ra những điểm thiếu sót, những lỗ hổng còn tồn tại trong hệ thống
luật hiện hành và trong thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Hoàng Hà. (3) Một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật lao động về quyền của lao động nữ. Mục đích của phần này là
tìm ra các biện pháp nhằm định hướng tháo gỡ các vấn đề còn bất cập ở phần (2).
Để giải quyết vấn đề (1), khóa luận sử dụng các phương pháp: Thu thập thông
tin, Tổng hợp tài liệu, Phân tích các nguồn tài liệu, So sánh tài liệu... Mục đích: tìm
hiểu những luận cứ từ trong lịch sử nghiên cứu để chọn ra những quan điểm phù hợp
nhất có thể khái quát chung nhất về vấn đề nghiên cứu.
Để giải quyết vấn đề (2), đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
lý luận và thực tiễn, cụ thể là tổng hợp tài liệu sơ cấp và thứ cấp từ hệ thống pháp luật
về vấn đề nghiên cứu và từ công ty cổ phần Hoàng Hà. Đồng thời, kết hợp với phương
pháp nghiên cứu suy diễn, thông qua những dữ liệu thu thập được, đưa ra các chứng
cứ quan trọng nhằm góp phần vào việc phân tích thực trạng - những điểm đạt được và
cả những bất cập trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật về quyền của lao
động nữ. Qua đó, đưa ra các lý giải và nhận định về vấn đề áp dụng văn bản pháp luật
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Để giải quyết vấn đề (3) khóa luận sử dụng phương pháp suy diễn, tổng hợp ý
kiến để đưa ra giải pháp tốt nhất cho các vấn đề ở phần (2).

6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận bao gồm các phần: Lời cảm ơn, mục lục, lời mở đầu, tóm lược, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung chính của khóa luận bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền của người lao động nữ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền lao động nữ và thực tiễn thực hiện tại
Công ty Cổ phần Hoàng Hà.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động về quyền của lao động nữ.

4


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG NỮ
1.1. Khái quát chung về quyền của lao động nữ.
1.1.1. Khái niệm người lao động nữ và quyền của người lao động nữ.
Lao động là một trong những hoạt động chủ yếu của con người, nhờ có lao động
mà con người đã dần dần thoát ra khỏi thế giới loài vật và hình thành xã hội loài người
như hiện nay. Người lao động là lực lượng về con người và được nghiên cứu dưới
nhiều khía cạnh. “Người lao động” có thể được hiểu là người làm công ăn lương. Một
người lao động đóng góp lao động và chuyên môn để tạo ra sản phẩm cho người sử
dụng lao động và thường được thuê với hợp đồng làm việc để thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể. Dưới góc độ pháp luật, căn cứ theo khoản 1 điều 3 Bộ luật Lao động 2012 quy
định: “ Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc
theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử
dụng lao động.” Theo quy định trên thì không phải bất kỳ công dân nào cũng là người
lao động trong quan hệ pháp luật về sử dụng lao động. Muốn trở thành người lao động
thì người đó phải đáp ứng đủ nhưng điều kiện nhất định do pháp luật quy định.
Khái niệm về giới là cách để xã hội chia con người thành các phạm trù, các loại
và chỉ định cho mỗi loại một kiểu hành vi riêng, những trách nhiệm và quyền lợi riêng.
Sự phân công lao động theo giới là sự phân chia công việc giữa nam và nữ . Theo Công

ước số 111 về phân biệt đối xử việc làm và nghề nghiệp (1958) thì giới tính không
mang ý nghĩa phụ nữ hay giới tính sinh học mà được hiểu là đặc điểm vị trí vai trò của
nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội tức là chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ
về mặt xã hội. Do vậy, từ đây ta có thể hiểu, lao động nữ là người phụ nữ từ đủ 15 tuổi
trở lên, có khả năng lao động, sử dụng sức lao động của mình tham gia vào quan hệ
lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.
Sự khác biệt về giới tính làm cho lao động nữ có những đặc tính riêng đối với lao
động nam. Tính đặc thù của lao động nữ thể hiện ở những đặc điểm về tâm sinh lý và
thể lực. Trước hết, do tạo hóa sinh ra phụ nữ có cấu tạo hình thể bên ngoài nhỏ bé hơn
nam giới, do đó, những công việc đòi hỏi chiều cao, hình thể bên ngoài thì người lao
động nam có lợi thế hơn, lao động nữ thường yếu hơn nam nên họ thích hợp với những
công việc nhẹ nhàng. Hơn thế, do cấu tạo sinh học của nam giới với nhiều mô cơ bắp,
còn phụ nữ nhiều mô cơ mỡ, nên sự dẻo dai và sức mạnh của người lao động nữ
thường kém hơn người lao động nam. Thứ hai, do chức năng thiên bẩm của người phụ
nữ là tái sản xuất giống nòi,vì vậy cho nên trong cuộc đời họ cần một khoảng thời gian
nhất định để sinh nở. Có lẽ chính chức năng duy trì nòi giống đã tạo cho người phụ nữ
có đức tính kiên trì, chịu đựng cao.
5


1.1.2. Khái niệm quyền của lao động nữ.
Quyền của người lao động là những xử sự pháp lý hoặc hành vi pháp lý được
Nhà nước ghi nhận trong pháp luật Lao động dành cho người lao động, theo đó, người
lao động được phép lựa chọn thực hiện những hành vi nhất định, hoặc được yêu cầu
người khác thực hiện, hay được yêu cầu pháp luật bảo vệ lợi ích của mình. Có thể hiểu
rằng, quyền của người lao động là những quyền liên quan đến điều kiện lao động và
điều kiện sử dụng lao động bao gồm việc làm, tiền lương, an toàn lao động, an sinh xã
hội nói chung và bảo hiểm nói riêng.
Theo quy định của Bộ luật lao động 2012 về quyền và nghĩa vụ của người lao
động, quyền của người lao động có thể chia thành các nhóm quyền như sau:

- Quyền làm việc trong đó bao gồm quyền tự do không bị lao động cưỡng bức,
quyền tự do chấp nhận và lựa chọn công việc;
- Quyền được hưởng mức lương công bằng và được trả lương bằng nhau cho
những công việc như nhau;
- Quyền được làm việc trong điều kiện đảm bảo vệ sinh và an toàn lao động;
- Quyền được có thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi hợp lý
- Quyền được thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, trong đó bao gồm cả
quyền được thương lượng tập thể và đình công;
- Quyền được hưởng an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm nói riêng
Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 05 năm 2013 đã
nêu rõ về “quyền và nghĩa vụ của người lao động” tại điều 5 như sau:
“1. Người lao động có các quyền sau đây:
a, Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ
nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;
b, Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với
người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về
an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được
hưởng phúc lợi tập thể;
c, Thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức
khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao
động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động;
d, Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật;
đ, Đình công.
2. Người lao động có các nghĩa vụ sau đây:
a, Thực hiện họp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể;
6


b, Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động, tuân theo sự điều hành họp

pháp của người sử dụng lao động;
c, Thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo
hiểm y tế.”
Quyền lao động là quyền cá nhân con người, có từ khi con người có đủ khả năng
và điều kiện lao động và gắn liền với sự tồn tại của con người. Quyền của người lao
động nữ xuất phát từ nền tảng người phụ nữ trong quan hệ lao động, do vậy nó mang
nhiều đặc điểm quyền của người phụ nữ.
- Đặc điểm quyền của lao động nữ: Các quyền phụ nữ cũng có tất cả những đặc
trưng của quyền con người, nhưng quyền phụ nữ có tính phổ biến đối với phụ nữ. Do
vậy, quyền phụ nữ bao gồm các đặc điểm sau:
Tính phổ biến: Quyền con người bảo đảm cho tất cả mọi người không phân biệt
giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, khuynh hướng chính trị, địa vị xã hội
các quyền bình đẳng và giá trị mà họ được thụ hưởng ở bất cứ đâu và bất kỳ lúc nào.
Tính không thể chuyển nhượng: Quyền con người là những quyền không thể
mang ra mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, thương thuyết, tức là không thể được ban
phát, rút lại hay bị tước đoạt. Quyền con người là sở hữu vốn có của mỗi người bất kể
địa vị của họ như thế nào trong xã hội.
Tính không thể chia cắt, tính tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Các quyền con
người gồm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội có quan hệ tương tác,
phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể không thể tách rời. Với đặc trưng này,
quyền con người mới có thể bảo đảm cho mỗi người được hưởng tự do, an ninh và có
một điều kiện sống tốt đẹp với chân giá trị của mình.
- Bên cạnh đó, quyền của lao động nữ còn mang những đặc trưng như:
+ Quyền của người lao động nữ phải gắn liền với quan hệ lao động: Phụ nữ cũng
là con người nên về mặt pháp lý quyền phụ nữ là một bộ phận tất yếu của quyền con
người. Khi nói đến quyền phụ nữ là nói đến quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền của người lao động nữ chỉ xuất hiện khi
người phụ nữ tham gia vào lĩnh vực lao động, sản xuất,… Pháp luật ghi nhận và bảo
vệ người lao động nữ với tư cách là bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực lao động,
không chỉ bao hàm mục đích bảo vệ sức lao động, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng

của người lao động mà còn phải bảo vệ cho họ trên nhiều phương diện: việc làm, nghề
nghiệp, thu nhập, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, nhu cầu nghỉ ngơi, liên kết và phát
triển trong môi trường xã hội lành mạnh và phát triển…
+ Quyền của người lao động nữ xuất phát từ những đặc tính riêng của nữ giới:
Lao động nữ là lực lượng chủ yếu trong lao động xã hội, họ cùng với lao động nam tạo

7


ra của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển ngày càng cao
hơn. Họ tham gia các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ để tiêu dùng
và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo ra thu nhập, được trả công. Cả phụ
nữ và nam giới đều có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất nhưng do những định
kiến trong xã hội nên mức độ tham gia của họ không như nhau và giá trị công việc họ
làm cũng không được nhìn nhận như nhau. Có thể khẳng định những thói quen, tuổi
tác, sức khỏe, năng lực, phong tục truyền thống và chuẩn mực ảnh hưởng đến kết quả
lao động. Các đặc điểm về tâm sinh lý và kinh tế xã hội là các nhân tố luận giải khi
xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động có chủ thể lao động nữ
tham gia thì cần có quy định mang tính đặc thù để phù hợp với họ. Quyền của lao động
nữ chính là sự cụ thể hóa quyền lao động đối với giới nữ căn cứ vào yếu tố đặc thù của
giới. Phụ nữ chiếm một nửa nhân loại, có đóng góp không nhỏ vào lực lượng lao động
trên thế giới, tuy nhiên ngoài ra phụ nữ còn có thiên chức làm mẹ, đóng vai trò duy trì
nòi giống do vậy việc đảm bảo quyền của lao động nữ được nhìn nhận tổng thể dựa
trên các đặc điểm nữ giới để đảm bảo hài hòa hai vai trò của người phụ nữ.
Do vậy, ta có thể hiểu quyền của người lao động nữ là khả năng xử sự mà pháp
luật cho phép lao động nữ được tiến hành hay đó là thước đo hành vi được phép của
chủ thể lao động nữ trong quan hệ lao động được bảo đảm bởi nghĩa vụ pháp lý của
người sử dụng lao động hoặc Nhà nước. Quyền của lao động nữ được quy định để tạo
điều kiện cho lao động nữ được phát triển mọi tiềm năng nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống của họ.

Thế giới có nhiều văn kiện quy định bảo vệ quyền con người nói chung và quyền
của người lao động nữ nói riêng: Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948
xác nhận những nhân quyền cơ bản, tôn trọng các quyền tự do, phẩm cách và giá trị
con người cũng như quyền bình đẳng nam nữ để đảm bảo sự thừa nhận này được thực
thi trên bình diện quốc gia và quốc tế. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa năm 1966 của Liên hợp quốc quy định việc nam và nữ có quyền bình đẳng
trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa đồng thời cần dành sự bảo hộ đặc biệt cho
các bà mẹ trong một khoảng thời gian thích đáng trước và sau khi sinh con, trong
khoảng thời gian đó, các bà mẹ cần được nghỉ có lương hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc
lợi an sinh xã hội. Công ước CEDAW- Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả
các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ là văn kiện quốc tế mang tính ràng buộc
pháp lý đầu tiên nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử với phụ nữ và xây dựng một chương
trình hành động nhằm thúc đẩy quyền bình đẳng của phụ nữ …Tất cả những văn kiện đó
đều không nằm ngoài mục tiêu thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ các quyền lao động và
quyền con người của người lao động, đặc biệt là người lao động nữ.
8


1.1.2. Vai trò của người lao động nữ.
Trong lịch sử phát triển của loài người, phụ nữ luôn là một bộ phận đóng vai trò
không thể thiếu đối với gia đình và xã hội. Phụ nữ là người lao động, người công dân
đồng thời là người mẹ, người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người. Không chỉ
góp phần tạo ra của cải, vật chất, tinh thần mà còn tích cực tham gia vào cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc bằng phẩm chất, trí tuệ và lao động.
Đứng dưới góc độ quyền con người thì quyền lao động và quyền bình đẳng được
ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948:
"Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền”, Công ước
CEDAW năm 1979 - Công ước của Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ và các Công ước của ILO….
Hiện nay trong các doanh nghiệp ở nước ta, tầm quan trọng của các lao động nữ

là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự khéo léo và linh hoạt trong lao động.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất
trên thế giới trong đó tỷ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp luôn nằm ở mức xấp xỉ
50%. Điều này cho thấy trong các doanh nghiệp thì các lao động nữ cũng đóng vai trò
quan trọng như nam giới, vai trò của nữ giới và nam giới ngày càng bình đẳng. Hơn
nữa các doanh nghiệp có các vị trí lãnh đạo chủ chốt là nữ cũng không hiếm. Thực tế,
cả lao động nam và nữ đều có những vai trò nhất định trong từng ngành nghề khác
nhau. Nhiều doanh nghiệp có đến 90% là nữ như các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất đồ may mặc, lắp ráp linh kiện điện tử, công nghiệp dày da… Như
vậy lao động nữ đóng vai trò quan trọng trong quan hệ lao động, chiếm phân nửa lực
lượng lao động.
1.1.3. Phân loại quyền của người lao động nữ.
Căn cứ vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, quyền của người lao động nữ
được chia thành các nhóm quyền như sau:
- Căn cứ vào nội dung pháp luật cụ thể: bao gồm các quyền về việc làm, tuyển
dụng, quyền bình đẳng về tiền lương, về thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, quyền về an toàn
lao động,…
- Căn cứ vào lĩnh vực trong đời sống xã hội:
+ Quyền kinh tế: phụ nữ có những quyền bình đẳng với nam giới trong sản xuất,
kinh doanh và sở hữu tài sản. Hiến pháp và các bộ luật đều có những quy định cụ thể
về quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc làm, thu nhập.
+ Quyền hôn nhân và gia đình: phụ nữ được hưởng các quyền bình đẳng với nam
giới trong đời sống hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

9


+ Quyền giáo dục: tương tự như các lĩnh vực kinh tế và chính trị, phụ nữ có các
quyền bình đẳng với nam giới về cơ hội học tập, cơ hội đào tạo và nâng cao trình độ
chuyên môn.

- Căn cứ vào đối tượng: Quyền nhân thân và quyền tài sản: phụ nữ có quyền
được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, quyền về tài sản tương đương với nam giới.
- Những quyền phụ nữ đặc thù: phụ nữ có những quyền đặc thù khác như: quyền
bất khả xâm phạm về tình dục, quyền không bị phân biệt đối xử và một số quyền đặc
thù khác như quyền được bảo vệ với tư cách là người mẹ mà không bị coi là phân biệt
đối xử
1.2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền của lao động nữ
Lao động nữ ngoài việc thực hiện nghĩa vụ lao động như nam giới, họ còn phải
đảm nhận chức năng làm mẹ và chăm sóc gia đình. Đó là những vấn đề mang tính tự
nhiên (lao động nữ có thời kỳ mang thai, sinh đẻ, nuôi con, kinh nguyệt hàng tháng,
chăm sóc khi con nhỏ ốm đau…) hay mang tính xã hội. Những vấn đề tự nhiên cũng
như các vấn đề xã hội phần nào đã hạn chế quyền tự do độc lập, tự do lao động, cơ hội
thăng tiến mà lao động nữ thường chịu thiệt thòi hơn lao động nam trong quan hệ lao
động. Vì thế khi tham gia quan hệ lao động, lao động nữ phải chịu áp lực tâm lý từ
nhiều phía, từ công việc ở doanh nghiệp, công sở đến công việc gia đình (nội trợ,
chăm sóc con cái, phụng dưỡng bố mẹ…).
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, ngoài chức năng làm mẹ, chức năng chăm sóc
gia đình của lao động nữ có những thay đổi nhất định. Do áp lực của công việc và khả
năng lao động của lao động nữ đòi hỏi xã hội phải nhìn nhận vấn đề này một cách
khách quan hơn. Những đặc điểm của lao động nữ, đòi hỏi pháp luật phải có những
quy định riêng giúp họ vừa thực hiện nghĩa vụ lao động, vừa đảm bảo chức năng
làm mẹ.
Việc quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi cho người lao động nữ đã tạo ra những
căn cứ để buộc người sử dụng lao động phải tôn trọng và có những xử sự hợp lý đối
với lao động nữ. Do người lao động nữ có những yếu thế trong quan hệ lao động so
với nam giới, những người sử dụng lao động thường nhằm vào những đặc điểm này để
gây khó khăn cho họ. Việc tạo ra hành lang pháp lý đã phần nào hạn chế được những
bất lợi người sử dụng lao động gây nên cho người lao động nữ, đồng thời còn giúp Nhà
nước trong việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm của các doanh nghiệp. Đồng thời,
pháp luật quy định quyền bảo vệ cho người lao động nữ cũng chính là những căn cứ để

giải quyết các tranh chấp trong lao động có thể xảy ra giữa 2 bên chủ thể.

10


1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ quyền của lao
động nữ.
Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến từ khi nhân dân ta giành
được độc lập từ tay thực dân phong kiến. Sau khi giành được chính quyền và "Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản
trong đời sống của người phụ nữ. Từ nay chị em thực sự trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh mình cùng nam giới chung lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc".
Theo đó, những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền công dân, trong đó có quyền
của phụ nữ được ban hành. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước, nên ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói
riêng được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới. Hiện nay,
những quyền cơ bản của phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong
các văn bản pháp luật.
1.3.1. Quyền của phụ nữ trong các bản Hiến pháp
Ngay từ Hiến pháp năm 1946, Nhà nước đã quan tâm đến quyền của phụ nữ, rút
ngắn khoảng cách phân biệt đối xử, “đàn bà ngang quyền với đàn ông” quy định này
tạo tiền đề và cơ sở cho chuyển biến to lớn về vị trí vai trò của phụ nữ trong pháp luật
và thực tế xã hội Việt Nam sau này. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ
nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt
đối xử về giới”.
Hiến pháp năm 1946- Hiến pháp 1980
Tháng 10/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
chính thức được ban hành, quyền bình đẳng giữa nam và nữ được công nhận. Hồ Chủ
tịch nói: “Bản Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi
quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng

với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Cụ thể, Điều 9 Hiến pháp năm 1946
khẳng định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”. Có thể nói, quy định
của Hiến pháp năm 1946 có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa vừa mới được thành lập, góp phần phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam
kinh nữ” của chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Ta có thể thấy được, Hiến pháp 1946 đã quan tâm đến quyền và lợi ích của người
phụ nữ trong xã hội, tuy nhiên lại chưa có quy định cụ thể về quyền của người lao
động nữ trong xã hội.
Khi quyền nam nữ bình đẳng được công bố và thừa nhận, có người lầm tưởng
rằng việc giải phóng phụ nữ như vậy đã được giải quyết, do đó thi hành luật pháp có
thể là dễ dàng, thuận lợi. Hồ Chủ tịch đã sáng suốt chỉ ra rằng, con đường đấu tranh để
11


thực hiện quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ khó khăn và lâu dài. Vì vấn đề giải
phóng phụ nữ là một vấn đề xã hội to lớn sự quan tâm của tất cả mọi người. Muốn giải
phóng người phụ nữ không chỉ thực hiện một sự phân công mới, bình đẳng giữa vợ và
chồng trong những công việc gia đình, mà cái căn bản là phải có sự phân công, sắp
xếp lại lao động của toàn xã hội,đưa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành nghề như nam
giới. Cần tổ chức lại đời sống công nông cũng như sinh hoạt gia đình để phụ nữ giảm
nhẹ công việc bếp núc, chăm lo con cái, có điều kiện tham gia sản xuất, học tập nâng
cao trình độ mọi mặt. Từ đó, chị em mới có đủ khả năng làm nhiều công việc chuyên
môn và đảm nhiệm được những chức vụ công tác ngang hàng với nam giới. Đó là một
cuộc cách mạng thực sự lớn.
Hiến pháp năm 1959: Điều 24 quy định:“Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và gia đình’’. Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ
thể hóa hơn các lĩnh vực mà người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới.
Quyền bình đẳng nam nữ được thể hiện trên 5 lĩnh vực từ xã hội đến gia đình bao
hàm tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự ghi nhận, trân trọng và đảm bảo

của toàn xã hội đối với vai trò của phụ nữ, tuy vậy vẫn chưa có các quy định cụ thể
về người lao động nữ.
Hiến pháp năm 1980: Khác với hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, trong
Hiến pháp năm 1980, quyền của phụ nữ vừa được lồng vào các quyền cơ bản của công
dân, vừa được quy định riêng nhằm tạo ra những điểm nhấn quan trọng, khẳng định
quyền của phụ nữ. Theo Điều 55, thì “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.
Có thể nói đây là quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, vì nó bao hàm tất cả các
giới tính, khẳng định quyền bình đẳng giới trong xã hội.
Lần đầu tiên, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của Nhà nước ta xác định:
“Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo,
trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử
và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp"
(Điều 57).
Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này cũng quy định đảm bảo sự bình đẳng giữa nam
và nữ trong lĩnh vực lao động, hôn nhân và gia đình, cụ thể: “Công dân nữ và nam có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi
hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và
nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế
độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ
trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.
12


Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng
phát huy vai trò của mình trong xã hội. Chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi,
nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều
kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn
phận của người mẹ” (Điều 63) và “hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân
biệt đối xử giữa các con” (Điều 64).

Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp tiến bộ, ở đó quyền
của công dân Việt Nam nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được khẳng định
ở tầm cao hơn, cụ thể hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ 1946-1980, ta thấy được điểm
thiếu sót ở đây chính là các quy định cụ thể về quyền của người lao động nói chung
cũng như người lao động nữ nói riêng chưa được đề ra.
Hiến pháp năm 1992
Về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những quy định
tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, nhưng nhấn mạnh thêm: "Nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" (Điều 63).
So với Hiến pháp trước đây, bản Hiến pháp 1992 đã có sự phát triển hơn khi có
những quy định rõ ràng, mạnh mẽ trong việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong
xã hội, nhưng những quy định cụ thể về quan hệ lao động đối với phụ nữ vẫn chưa
được đưa ra tại thời điểm này.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới 2013 có những sửa đổi, bổ sung và
phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, trong đó có cả quyền của phụ nữ. Theo đó, mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội; nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn, hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Đặc biệt, Điều 26
Hiến pháp nhấn mạnh: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính
sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều
kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm
cấm phân biệt đối xử về giới.
Như vậy, quyền của phụ nữ Việt Nam ngày càng được phát triển qua các bản
Hiến pháp, các quyền cơ bản đó bao gồm: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; Quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; Có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của
13



mình; Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác; Quyền có nơi ở hợp pháp; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; Quyền tự
do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; Quyền bầu cử và ứng cử; Quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước...
Kế thừa nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp 1946, tại Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980, Hiến pháp 1992 đều ghi nhận quyền của phụ nữ. Hiến pháp 2013, một lần nữa
khẳng định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới cùng với đó đã đưa ra được các quy định về pháp
luật lao động, và cụ thể là pháp luật cho người lao động nữ. Hiến pháp 2013 đã cụ thể
hóa các chính sách, đã đề ra các điều luật để bảo vệ được người lao động nữ trong mối
quan hệ lao động nhằm bảo vệ sự bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.
1.3.2. Quyền của người lao động nữ trong các văn bản pháp luật khác.
Quyền cơ bản của phụ nữ theo quy định của Hiến pháp được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật như: Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo hiểm xã hội, Bộ luật Lao động,
Luật Hôn nhân và gia đình,...
Luật Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của
mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành
quả của sự phát triển đó và không bị phân biệt đối xử về giới. Theo đó, Nhà nước bảo
đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình;
bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để
nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ
phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; hỗ trợ hoạt
động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có

điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng
chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển
giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp
hạng năm 2012 của Liên Hợp Quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ
47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể
hiện sự bình đẳng cao)

14


Luật Bảo hiểm xã hội
Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm
xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử
tuất, thất nghiệp, mất sức lao động... Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang
tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai
(nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100%
tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là
phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội.
Bộ luật Lao động
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 dành một chương (Chương X) quy định
riêng về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình
đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động
nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu
linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc
làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ,
tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ
phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và
cuộc sống gia đình. Luật quy định rõ, nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam, nữ về tuyển dụng,

sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được dành thời gian trong
thời gian lao động để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không được sa thải hoặc đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì kết hôn, có thai, nuôi con
nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 quy định tăng
thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.
Luật Hôn nhân và gia đình
Luật Hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà
nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc
trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau...
1.4. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ.
1.4.1. Cơ sở ban hành
Trong quan hệ lao động thì lao động nữ luôn được coi là yếu thế hơn so với lao
động nam và thường bị giới chủ đối xử bất bình đẳng. Nền kinh tế thị trường tất yếu
hình thành thị trường lao động, với các quan hệ lao động ngày càng phức tạp đa dạng
tạo nhiều cơ hội tốt cho lao động nữ phát huy được khả năng của mình. Nhưng do
nhiều nguyên nhân khác nhau quyền lợi của lao động nữ trong việc tuyển chọn, trả
15


công, bảo hiểm xã hội…vẫn có sự phân biệt và vi phạm. Để bảo vệ quyền của lao
động nữ một cách hiệu quả, khắc phục tình trạng bất bình đẳng của lao động nữ với
lao động nam trong quan hệ lao động cần có những quy định cụ thể, riêng biệt về
quyền lợi của người lao động nữ trong quan hệ lao động. Quyền của lao động nữ đã
được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia như trong Hiến pháp vad các luật
chuyên ngành,…
 Hiến pháp 2013
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đồng
thời, đây cũng là căn cứ để Quốc hội thông qua và ban hành các văn bản pháp luật.

Suốt từ những ngày đầu lập hiến đến nay, Việt Nam có năm bản Hiến pháp phù
hợp với từng giai đoạn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của từng thời kỳ. Đó là
các bản Hiến pháp năm 1946; 1959; 1980; 1992; 2013. Bản Hiến pháp năm 2013 là
bản Hiến pháp mới nhất tính đến thời điểm hiện nay, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2014. Ở Việt Nam, kế thừa nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp 1946, tại Hiến pháp
1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đều ghi nhận quyền của phụ nữ. Hiến pháp
2013, một lần nữa khẳng định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước
có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình
tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.
 Các bộ luật chuyên ngành như Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo hiểm xã hội…cũng đã có những quy định mới, riêng
biệt tiến bộ hơn so với các văn bản luật cũ về bảo vệ người lao động nữ trong quan hệ
lao động.
Tuy nhiên, việc quy định về quyền của người lao động nữ chưa được tập trung
mà còn nằm rải rác ở các luật khác nhau, điều này gây nên sự chồng chéo trong quy
định, đồng thời gây khó khăn trong việc thực hiện quyền cũng như việc tiếp cận đối
với lao động nữ. Trong thực tế, đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới,
trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa
hiện nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự
phát triển chung của xã hội. Vai trò này đang được khẳng định một cách rõ nét hơn bao
giờ hết. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp chưa quan tâm đúng
mức đến đời sống nhân viên. Các doanh nghiệp đang quan tâm đến lợi ích trước mắt
mà chưa có những chính sách dài hạn liên quan đến việc chăm lo đời sống cho người
lao động nữ. Đồng thời đối với các quy định của Nhà nước họ cũng tìm cách đối phó
16


chứ chưa thực sự thực hiện đúng tinh thần của các quy định này, tình trạng xâm phạm

quyền của lao động nữ hiện vẫn còn diễn ra, điều này ảnh hưởng trước hết đến đời
sống công nhân lao động nữ, không được đảm bảo về cả vật chất lẫn tinh thần. Họ
không thể làm chủ được cuộc sống của mình, và vì vậy người phụ nữ không thể làm
tốt vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình. Khi đó xã hội sẽ phát sinh nhiều vấn
đề cần giải quyết, các vấn đề tiêu cực như: mâu thuẫn gia đình, ly hôn…sẽ ngày càng
gia tăng. Do vậy có thể thấy việc ban hành và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền của
người lao động nữ thực sự rất cần thiết trong xã hội hiện nay.
1.4.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về bảo vệ quyền của lao động nữ.
1.4.2.1. Về việc làm, tuyển dụng
Theo quy định của Bộ luật Lao động, bảo vệ việc làm cho người lao động là
trách nhiệm của Nhà nước, của doanh nghiệp và toàn xã hội. Đối với lao động nữ, Nhà
nước có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện có việc làm
thường xuyên, áp dụng chế độ làm việc linh hoạt, không trọn ngày, không trọn tháng,
…Nhà nước khuyến khích cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao trình độ nghề nghiệp,
chăm sóc sức khỏe, phúc lợi vật chất và tinh thần… mở rộng nhiều loại hình đào tạo
thuận lợi cho lao động nữ. Khoản 1,2 Điều 153 BLLĐ 2012 quy định:
“1. Bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ.
2. Khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc
làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm
việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà.”
Và tại khoản 2 điều 6 NĐ 85/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của bộ
luật lao động về chính sách đối với lao động nữ :” Khuyến khích người sử dụng lao
động phối hợp với tổ chức công đoàn lập kế hoạch, thực hiện các giải pháp để lao
động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng chế độ làm việc theo thời gian biểu linh
hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà phù hợp với nguyện vọng
chính đáng của lao động nữ”.
Bộ luật Lao động cũng đã quy định rõ nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối
với lao động nữ, điều này được thể hiện tại Điều 153, 154 bộ luật này:
“1. Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và

các chế độ khác.
2. Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những
vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ.
3. Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc

17


4. Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ,
mẫu giáo cho lao động nữ.”
Căn cứ theo khoản 3 điều 155 BLLĐ quy định:
“3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con
dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao
động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.”
Tại điều 158 BLLĐ quy định về bảo đảm việc làm cho lao động nữ nghỉ thai sản
“ Lao động nữ được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian
theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 157 của Bộ luật này; trường hợp việc làm
cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho họ với mức
lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.”
Khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động không chỉ tự do lựa chọn
việc làm mà còn được người sử dụng lao động cam kết đảm bảo làm việc lâu dài, phù
hợp với sức khỏe và trình độ chuyên môn. Bảo đảm quyền tự do lựa chọn việc làm cho
người lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi nó tạo cho người lao động tính chủ
động trong công việc, họ được thể hiện tài năng và trí tuệ, yên tâm công tác.
1.4.2.2 Về tiền lương
Pháp luật bảo đảm thu nhập và đời sống cho người lao động thông qua quy định
về mức lương tối thiểu và chế độ trợ cấp thất nghiệp.
Để đảm bảo thu nhập và đời sống người lao động, pháp luật lao động Việt Nam

qui định mức lương tối thiểu mà người sử dụng lao động phải trả cho một lao động
giản đơn, đồng thời cũng khuyến khích người sử dụng lao động bảo đảm quyền lợi cho
người lao động ở mức cao hơn luật định. Pháp luật cũng đã quy định rất rõ ràng về
việc bình đẳng giới giữa lao động nam và nữ trong vấn đề về trả lương.
Căn cứ tại khoản 1, Điều 154 BLLĐ quy định:
“ 1. Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và
các chế độ khác.
Nghị định số 49/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao
động về tiền lương.
1.4.2.3 Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Đảm bảo chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý là một trong những
yêu cầu quan trọng nhất trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động bởi lẽ đây là
những quy định ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, đời sống của người lao động. Các
18


quy định của pháp luật lao động hiện nay đều dựa trên các kết quả về xã hội học, các
nghiên cứu về thực tiễn môi trường của nước ta. Bên cạnh đó pháp luật cũng có những
quy định nhằm khống chế thời gian làm thêm giờ do người lao động và người sử dụng
lao động thỏa thuận, quy định những trường hợp cấm huy động làm thêm giờ… nhằm
ngăn chặn những hành vi lạm dụng sức lao động, gây ảnh hưởng tới sức khỏe và đời
sống của người lao động… Thời giờ nghỉ ngơi được quy định bao gồm thời giờ nghỉ
ngơi xen kẽ trong giờ làm việc, thời giờ làm việc sau một thời gian làm việc dài hoặc
chế độ nghỉ hàng tuần, hàng năm…
Căn cứ theo khoản 1, khoản 2, khoản 5 điều 155 BLLĐ quy định:
“1. Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm,
làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp sau đây:
a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;

b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
2. Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07, được
chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn
hưởng đủ lương.
5. Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời
gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm
việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.”
1.4.2.4 Về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động không chỉ tự do lựa chọn
việc làm mà còn được người sử dụng lao động cam kết đảm bảo làm việc lâu dài, phù
hợp với sức khỏe và trình độ chuyên môn theo quy định của pháp luật lao động. Để
đảm bảo sức khỏe cho người lao động, pháp luật còn quy định trách nhiệm của người
sử dụng lao động, của trung tâm y tế phường xã, các bệnh viện cấp tỉnh, thành phố…
Đối với doanh nghiệp cần có trách nhiệm trong việc bố trí bác sỹ, y sỹ hoặc có trạm y
tế doanh nghiệp để thực hiện chức năng bảo vệ sức khỏe cho người lao động. Cán bộ y
tế phải được tập huấn về chương trình chăm sóc sức khỏe lao động theo quy định hiện
hành và phải chịu sự chỉ đạo chuyên môn của trung tâm y tế phường, xã, quận huyện
đối với công tác chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Ngoài ra, quy định pháp
luật đã đưa ra được những quy định nhằm đảo bảo tiêu chuẩn về an toàn lao động,
vệ sinh lao động. Trước hết trách nhiệm của việc đảm bảo tiêu chuẩn về an toàn lao
động, vệ sinh lao động thuộc về người sử dụng lao động. Bên cạnh đó người lao
động lại phải thể hiện trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ đúng các quy định

19


về an toàn lao động, vệ sinh lao động, tuân thủ nội quy làm việc của doanh nghiệp.
Khi xây dựng mới hoặc cải tạo cơ sở sản xuất kinh doanh cần tuân thủ các quy định
về an toàn lao động. Người sử dụng lao động đồng thời phải đảm bảo nơi làm việc
đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sang, đạt tiêu chuẩn về bụi, hơi, khí

độc, phóng xạ …cho người lao động. Người sử dụng lao động phải định kỳ kiểm
tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, phải có bộ phận che chắn đối với các thiết bị dễ
gây nguy hiểm tới người lao động, phải bố trí đề phòng khi có sự cố xảy ra, có bảng
chỉ dẫn về an toàn lao động, vệ sinh lao động đặt ở ví trí dễ thấy, dễ đọc. Trong
trường hợp tại nơi làm việc có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, thiết bị có nguy cơ
gây tai nạn lao động thì phải thực hiện ngay các biện pháp khắc phục hoặc phải ra
lệnh ngừng hoạt động…
Công việc không được sử dụng lao động nữ được quy định tại điều 160 BLLĐ
“1. Công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
2. Công việc phải ngâm mình thường xuyên dưới nước.
3. Công việc làm thường xuyên dưới hầm mỏ.”
Doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên phải có
kế hoạch đào tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang làm công việc khác phù
hợp, tăng cường các biện pháp bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động.
Căn cứ vào khoản 3 điều 154 BLLĐ quy định:
“3. Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc.
Tại điều 155 BLLĐ quy định:
“1. Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm,
làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp sau đây:
a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Nghị định 45/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động
về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động,vệ sinh lao động.
1.4.2.5 Về bảo hiểm xã hội
Pháp luật bảo đảm thu nhập và đời sống cho người lao động thông qua chế độ
bảo hiểm thai sản. Người lao động hưởng chế độ thai sản được nghỉ làm mà vẫn được
hưởng chế độ trợ cấp thai sản. Điều 35 Luật bảo hiểm xã hội quy định rõ, trong thời
gian người lao động nghỉ thai sản vẫn được hưởng chế độ thai sản với mức hưởng

bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của sáu

20


tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính
là thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao
động không phải đóng bảo hiểm xã hội.
Khi người lao động nữ mang thai, sinh con và chăm sóc con nhỏ, điều này thể
hiện ở chế độ trợ cấp thai sản được quy định tại Luật BHXH 2014, BLLĐ và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Căn cứ tại khoản 2 điều 157 BLLĐ:
“ 2. Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.”
Theo điều 159 BLLĐ quy định: “Thời gian nghỉ việc khi khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai, chăm
sóc con dưới 07 tuổi ốm đau, nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động nữ được
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.”
1.5. Yêu cầu pháp luật về bảo vệ quyển của lao động nữ
Pháp luật của các quốc gia đều hướng tới mục tiêu bảo vệ người lao động trong
đó có lao động nữ đặt trong sự hài hòa với lợi ích của người sử dụng lao động. Tuy
nhiên, nhiều chủ sử dụng chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của mối quan hệ lao động ổn
định hài hòa nên đặt nặng việc khai thác tối đa lợi nhuận mà chưa quan tâm đến việc
bảo đảm quyền của lao động nữ. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước
quốc tế có liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích của phụ nữ như: Công ước về loại trừ
tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979; Công ước số 100 năm
1996 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có
giá trị ngang nhau; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công
ước quốc tề về các quyền dân sự chính trị…
Một trong những yêu cầu thiết yếu đặt ra về pháp luật bảo vệ quyền của người lao

động là việc đảm bảo được sự bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong xã
hội. Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu mà Chính phủ hầu hết các nước
trên thế giới đang hướng tới. Khi công bằng và bình đẳng được nâng cao thì xã hội sẽ
ổn định hơn và sự đoàn kết trong xã hội được chặt chẽ hơn. Trong hầu hết các trường
hợp, vai trò đầu tiên của Nhà nước là tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho cả nam và
nữ. Điều này có nghĩa là phải bảo vệ quyền cơ bản cho tất cả mọi người. Trong những
năm gần đây, quyền lợi và nghĩa vụ của người phụ nữ nước ta ngày càng được thể chế
hóa một cách rõ ràng, cụ thể về con đường đưa phụ nữ đi tới bình đẳng, tự do, phát
triển. Chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định
tiến bộ của Đảng và Nhà nước được nhấn mạnh trong yêu cầu xây dựng khung pháp lý
đảm bảo sự đồng bộ, không xảy ra mâu thuẫn, xung đột pháp luật nhằm phát triển
21


×