Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận LLCT Vấn đề nhân cách người cán bộ quản lý, Thực trạng giải pháp hoàn thiện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.22 KB, 38 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Lêi c¶m ¬n
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, các Cô giáo Trường chính trị
Tỉnh Bắc Giang, đặc biệt là Khoa Xây dựng Đảng và cô giáo Nguyễn Hải
Ninh đã giúp đỡ tôi hoàn thành tiểu luận này.
Do khả năng nhận thức còn hạn chế, lại vừa công tác vừa hoàn thành
đề tài, do đó chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp các thầy, cô giáo Trường Chính trị Tỉnh Bắc Giang để tiểu luận
được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI THỰC HIỆN

NGUYỄN VĂN TUÂN

1

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

MỤC LỤC

Mở đầu……………...……………………………………..
……………………1


Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách người cán bộ
lãnh đạo, quản lý……………………………………………………………..
……….
I. Một số quan niệm về nhân cách……… …..........................................………….
II. Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý………………………...……….…
III. Yêu cầu xâu dựng nhân cách của người cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN……………..…………
Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng Nhân cách người cán bộ
lãnh đạo quản lý ở công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc trong thời kỳ hiện
nay………………………………………………………………………………..
…..
I. Đặc điểm tình hình chung về Công ty Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc
II. Thực trạng nhân cách cán bộ quản lý và tình hình thực hiện, kết quả việc
thực hiện công tác cán bộ ở Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc hiện
nay ...............
III. Những yêu cầu đặc trưng về nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc……………………………………...……...
IV.Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách người cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc
……………..…
Kết luận ………………………………………………………………………..
Tài liệu tham khảo …………………………………….………………………

NGUYỄN VĂN TUÂN

2

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC



TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá, hiện đại hoá.
Nhiệm vụ đó rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây
dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", "Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Muốn
quản lý được tốt, người lãnh đạo, quản lý cần phải "hiểu người, biết mình và
khéo dùng người". Vậy trước hết, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải "tự hiểu
rõ" mình.
Công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, nhưng một trong những yếu tố có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết
định đó là nhân cách của họ. Vì thế, tương ứng với vị thế và vai trò của mình,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có một nhân cách mẫu mực, hoàn thiện,
cao hơn những người bình thường, có vai trò định hướng, gương mẫu, có ưu
thế tác động nhiều mặt, biết tổ chức, tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người
cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm được những yếu tố quy định và
những yêu cầu có tính đặc trưng về nhân cách người lãnh đạo, quản lý có một
ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có tính cơ bản lâu
dài, vừa là đòi hỏi bức xúc hiện nay.
Với những lý do như đã trình bày trên, tôi chọn đề tài: “Vấn đề nhân cách
người cán bộ quản lý. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa
chất Hà Bắc” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân cách của người

cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở
nước ta, nhất là trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm ra những
phẩm chất nhân cách có tính đặc trưng của người lãnh đạo, quản lý ở Công ty
Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Từ đó, đề ra giải pháp cơ bản nhằm không
ngừng hoàn thiện và nâng cao phẩm chất nhân cách của họ.

NGUYỄN VĂN TUÂN

3

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những thực trạng về nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc
Bản thân sử dụng một số phương pháp chủ yếu như sau: Phân tích, tổng hợp,
khái quát hoá, lôgic lịch sử, thu thập thông tin từ các báo cáo sơ kết, tổng kết
hàng năm của Ban thường vụ Đảng ủy Công Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc
về công tác xây dựng đảng, công tác cán bộ... Trên cơ sở đó làm rõ đặc điểm
tình hình của Công ty và cụ thể hoá nhiệm vụ, vị trí, chức năng.. . từ đó, đề ra
những yêu cầu về nhân cách cho phù hợp.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được kết cấu
thành hai chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng Nhân cách người cán
bộ lãnh đạo quản lý ở công ty phân đạm và hoá chất Hà bắc trong thời kỳ
hiện nay

NGUYỄN VĂN TUÂN

4

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

I./ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÂN CÁCH.

1./ Khái niệm về nhân cách trong tâm lý học
Nhân cách là khái niệm cơ bản của Tâm lý học cũng như một số nghành khoa
học khác: Như giáo dục học, đạo đức học, xã hội học, triết học…
Có nhiều định nghĩa về nhân cách, theo tâm lý học có các định nghĩa sau:
“Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân, quy định
giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ”.
“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện ở
bản sắc và giá trị xã hội của người ấy” (Phạm Minh Hạc).
“Nhân cách, đó là một tổ chức động của các hệ thống tâm - sinh lý trong cá

nhân, chúng quy định sự thích ứng trọn vẹn của cá nhân đối với môi trường
xung quanh” (G.Allport).
“Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất tâm lý, nói lên đặc điểm của từng
người riêng biệt “(R.Meili).
“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm
chất tâm lý đang quy định hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa
xã hội” (E.V.Sôrôkhôva).
Dù khác nhau, nhưng qua các định nghĩa trên ta thấy rằng: Con người trở
thành một nhân cách khi đặt con người đó trong sự hoạt động, giao lưu với xã
hội. Khi bàn về vấn đề này, Mác cho rằng trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nhận định rất khái quát này đã
nói lên bản chất, cấu trúc nhân cách cũng như chỉ ra con đường hình thành
nhân cách, nhận định này đã là cơ sở lý luận cho Tâm lý học, Giáo dục học và
các ngành khoa học nghiên cứu về con người.

NGUYỄN VĂN TUÂN

5

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Từ những quan niệm về nhân cách, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn chưa
có một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng toàn diện vấn đề bản
chất nhân cách.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người (ít

nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi hỏi
ở mỗi con người phải có.
Do đó, có thể hiểu: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người
được đánh giá từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác,
với tập thể, với xã hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh trong mọi cái
nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách là một thứ giá trị
được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại trong
xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong
con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
2./ Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách
Các nhà tư tưởng triết học phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu vũ
trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát
triển con người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết
được các thông tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý
âm dương, vừa đối lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau,
trời - đất - người hợp thành một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận
xét: Khi phát triển hết mình, con người có thể biết trời mà còn hợp nhất với
trời làm một.
Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người:
Kim, Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí, nếu Kim
vượng thì tính cách cương trực. Người mệnh Hoả thì lễ nghĩa, đối với mọi
người nhã nhặn, lễ độ, thích nói lý luận; nhưng nếu Hoả vượng thì nóng nảy,
vội vã, dễ hỏng việc. Người mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ
vượng thì hay trầm tĩnh, không năng động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc
hiền từ, lương thiện, độ lượng; Mộc vượng thì tính cách bất khuất. Người
mệnh Thuỷ thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thông suốt; nếu Thuỷ vượng thì
tính tình hung bạo, dễ gây tai hoạ.
Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là phụ.
Người phương Đông lấy “Tâm thiện” là lý tưởng. Phương Tây tôn sùng tiến
bộ, tôn sùng văn minh vật chất, không quan tâm nhiều đến phẩm chất. Do đó

nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay suy đồi, nhân cách con người
NGUYỄN VĂN TUÂN

6

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

thoái hoá không bằng ngày xưa. Người phương Đông đề cao tính thiện, tính
nhân, thích sự im lặng, nhẹ nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu
nhân, xử thế, chính trị đều hướng tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất,
giản dị trong nội tâm, trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người.
Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín. Trong đó Nhân là gốc và chỉ có người “Đại nhân” mới có Nhân.
Trên đây là những nét sơ lược về tư tưởng phương Đông cổ đại có liên quan
đến nhân cách con người. Nó nói lên hoàn cảnh và phương thức sống của con
người phương Đông. Tuy vậy, đây chưa phải là những quan điểm, học thuyết
về nhân cách.
3./ Quan niệm về nhân cách ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân
cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song
cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực
hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu nước,

tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người. Theo
cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như sau:
“Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân,
biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà
không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy
định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã
hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân”.
4./ Những quan điểm của Mac-Lê nin về nhân cách người cán bộ quản lý.

Theo C.Mác, “Con người là tồn tại tự nhiên trực tiếp. Với tư cách của tồn tại
tự nhiên, sau đó là tồn tại tự nhiên sống, về mặt nào con người được phú cho
sức mạnh tự nhiên, sức mạnh sống là tồn tại tự nhiên hoạt động, những sức
mạnh này tồn tại dưới dạng năng khiếu và năng lực, dưới dạng mong muốn”.

NGUYỄN VĂN TUÂN

7

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Về bản chất con người, C.Mác đã viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người là một tồn tại tự nhiên, có tính chất thể

chất, một tồn tại sống hiện thực, có tư duy và có ngôn ngữ. Con người là một
tồn tại giống loài, nhưng ở mức độ cao nhất của sự phát triển giống loài. Con
người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội. Tính chất xã hội là cơ
bản của con người. Cuộc sống xã hội và lao động làm xuất hiện ý thức con
người. Như vậy điều kiện bản chất của loài người là lao động, tư duy, ngôn
ngữ. Điều này chỉ có được trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người.
5./ Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân cách

người cán bộ quản lý.
Trong cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo.
Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách
mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.
Hệ thống quan điểm và tư tưởng của người về xây dựng phẩm chất và năng
lực, nhân cách cho đội ngũ cán bộ chứa đựng những nội dung lý luận sâu sắc
và ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Nhân cách của người cán bộ là sự tổng hòa các
yếu tố về phẩm chất và năng lực, trong đó nổi lên là vấn đề năng lực và đạo
đức. Việc rèn luyện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý là một nhiệm
vụ then chốt, thường xuyên của công tác cán bộ.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách người cán bộ thể hiện trước hết ở
"trung với nước, hiếu với dân". Người coi trung với nước, hiếu với dân là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của đạo đức cách mạng và là yếu tố
cơ bản của nhân cách người cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, trung với nước là dám xả thân vì nền độc lập, tự do
của Tổ quốc, dẫu biết rằng đi làm cách mạng thì có thể bị tù đày, nhiều gian
khổ, hi sinh cả tính mạng.
Trung với nước là phải đặt quyền lợi của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết,
trước hết. Người cán bộ lãnh đạo là người giữ trọng trách trong bộ máy của
hệ thống chính trị càng cần có đức tính hy sinh cho lợi ích của Đảng, của Tổ

quốc. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, khi các lợi ích đặt ra cho mọi người, trong đó có lợi ích cá
nhân trong mối quan hệ với lợi ích của tập thể và lợi ích của Tổ quốc. Theo

NGUYỄN VĂN TUÂN

8

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Hồ Chí Minh cho rằng, không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý đến
lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, có
lợi ích của cá nhân mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: vào Đảng là tự
nguyện; nếu vào Đảng mà sợ hy sinh thì đừng vào Đảng hoặc khoan hãy vào,
để khi nào rèn được đức tính hy sinh rồi hãy vào. Mọi người, kể cả những cán
bộ lãnh đạo, quản lý được khuyến khích làm giàu, nhưng đó là làm giàu chính
đáng, chứ không phải làm giàu với bất cứ giá nào, làm giàu bất chấp đạo lý,
làm giàu bằng tham nhũng, dùng mọi biện pháp kể cả vi phạm pháp luật để
làm giầu, lấy của công làm của riêng đặt lợi ích của riêng mình lên trên tập
thể.
Còn “hiếu với dân” là bao hàm cả hiếu với cha mẹ, có tình yêu thương trong
gia đình, nghĩa là có một “đời tư trong sáng”. Trong khái niệm "nhân cách"
của một con người, thường người ta hiểu có điểm nhấn về mặt này nhiều hơn.
Đứng trước dân, đang ở vị trí lãnh đạo, quản lý mà người cán bộ, đảng viên

nêu gương xấu (chẳng hạn như tư cách đạo đức, lối sống không tốt; tác
phong, phong cách chưa tốt; con cái hư; bản thân thì chưa đối xử tốt với vợ
(chồng) con, với ông bà, cha mẹ, với anh em, v.v.) thì tất yếu sẽ dẫn đến tình
trạng không lãnh đạo, quản lý được ai một cách thực chất; nói không ai nghe,
làm không ai theo, là đạo đức giả, gây phản cảm. Hiếu với dân không ở đâu
xa, mà trước hết chính ngay ở trong gia đình, họ tộc, xóm giềng của bản thân
người cán bộ lãnh đó.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn biểu hiện ở đức tính cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Cần, theo quan điểm của Hồ Chí Minh ngoài việc đòi hỏi người cán bộ phải
cần cù, siêng năng, chịu khó, biết vượt qua khó khăn, gian khổ để làm việc,
còn là yêu cầu tăng năng suất lao động. Đây là một quan điểm hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khi coi năng suất lao động chính là một
điều kiện cốt yếu để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Năng suất
lao động của mỗi cá nhân là điều kiện để tạo thành năng suất lao động xã hội,
nhưng điều đó mới chỉ nói lên phần nào sự phát triển kinh tế, chứ chưa phản
ánh được nhiều tăng năng suất lao động xã hội. Đức tính "cần" của người cán
bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay là phải chú ý tới hiệu quả, chất lượng công tác,
phải đo được bằng kết quả cụ thể của từng người, từng ngành, từng địa
phương, từng đơn vị.

NGUYỄN VĂN TUÂN

9

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG


TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Kiệm, theo Hồ Chí Minh, đó là tiết kiệm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: cần phải đi đôi
với kiệm; cần mà không kiệm thì tiền như “gió vào nhà trống”. Thực tế hiện
nay, lãng phí biểu hiện ở nhiều mặt: lãng phí tiền của trong đầu tư; lãng phí
trong chi tiêu; lãng phí thì giờ, v.v.. Điều đáng chú ý nhất, đáng nhấn mạnh
nhất trong quan điểm này của Hồ Chí Minh là ở chỗ, kiệm không có nghĩa là
bủn xỉn, mà là việc gì đáng chi thì phải chi, việc gì chưa đáng chi thì khoan
hẵng chi, việc gì không đáng chi thì dứt khoát không chi. Đây chính là bài học
cơ bản nhất, lâu dài nhất, cần phải học cả đời người, đối với mọi đối tượng, từ
con người bình thường và càng đặc biệt hơn đối với người cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người nắm quyền, nắm tiền,
nếu không chịu rèn luyện đức tính tiết kiệm theo quan điểm và tấm gương của
Hồ Chí Minh thì rất dễ bị tha hoá nhân cách.
Liêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đức "liêm" của con người ta là điểm quan
trọng. Liêm là liêm khiết, là trong sạch, không tham ô, tham lam (cả tiền bạc,
địa vị,v.v..). Đức tính liêm khiết là một biểu hiện rất rõ của nhân cách con
người. Trong hoàn cảnh hiện nay, người cán bộ không những cần rèn cho
mình đức tính không tham lam, không tham nhũng mà còn phải đấu tranh
không khoan nhượng chống lại những biểu hiện tham nhũng. Hồ Chí Minh
gọi tham ô, lãng phí, quan liêu với đúng nghĩa của nó là "giặc nội xâm”. Điều
chú ý nữa trong vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề này là phải
đề phòng và khắc phục bệnh tham danh vọng, địa vị. Với những biện pháp,
thủ đoạn để có được chức vụ này nọ hay gọi là "chạy chức, chạy quyền", thì
đó là điều đáng báo động về nhân cách người cán bộ, đảng viên.
Chính, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là không tà, là thẳng thắn; việc thiện
dù nhỏ cũng cố làm, việc ác dù nhỏ cũng cố tránh. Rèn luyện đức tính "chính"
theo quan điểm của Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là người cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải có thái độ rõ ràng, trong cuộc sống và công tác luôn yêu cái

thiện, ghét cái ác; luôn hành động, làm gương cho mọi người. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh: "Tự mình phải chính trước, mới giúp được người
khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý".
Chí công vô tư là một đức tính nữa của nhân cách người cán bộ, đảng viên
mà Hồ Chí Minh đề cập. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ
bệnh mà Hồ Chí Minh cho đó là "bệnh mẹ" đẻ ra muôn vàn "bệnh con". Rèn
đức tính này theo gương Hồ Chí Minh, người cán bộ phải luôn có ý thức và
hành động chăm lo đến lợi ích của Đảng, của Tổ quốc. Trong điều kiện hiện
nay, người cán bộ phải vừa tôn trọng tập thể, bảo đảm dân chủ, người cán bộ

NGUYỄN VĂN TUÂN

10

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

phải dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tính quyết đoán mới có thể hoàn
thành tốt mọi công việc và nhiệm vụ được giao.
Người cán bộ thể hiện ở thường xuyên nói đi đôi với làm. Đạo đức cách mạng
không phải cứ tự nhiên mà có, mà phải là kết quả của sự rèn luyện thường
xuyên trong suốt cuộc đời. Tự giác, tự nguyện, tự tu dưỡng nhân cách phải trở
thành nếp sống hằng ngày của người cán bộ. Hồ Chí Minh quan niệm: “một
con người hôm qua là vĩ đại, được mọi người yêu mến thì hôm nay không còn
là vĩ đại nữa, nếu lòng mình không trong sáng”.
Nhân cách của người cán bộ còn biểu hiện ở mối quan hệ thống nhất giữa nói

và làm, điều mà trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
"Nói thì phải làm". Hiện nay, có không ít cán bộ chỉ nói mà không làm, nói
nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương sáng về nói đi đôi với làm. Là người cán bộ mà nói không đi đôi với
làm thì sẽ bị sa vào lối đạo đức giả, phản tác dụng trong việc thực hiện nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị.
Nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước. Đất nước ta đang cần
những tấm gương mẫu mực, luôn biết học tập và làm theo tấm gương đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh và chỉ có như vậy người cán bộ lãnh đạo sẽ tạo
nên sức mạnh của toàn hệ thống chính trị thực hiện thành công sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người giữ chức vụ càng cao, trọng trách càng lớn
càng phải đòi hỏi nhiều hơn về nhân cách, tư tưởng, phong cách
II./ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.

1./ Đặc điểm của nhân cách:

1.2. Tính thống nhất:
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức
và tài, giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa cái bên trong và cái bên
ngoài, giữa cá nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ biện
chứng với nhau. Trong cái đức có cái tài, trong cái tài có cái đức, trong phẩm
chất và năng lực của một cá nhân con người phải luôn thống nhất với nhau.
1.3. Tính ổn định của nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong
mỗi cá nhân. Vì thế, nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc
đời của mỗi con người, do đó nhân cách có tính ổn định tương đối của nó.
Tính ổn định của nhân cách cao hay thấp là tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện

NGUYỄN VĂN TUÂN


11

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

nhân cách của người đó. Các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách
tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân
cách có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng
vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.
1.4. Tính tích cực của nhân cách:
Nhân cách vừa là chủ thể của hoạt động, vừa là sản phẩm của chính hoạt động
giao tiếp, nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Tính tích cực của nhân cách
được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẻ và đa dạng, song đều
tác động tích cực vào sự phát triển của xã hội. Do vậy, tính tích cực của nhân
cách được quy định bởi hệ thống nhu cầu của cá nhân.
1.5. Tính giao lưu của cá nhân:
Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở giao lưu và hoạt
động. Bởi lẽ trên cơ sở giao lưu, cá nhân mới có điều kiện để lĩnh hội, học hỏi
để tiếp nhận các giá trị của xã hội, các chuẩn mực đạo đức, từ đó mà hoàn
thiện nhân cách của mình, mới có điều kiện đóng góp những giá trị của cá
nhân trong sự phát triển của cộng đồng, của xã hội. Từ đó mà mỗi cá nhân
được đánh giá, được nhìn nhận, được thẩm định theo quan điểm của xã hội.
2./ Cấu trúc của nhân cách.
Nói đến cấu trúc nhân cách, chính là nói tới các thành phần của nhân cách.
Xét về mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng quát của nhân
cách có hai thành phần chính: Đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức thể

hiện phẩm chất và tài thể hiện năng lực của con người. Có bốn nhóm: Xu
hướng, tính cách, khí chất, năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài.
Chính đức và tài cấu thành phẩm chất trên. Nhân cách của người lãnh đạo nói
chung và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói riêng:
2.1 Phẩm chất chính trị tư tưởng.
Đó là khuynh hướng hoạt động chính trị xã hội và lập trường chính trị của
người quản lý, được biểu hiện cụ thể trong ý thức chính trị trong công việc
thường ngày, người quản lý luôn ý thức được hậu quả về mặt chính trị của
hoạt động quản lý của mình. Nhạy bén trong việc vận dụng đường lối, chính
sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào công việc của mình và biết đánh
giá con người theo những tiêu chuẩn chính trị.
2.2 Phẩm chất tâm lý đạo đức.

NGUYỄN VĂN TUÂN

12

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập trường
đạo đức của người quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm lòng say mê
công việc, lòng nhân ái, sự công bằng, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà giữa
lý luận và thực tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm.
Người quản lý phải làm gì để tạo niềm tin và là chỗ dựa vững chắc cho quần
chúng. Ở người quản lý, nói ít làm nhiều cũng chưa hẳn là tốt mà lời nói phải

đi đôi với việc làm; có như vậy mới thể hiện được vai trò giải thích, tuyên
truyền, vận động, thuyết phục quần chúng của người quản lý.
2.3 Năng lực quản lý, tổ chức chuyên môn.
Đó là khả năng tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn người cán bộ
quản lý phụ trách, nghiên cứu khoa học có hiệu quả, áp dụng các tiến bộ khoa
học vào trong sản xuất. Muốn vậy, người cán bộ quản lý phải có trình độ học
vấn nhất định, trình độ văn hoá sâu sắc, phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực
chuyên môn và có năng lực tổ chức. Phải tinh nhạy về mặt tâm lý, tình cảm và
có đầu óc tâm lý thực tế.
Người lãnh đạo phải kiên quyết, phê và tự phê đúng mức, biết khai thác tài
năng, trí tuệ của nhân viên. Họ phải có tính năng động về trí tuệ, tốc độ suy
nghĩ nhanh, linh hoạt, nhạy bén, có tinh thần phê phán khoa học mọi hiện
tượng, mọi quá trình.
Người lãnh đạo còn phải có năng lực dự báo tình huống trong lãnh đạo, quản
lý… Cuối cùng, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thường xuyên học tập, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức để nâng cao uy tín cá nhân kết hợp với uy tín, quyền lực,
chức vụ trong xã hội, ngành giao cho để hoạt động lãnh đạo, quản lý được
thuận lợi, có hiệu quả. Người cán bộ quản lý phải thực sự là “tấm gương
sáng” cho cán bộ nhân viên noi theo.
Người quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người đúng việc.
Phải có trình độ chuyên môn, trình độ văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo quản
lý. Người quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau
cùng”.
3./ Biểu hiện của nhân cách:
3.1 Năng lực tổ chức công việc:
Người cán bộ quản lý phải biết tổ chức công việc, sắp xếp và ra các quyết
định theo thẩm quyền của mình. Có nhiều người khi làm việc chỉ riêng mình
đạt hiệu quả rất cao nhưng không có khả năng tổ chức cho nhiều người cùng
NGUYỄN VĂN TUÂN


13

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

thực hiện. Vì vậy, năng lực tổ chức công việc tập thể là yếu tố rất quan trọng
của người cán bộ quản lý trong các bộ phận sản xuất.
3.2 Năng lực lãnh đạo:
Đây chính là khả năng lan truyền nghị lực và ý chí của người cán bộ quản lý
đối với tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người tính tích cực hoạt động và lao
động một cách tự giác. Mác và Lê-nin đều cho rằng chỉ có lao động tự giác
mới có khả năng sáng tạo. Rõ ràng trong điều kiện ngày nay, trong sự yêu cầu
khắt khe của xã hội, trong thời đại phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và
ứng dụng xử lý thông tin, để thành công thì yếu tố sáng tạo trong mọi hình
thức hoạt động là vô cùng quan trọng. Trong công việc đòi hỏi người quản lý
phải có tính kiên quyết, có phê bình và tự phê bình một cách đúng mức, có
khả năng khai thác trí tuệ của người khác, có tính tự chủ, có trình độ văn hoá
cao và có cái tâm trong sáng.
3.3 Tính năng động về trí tuệ:
Thể hiện ở cấp độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt nhạy bén với cái mới, có tinh
thần phê phán khoa học đối với mọi sự vật hiện tượng và quá trình, có năng
lực dự báo sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế.
4./ Con đường hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ quản lý.

Nhân cách không phải tự nhiên mà có mà mỗi cá nhân phải trải qua quá trình
rèn luyện lâu dài. Tâm lý học đã chỉ ra các yếu tố quy định sự hình thành nhân

cách:
Giáo dục: Không ai sinh ra đã là người lãnh đạo. Muốn trở thành người lãnh
đạo trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là
thành viên của xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người thực tế là quá
trình hoạt động của cá nhân để lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội.
Quá trình này được thực hiện nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục
được coi là một hoạt động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động một cách
có mục đích đến cá nhân để hình thành ở cá nhân đó hệ thống những phẩm
chất tâm lý phù hợp với mục tiêu đào tạo của xã hội đặt ra.
Đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay cần phải được giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng nắm vững những hệ thống những tri thức khoa học, những tri
thức về đạo đức, những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý. Điều quan trọng là phải
trang bị cho người lãnh đạo hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê Nin
NGUYỄN VĂN TUÂN

14

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

và tư tưởng Hồ Chí Minh; những tri thức về tâm lý con người, về công nghệ
quản lý, lãnh đạo.
Hoạt động: Môi trường xã hội, giáo dục của xã hội có vai trò quan trọng đối
với sự hình thành và phát triên nhân cách. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi
trường và giáo dục chỉ diễn ra thông qua hoạt động của chính con người.

Cuộc sống con người là một dòng hoạt động kế tiếp nhau. Nếu không hoạt
động con người không thể tồn tại và phát triển được. Nhân cách được hình
thành, phát triển và cũng được bộc lộ trong hoạt động. Hoạt động của cá nhân
có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Giao lưu: Giao lưu là một hoạt động nhằm thiết lập và vận hành các quan hệ
giữa người với người. Nếu không có giao lưu thì cá nhân sẽ không thể trở
thành một nhân cách.
Các quan hệ trong giao lưu còn giúp cá nhân so sánh mình với những đối
tượng giao tiếp và qua đó tự nhận thức đúng về mình, tự hoàn thiện mình.
Chính quá trình “tự thân vận động” của mỗi người có nguồn gốc từ giao lưu.
Trong quá trình quản lý, lãnh đạo, giao lưu là hoạt động chủ yếu trong mối
quan hệ với tổ chức với người dưới quyền. Nếu không có hoạt động giao lưu
thường xuyên thì không thể diễn ra hoạt động của người lãnh đạo. Nhờ giao
lưu người lãnh đạo nắm được tình hình của quần chúng để có thể điều chỉnh
mình, chỉ đạo tốt việc ra quyết định, thực hiện quyết định quản lý.
Tập thể: Các tập thể cơ quan, đơn vị sản xuất, đoàn thể xã hội là môi trường
quan trọng để người lãnh đạo rèn luyện nhân cách của mình. Với tư cách là
chủ thể quản lý, người lãnh đạo tiến hành hoạt động quản lý thông qua các
con người trong tập thể và nhờ đó mà phát triển nhân cách. Ngược lại, trong
quá trình chỉ đạo, quản lý, chính bản thân người lãnh đạo lại được tập thể
nhận xét thừa nhận hay không thừa nhận. Phê bình và tự phê bình là phương
tiện có hiệu quả nhằm giúp người lãnh đạo phát triển nhân cách.
III./ YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN.

1./ Yêu cầu chung:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng
trong đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là những người trực
tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, lấy hoạt động sản xuất
kinh doanh làm đối tượng, dựa trên cơ sở phân tích kinh tế – kỹ thuật và hạch


NGUYỄN VĂN TUÂN

15

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

toán kinh tế nhằm đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế
xã hội tối đa; đồng thời chịu sự quản lý của Đảng và Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước gồm: các thành viên
Hội đồng quản trị (đối với các doanh nghiệp có Hội đồng quản trị); tổng giám
đốc, giám đốc, phó tổng giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và những
chức danh trưởng phòng, phó trưởng phòng (ban) trong doanh nghiệp; các
chuyên gia, nghệ nhân và các viên chức chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài ra,
trong tiến trình mở rộng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thì những cán
bộ được giao đại diện phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần
cũng thuộc đội ngũ này.
Sự thành công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (kể cả
quy mô lớn, vừa hoặc nhỏ) phụ thuộc vào hiệu quả quản lý, điều hành của
giám đốc doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp được coi là một nghề, đòi
hỏi phải có những tiêu chuẩn riêng về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp, đặc biệt
trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi những người
cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục

tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Họ phải có tầm nhìn xa, dự báo đúng tình
hình, có tính can đảm, có tri thức, giỏi về quản lý hiện đại, có tài trí, dám
khám phá, giàu ý thức, thích ứng nhanh với yêu cầu của xã hội. Người cán bộ
quản lý giỏi không những cần thiết để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động
của cơ quan đơn vị mình phụ trách mà còn là vốn quý cho sự phát triển của
đất nước.
2./ Một số yêu cầu cơ bản đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
doanh nghiệp nhà nước:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã đề ra những yêu cầu về tiêu
chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ quản lý (trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp nhà nước) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Những yêu cầu về tiêu chuẩn chung này được
tiếp tục cụ thể hóa ở hai mặt là phẩm chất và năng lực như sau:
2.1Yêu cầu về phẩm chất
Phẩm chất bao gồm: phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức
a. Về phẩm chất chính trị:
NGUYỄN VĂN TUÂN

16

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Trước hết, sự biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về phẩm chất chính trị của
từng cán bộ quản lý doanh nghiệp hiện nay là phải có tinh thần yêu nước sâu
sắc, có lòng tự hào và tự tôn dân tộc, phải nắm vững và quán triệt được quan

điểm, đường lối phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
quan điểm đổi mới của Đảng ta.
Ở từng cấp quản lý trong doanh nghiệp cụ thể hóa đường lối, quan điểm và
nội dung quản lý, biểu hiện ở việc làm, kết quả cống hiến vào sự phát triển
của doanh nghiệp trong sự phát triển chung của đất nước.
Khi xem xét đánh giá phẩm chất chính trị của từng cán bộ quản lý phải dựa
vào việc xem xét người đó đã tìm tòi, đã cống hiến được gì vào sự phát triển
của doanh nghiệp, của địa phương, của ngành và cả nước, vào việc bảo đảm
và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động
trong doanh nghiệp. Đây chính là tiêu thức cơ bản nhất để đánh giá cán bộ.
Yêu cầu cụ thể về phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp nhà nước cần phải có là:
- Có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và kiên định
trong công việc được giao. Có ý chí và có khả năng làm giàu cho doanh
nghiệp và bản thân. Thích ứng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, năng
động, sáng tạo trong công việc, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.
- Có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, đánh giá kết quả công việc của bản
thân, đánh giá con người mà mình quản lý theo tiêu chuẩn chính trị.
- Biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức chính trị của mọi
người, tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người cùng tham gia.
b. Về phẩm chất đạo đức:
- Trước hết, người cán bộ lãnh đạo, quản lý với tư cách là một công dân, phải
sống và làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức một công dân, phải lấy việc gương
mẫu sống và làm việc theo pháp luật là tiêu chuẩn đạo đức cơ bản.
- Yêu cầu đặc thù của chức nghiệp quản lý doanh nghiệp là phải quản lý một
tập thể con người, đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý phải biết chăm lo đến con
người, tập thể, cộng đồng, biểu hiện qua việc làm phải công bằng, công tâm,
khách quan, có văn hóa, tôn trọng con người, có đạo đức trong kinh doanh.
- Là tấm gương cho người dưới quyền và người lao động trực tiếp noi theo.
Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp phải là người cần,


NGUYỄN VĂN TUÂN

17

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn, không
tham nhũng, không cơ hội, không vụ lợi, thực hiện bình đẳng giữa cống hiến
và hưởng thụ, giữa quyền hạn và trách nhiệm. Có ý thức tổ chức kỷ luật, được
quần chúng tín nhiệm.
2.2 Yêu cầu về năng lực:
Năng lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp là khả năng hoàn thành có kết quả
một loạt hoạt động trong doanh nghiệp. Năng lực bao gồm năng lực chuyên
môn và năng lực tổ chức quản lý.
a. Năng lực chuyên môn:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, lĩnh vực chuyên môn có sự thay đổi lớn
và cũng đặt ra đòi hỏi rất cao về kiến thức chuyên môn.
- Trước hết, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải có kiến thức chuyên môn về
lĩnh vực được giao trách nhiệm quản lý, biết sử dụng và tập hợp các chuyên
gia giỏi, các cán bộ chuyên môn dưới quyền, giao đúng việc và tạo điều kiện
cho mọi người phát huy khả năng chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ nhiệm vụ
và lợi ích chung của doanh nghiệp.
- Phải có kiến thức kinh tế thị trường, luật pháp và thông lệ quốc tế, kiến thức
về khoa học công nghệ, nắm vững bản chất và cơ chế vận động của quy luật

thị trường để ứng xử, lựa chọn các phương án kinh doanh; để sử dụng công cụ
điều tiết kinh tế thị trường trong quản lý và điều hành doanh nghiệp.
- Phải có kiến thức về khoa học quản lý hiện đại, hoạt động theo nguyên tắc
của thị trường như mọi nghề khác. Trong hoạt động quản lý, điều hành doanh
nghiệp phải xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh và thực tiễn đời sống
kinh tế – xã hội để tìm lời giải, biện pháp cụ thể.
b. Năng lực tổ chức quản lý:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp là những người trực tiếp tổ chức điều
hành hoạt động của từng đơn vị kinh tế. Do đó, yêu cầu đặt ra cho từng cán bộ
quản lý là những yêu cầu mang tính cụ thể, thiết thực bao gồm: năng lực phân
tích các tình huống; năng lực quyết sách và giải quyết các vấn đề thực tiễn;
năng lực tổ chức và chỉ huy; năng lực liên kết phối hợp hành động.
- Là người có trình độ văn hóa trong giao tiếp, có sức khỏe và đủ năng lực
chuyên môn, phản ứng nhanh nhạy, linh hoạt, có tầm nhìn và có khả năng
hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp trong dài hạn, biết quan sát

NGUYỄN VĂN TUÂN

18

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

nắm bắt được các nhiệm vụ từ tổng thể tới từng chi tiết để quản lý, điều hành
doanh nghiệp hoạt động đồng bộ và có hiệu quả.
- Là người bình tĩnh, tự tin, tự chủ, quyết đoán trong công việc, có kế hoạch

làm việc rõ ràng và tiến hành công việc theo kế hoạch. Có năng lực tham gia
vào các quyết định tập thể và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thuộc phạm vi
trách nhiệm của bản thân.
- Là người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu
trách nhiệm, có khả năng lường trước mọi tình huống có thể xảy ra, biết dồn
đúng tiềm lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ có lợi cho doanh
nghiệp, chịu được áp lực của công việc và của dư luận xã hội.
- Là người có tác phong đúng mức, có thái độ chân thành, cởi mở; đồng thời
hướng cho cấp dưới tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau. Biết sử dụng đúng tài
năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý tốt các quan hệ trong và
ngoài doanh nghiệp.

NGUYỄN VĂN TUÂN

19

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở CÔNG TY
PHÂN ĐẠM VÀ HOÁ CHẤT HÀ BẮC

I./ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG VỀ CÔNG TY PHÂN ĐẠM VÀ HOÁ CHẤT HÀ BẮC.


1./ Đặc điểm chung.
Nhà máy Phân đạm Hà Bắc (nay là Công ty TNHH một thành viên Phân đạm
& Hoá chất Hà Bắc) được Nhà nước Việt nam phê chuẩn thiết kế xây dựng
ngày 20/07/1959. Nhà máy Phân Đạm Hà Bắc được Nhà nước Trung Quốc
giúp đỡ xây dựng bằng sự viện trợ không hoàn lại. Toàn bộ máy móc thiết bị
được chế tạo từ Trung Quốc theo thiết kế.
Vị trí địa lý của Công ty được đặt trên mảnh đất Xương giang lịch sử, phía tây
giáp sông Thương cung cấp tài nguyên nước cho sản xuất và sinh hoạt và
cũng là nơi vận chuyển cung cấp vật tư thiết bị cho Công ty. Phía nam giáp
Thành phố Bắc Giang là trung tâm văn hoá chính trị của Tỉnh. Với vị trí địa lý
rất thuận lợi về giao thông thuỷ, bộ và đường sắt là điều kiện lý tưởng cho
việc phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Hiện nay cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty theo mô hình trực tuyến, chức
năng với cấp quản lý cao nhất là Tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám
đốc có các phó Tổng giám đốc. Các phó Tổng giám đốc có nhiệm vụ giúp
Giám đốc điều hành mọi hoạt động sản xuất của Công ty trên các lĩnh vực
đựơc phân công. Số lượng Cán bộ, CNVC có 1.946 người với trình độ dân trí
tương đối đồng đều. Trình độ học vấn trong CBCNV tương đối cao, có
khoảng trên 371 người có trình độ đại học, còn phần lớn là cao đẳng và thợ
lành nghề. Đời sống của CBCNV có thu nhập tương đối ổn định, nhất là mấy
năm gần đây với điều kiện SXKD tốt, đời sống thu nhập của CBCNV tăng
cao.

NGUYỄN VĂN TUÂN

20

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC



TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Công ty Phân đạm & Hoá chất Hà Bắc là doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập. Sản phẩm chính là phân bón Urê
thương phẩm 46% N2, ngoài ra còn một số sản phẩm phụ như: NH 3; CO2
lỏng, rắn; O2; N2; phân bón tổng hợp NPK, …phục vụ cho nông nghiệp, công
nghiệp, quốc phòng . Với nhiệm vụ sản xuất như vậy nên Công ty có vai trò
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế Quốc dân, mỗi một sự thay đổi về sản
lượng, thay đổi về sản phẩm sẽ làm thay đổi không nhỏ tới thị trường, nhất là
thị trường nông nghiệp.
Trong 5 năm từ 2006 đến 2010, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
liên tục tăng trưởng với tốc độ cao bình quân 10% năm, nộp ngân sách hàng
năm đều tăng và vượt kế hoạch, tổng nộp ngân sách 5 năm là 435 tỷ đồng tỷ
đồng, Giá trị tổng sản lượng hàng năm đều vượt kế hoạch, giá trị. Giá trị sản
xuất công nghiệp là 3.170 tỷ đồng, doanh thu hàng năm đều tăng, tổng doanh
thu sản xuất công nghiệp 5.485 tỷ đồng.
- Sản phẩm chủ yếu:
+ Sản lượng Urê 924.275 tấn, tăng 35,6 % so với 5 năm 2001-2005.
+ Sản lượng NH3 thương phẩm 18.845 tấn, tăng 10,4 lần so với 5 năm 20012005.
+ Sản lượng điện sản xuất 1.317,126 triệu kWh, tăng 34,3% so với 5 năm
2001-2005.
+ Sản lượng sản phẩm CO2 lỏng, rắn 113.302 tấn, tăng 387,34% so với 5 năm
2001-2005.
- Lợi nhuận 2.080 tỷ đồng, tăng 691,86% so với 5 năm 2001-2005.
2./ Mô hình tổ chức quản lý:
a. Cơ cấu tổ chức quản lý khi mới thành lập:
Theo quyết định 178/TC-HC ngày 29/1/1975 cơ cấu tổ chức của nhà máy tổ
chức quản lý của Công ty được tổ chức theo nguyên tắc "Một thủ trưởng".

Giám đốc Công ty chịu trách nhiệm lớn nhất về kết quả sản xuất kinh doanh
trước Nhà nước và người lao động. Hệ thống tổ chức quản lý theo kiểu trực
tuyến - Người lãnh đạo tổ chức được sự giúp đỡ của những người lãnh đạo
chức năng để ra các quyết định.
Tổng giám đốc là người toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất
về mọi mặt công tác. Do vậy, đảm bảo sự chỉ huy tập trung thống nhất đồng
NGUYỄN VĂN TUÂN

21

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

thời sử dụng tốt các chuyên gia về mặt quản lý. Cơ cấu tổ chức như vậy là
phù hợp với đặc điểm sản xuất của Công ty.
b. Cơ cấu tổ chức quản lý hiện nay:
Trong quá trình phát triển của Công ty, cơ cấu tổ chức quản lý luôn luôn được
điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của việc tổ chức sản xuất, theo từng giai đoạn
phát triển chung. Hiện nay cơ cấu tổ chức quản lý Công ty theo mô hình trực
tuyến - chức năng với cấp quản lý cao nhất là Tổng giám đốc. Giúp việc cho
Giám đốc có các phó Tổng giám đốc. Các phó Tổng giám đốc giúp giám đốc
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và
thay thế điều hành hoạt động Công ty khi Tổng giám đốc đi vắng. Các phòng
ban tham mưu, các nhà máy, xưởng, phân xưởng trực thuộc Công ty thuộc
cùng cấp quản lý. Dưới các nhà máy, xưởng có khối phòng ban nghiệp vụ và
các phân xưởng trực thuộc cùng cấp.

II./ THỰC TRẠNG NHÂN CÁCH CÁN BỘ QUẢN LÝ VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN, KẾT
QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở CÔNG TY PHÂN ĐẠM VÀ
HÓA CHẤT HÀ BẮC HIỆN NAY.

1. Thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên của Công ty
Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc hiện có tổng số 1.946 cán bộ, công nhân
viên chức; số lượng đảng viên 718 đ/c chiếm 36,89%, dân tộc ít người 8 người
chiếm 0,41%, nữ 140 người chiếm 7,19%. Đội ngũ cán bộ chủ yếu là cán bộ kỹ
thuật các ngành hóa, điện, cơ khí chiếm trên 78% cán bộ toàn Công ty.
Số cán bộ và CNVC có trình độ đại học, trên đại học là 371 người, trong đó nữ là
82 người bằng 22%; trình độ LLCT cao cấp 14 người, trung cấp 135 người.
Cán bộ quản lý đương chức là thủ trưởng, phó đơn vị trực thuộc trở lên: 83 người;
trong đó 07 cán bộ nữ chiếm 8,4%, dân tộc 01 cán bộ chiếm 1,2%.
Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên trách đảng, đoàn thể là 18 người, trong đó 03
nữ, 100% có trình độ đại học, 50% có trình độ cao cấp lý luận chính trị.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Công ty 100% có bằng Đại học chuyên môn chính
quy, 100% có trình độ lý luận chính trị cao cấp.
Đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ quản lý lãnh đạo nói riêng đều có phẩm chất
chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, có tinh thần đoàn kết,
phát huy được dân chủ trong đơn vị, đảm bảo trình độ chuyên môn kỹ thuật và có
năng lực điều hành quản lý. Đặc biệt cán bộ chủ chốt đã thể hiện được vai trò lãnh

NGUYỄN VĂN TUÂN

22

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG


TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

đạo của mình trong quản lý, sử dụng con người việc thực hiện công tác cán bộ,
xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.
2./ Kết quả thực hiện công tác cán bộ quản lý ở Công ty Phân đạm và
Hóa chất Hà Bắc.
2.1. Công tác xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn cán bộ quản lý
Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung được nêu trong Nghị quyết Trung ương 3
khoá VIII và các văn bản của Trung ương của Tỉnh, căn cứ vào tình hình thực tế
của Công ty; Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã xây dựng quy định về tiêu
chuẩn đối với từng đối tượng, chức danh cán bộ như: tiêu chuẩn các chức danh
chủ chốt cấp Công ty, trưởng phó đơn vị trực thuộc, chức danh Trưởng ca Công
ty, chức danh trưởng ca các xưởng... trên các mặt: phẩm chất chính trị; đạo đức,
lối sống; trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin
học; năng lực trí tuệ; khả năng đoàn kết, tập hợp quần chúng; lề lối, tác phong,
phương pháp làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và sức khoẻ của cán bộ đảm bảo các
tiêu chuẩn theo quy định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) và đảm bảo
tiêu chuẩn riêng đối với từng chức vụ, cương vị công tác với đặc thù doanh nghiệp
SXKD.
Thông qua quy định tiêu chuẩn từng loại cán bộ, chất lượng cán bộ ngày càng
được nâng cao, cán bộ luôn tu dưỡng rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo đức, có
lối sống trung thực, lành mạnh, trau dồi học tập, phát huy được năng lực đáp ứng
ngày càng cao yêu cầu sản xuất của Công ty.
2.2 Kết quả công tác nhận xét, đánh giá cán bộ quản lý
Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã ban hành các văn bản hướng dẫn đánh giá
cán bộ hàng năm và hướng dẫn đánh giá cán bộ đảm nhiệm chức vụ trước khi hết
nhiệm kỳ, trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, trước khi thực hiện quy hoạch,
kiểm điểm đánh giá cán bộ cuối năm....
Nội dung đánh giá: về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; về phẩm chất

chính trị; về phẩm chất đạo đức, lối sống; về chiều hướng và khả năng phát triển.
Phương pháp đánh giá: cá nhân làm bản kiểm điểm, tự đánh giá; cấp uỷ nơi công
tác và cấp uỷ nơi cư trú nhận xét, đánh giá; tổ chức hội nghị thảo luận, bỏ phiếu
đánh giá; Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty thảo luận, bỏ phiếu đánh giá, kết luận.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ quản lý từ khi có Nghị quyết đến nay được
đảm bảo được chất lượng cán bộ, cán bộ luôn có ý thức vươn lên về mọi mặt,
gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
NGUYỄN VĂN TUÂN

23

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ cơ bản đảm bảo đúng thực chất đội ngũ cán
bộ, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ,
người cán bộ luôn gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, với vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của mình với tập thể.
2.3 Kết quả thực hiện công tác quy hoạch cán bộ quản lý
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII, công tác quy hoạch cán bộ được
triển khai từ cấp Công ty đến cấp cơ sở. Nhưng quy hoạch cán bộ ở cấp cơ sở còn
bó hẹp trong phạm vi cán bộ đơn vị và không được điều chỉnh bổ sung thường
xuyên. Chính vì vậy chất lượng quy hoạch không cao, ảnh hưởng đến công tác
đào tạo, bổ nhiệm, sắp xếp, điều động cán bộ.
Từ khi có Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 05-KH/TU
của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, công tác quy hoạch thực sự được quan tâm chú

trọng. Đảng uỷ Công ty đã xây dựng Kế hoạch số 09-KH/ĐU ngy 22/6/2006 về
công tác quy hoạch cán bộ trong Công ty, đã mở Hội nghị cán bộ nghiên cứu quán
triệt thực hiện Nghị quyết tới 167 cán bộ chủ chốt từ cơ sở ngày 27/6/2006. Chỉ
đạo 100% các chi đảng bộ, các đơn vị, đoàn thể tổ chức triển khai quán triệt và
thực hiện.
- Kết quả quy hoạch A1: Ban chấp hành Đảng bộ Công ty khoá XIV nhiệm kỳ
(2010-2015), gồm 32 đồng chí; Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty gồm 11 đồng
chí; Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ; Giám đốc, phó giám đốc; kế toán trưởng; Chủ
tịch, phó Chủ tịch Công đoàn; Bí thư, phó bí thư Đoàn TN; Chủ tịch, phó Chủ tịch
Hội CCB Công ty bao gồm: 18 đồng chí cấp trưởng và 19 đồng chí cấp phó;
Trưởng, phó các ban Đảng Công ty gồm: 20 đồng chí; cán bộ quản lý 28 đơn vị
trực thuộc gồm: 78 đồng chí cấp trưởng và 113 đồng chí cấp phó.
- Kết quả rà soát bổ sung quy hoạch A1, xây dựng quy hoạch A2 năm 2010; số
lượng và chất lượng cán bộ quy hoạch A2 tăng so quy hoạch A1, đảm bảo yêu cầu
về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ. Với tổng số 91 chức danh và 291 lượt
người, gồm: BCH, BTV Đảng uỷ Công ty; trưởng, phó các ban Đảng; Bí thư, Phó
Bí thư Đảng uỷ; Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc; Trưởng, phó các đoàn thể
Công ty; trưởng phó 28 đơn vị trực trực thuộc.
Trong đa số các chức danh cán bộ quy hoạch 3 người; một số chức danh quy
hoạch 2 người hoặc 4 người, trình độ chuyên môn đại học đạt 99,2%; trình độ lý
luận chính trị cao cấp, trung cấp tăng, tỷ lệ tuổi trẻ tăng so quy hoạch A1.
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, Công ty đã chủ động trong công tác đào tạo, bồi

NGUYỄN VĂN TUÂN

24

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC



TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, sắp xếp, bố trí cán bộ, góp phần làm cho công tác
cán bộ ở Công ty đi vào nề nếp, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài.
2.4 Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh và cải tạo mở rộng nhà máy, Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công ty xây dựng kế hoạch, mở các lớp đào tạo bồi dưỡng
cán bộ theo từng giai đoạn trên các lĩnh vực: chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật
công nghệ, lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quản lý điều hành, ngoại ngữ, tin
học, đào tạo bồi dưỡng trong nước và học tập nước ngoài… Đặc biệt chú trọng
đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nghệ phục vụ dây chuyền sản xuất của Công ty.
Phối hợp với các Trường đại học Bách Khoa, Đại học khoa học tự nhiên Hà Nội
đào tạo hàng trăm cán bộ chuyên ngành…; phối hợp với Viện nghiên cứu chiến
lược-Bộ Công nghiệp thường xuyên mở các lớp nâng cao năng lực điều hành,
quản lý cho cán bộ chủ chốt; phối hợp với các Trường, các Trung tâm đo tạo mở
các khoá đào tạo, bồi dưỡng cập nhập các kiến thức mới trong nước và quốc tế,
mở các lớp ngoại ngữ, tin học…
Kết quả công tác đo tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng được nâng cao chất lượng.
Từ năm 1998 đến nay đã đào tạo được 02 thạc sĩ, 10 cán bộ Cao cấp lý luận chính
trị và hàng trăm cán bộ đã hoàn thành chương trình đại học; phối hợp Trường
Chính trị tỉnh mở 02 lớp trung cấp LLCT cho 114 cán bộ lãnh đạo đương chức và
dự nguồn; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho 103 cán bộ, quản lý nhà
nước cho 68 cán bộ, nghiệp vụ cho 844 lượt cán bộ, ngoại ngữ cho 172 lượt cán
bộ ...
2.5 Về quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ
Công tác quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ được cấp uỷ quan tâm, cán bộ được bố
trí công việc phù hợp với năng lực và trình độ của từng người.
Từ năm 1998 đến nay đã bổ nhiệm 196 chức danh trưởng, phó phòng, đơn vị trực

thuộc. Trong đó quan tâm đến cán bộ trẻ, từ năm 2006- 6/2010, trong số 34 cán bộ
được bổ nhiệm, tỷ lệ cán bộ trẻ chiếm 70,6%, qua thực tiễn đội ngũ cán bộ trẻ đã
thực sự phát huy được năng lực. Cán bộ nữ được lãnh đạo Công ty chú trọng,
trong tổng số 83 cán bộ quản lý từ trưởng phó phòng đơn vị trở lên, tỷ lệ nữ chiếm
7,4%.
Công tác khen thưởng được quan tâm, 10 năm qua 827 lượt cán bộ đảng viên
được Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty khen thưởng; gần 1165 lượt cán bộ,
CNVC đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua; nhiều cán bộ được cấp trên khen thưởng: 05
NGUYỄN VĂN TUÂN

25

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


×