Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 45 tuổi trong trường Mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 21 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 45 tuổi trong trường Mầm non
 
  Đọc bài   Lưu
Kỹ năng sống là gì? Đã bao giờ bạn tự hỏi mình câu hỏi này chưa? Đã bao giờ bạn thấy tự tin trước cuộc
sống với những kỹ năng mà bạn có được chưa? Khi bạn lưỡng lự trả lời những câu hỏi này thì cũng có
nghĩa là bạn đang nghi ngờ vào những kỹ năng mà bạn đang có. Kỹ năng sống cần thiết cho tất cả mọi
người. Muốn có được kỹ năng sống thì phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài và nó được bắt đầu ngay
từ lứa tuổi mầm non - lứa tuổi mà được xem như tờ giấy trắng.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kỹ năng sống là gì? Đã bao giờ bạn tự hỏi mình câu hỏi này chưa? Đã bao giờ bạn thấy tự tin trước cuộc sống
với những kỹ năng mà bạn có được chưa? Khi bạn lưỡng lự trả lời những câu hỏi này thì cũng có nghĩa là bạn đang
nghi ngờ vào những kỹ năng mà bạn đang có. Kỹ năng sống cần thiết cho tất cả mọi người. Muốn có được kỹ năng
sống thì phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài và nó được bắt đầu ngay từ lứa tuổi mầm non - lứa tuổi mà được
xem như tờ giấy trắng.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ
những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những
khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
Đảng và nhà nước cũng đã khẳng định bậc học mầm non là bậc học và là nền tảng đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ 0 – 6 tuổi giúp trẻ phát triển toàn
diện về 5 lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu
tiên của nhân cách và chuẩn bị những tâm thế tốt nhất cho trẻ trước khi bước vào trường học phổ thông; hình thành và
phát triển cho trẻ những chức năng tâm lý, năng lực phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết, phù
hợp với lứa tuổi, khơi dạy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo
và cho việc học suốt đời.
Nếu không làm tốt việc chăm sóc- giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục trẻ của những năm sau sẽ gặp
khó khăn và phức tạp hơn. Chính vì vậy, việc đưa Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động giáo dục trong
trường mầm non cũng là một nội dung không những cần mà còn rất quan trọng đối với trẻ lứa tuổi mầm non trong giai đoạn
hiện nay.
Trong năm học 2015-2016, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ trách lớp Mẫu giáo 4-5 tuổi B. Đây là
lứa tuổi trẻ bắt đầu nhận thức, phân biệt được những hành vi đúng sai, biết được những gì mình nên hay không nên,
thậm chí bước đầu trẻ còn biết tự giải quyết được một số tình huống do cô tạo ra trong các hoạt động. Vì thế , tôi đã


chọn đề tài “ Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi”.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Con người khi đã có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có kỹ năng sống và biết sử dụng linh hoạt kỹ năng
này thì không đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với mọi
người. Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yê cầu và thách thức trong cuộc
sống hàng ngày.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự
kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì vậy, việc đi sâu lồng
ghép dạy kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với lứa tuổi nhất là lứa tuổi mầm non là rất cần thiết.
Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” đã được Bộ giáo dục và đào tạo phát động từ năm
học 2008 – 2009 và đã được các trường trong cả nước thực hiện trong suốt 8 năm qua. Với yêu cầu tăng cường sự
tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ
tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Nội dung rèn kỹ năng sống cho học sinh chính là một trong năm nội dung của
phong trào này.


Nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít được
quan tâm chú ý tới và ít người biết được rằng: Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh
của con người. Vì thế, trẻ cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa ăn uống.
Đối với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung
trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến
lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều
cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống
cơ bản ở trường mầm non.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi:
Trường Mầm non Song Khê được công nhận trường chuẩn Quốc gia từ năm 2008, trường khang trang rộng rãi là môi
trường lý tưởng cho mọi hoạt động của cô và trẻ.

Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, sát sao với công tác chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất,
các phương tiện dạy học.
Đội ngũ giáo viên trong trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, có tinh thần đoàn kết cao, nhiệt tình, tâm huyết
với nghề.
Hàng năm, bản thân tôi cũng được nhà trường tạo điều kiện tham gia học tập chuyên môn, chuyên đề do Phòng giáo
dục đào tạo Thành phố Bắc Giang tổ chức.
Trẻ của lớp tôi tương đối ngoan, có nề nếp trong các hoạt động, mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá. Mặt khác
đa số trẻ đã được học qua lớp nhà trẻ và 3 tuổi nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định.
Phụ huynh của lớp tôi luôn quan tâm, chia sẻ và ủng hộ nhiệt tình trong các hoạt động của lớp.
2.2.2. Khó khăn:
Song Khê là một xã nông thôn, nền kinh tế còn chưa phát triển nên công việc đầu tư trang thiết bị dạy và
học trong trường mầm non còn gặp nhiều khó khăn.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ thường có tư tưởng nóng vội trong việc dạy con. Do đó, khi thấy trẻ về nhà mà chưa biết đọc,
viết chữ hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá, đồng thời lại chiều chuộng con cái khiến trẻ không có ý thức
tự phục vụ, bướng bỉnh, ỷ lại và hay làm nũng. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc dạy kỹ năng sống cho con em
mình, cũng chưa hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Một số trẻ có thói quen tự do, hay nói leo, trả lời chống không, ra vào lớp tự nhiên, không xin phép, chưa biết tự xúc
cơm ăn, trong khi ăn uống còn đùa nghịch, nói chuyện….Một số trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có được thói quen
nề nếp ở trường.
* Qua khảo sát đầu năm, tôi nhận được kết quả như sau:

 

Nội dung giáo dục lễ giáo

Kết quả

Trẻ mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin thể hiện mình

17/28 = 60,7%


Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép

19/28 = 67,8%

Trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh trong ăn uống

18/28 = 64%

Trẻ biết nhường nhịn,chia sẻ, hợp tác giúp đỡ bạn

18/28 = 64%

Trẻ biết cất dọn, sắp xếp đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định

19/28 = 67,8%

Trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường

19/28 = 67,8%


2.3. Biện pháp thực hiện
Trước những khó khăn như vậy, tôi cảm thấy rất băn khoăn và suy nghĩ xem phải dạy trẻ như thế nào, bằng cách nào
để tất cả trẻ lớp tôi tự tin, có được những hành vi lành mạnh , và biết cách ứng xử với mọi người xung quanh
mình. Từ những suy nghĩ đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm giải quyết vấn đề trên như sau:
2.3.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 4 -5 tuổi và xác định nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Để bắt đầu với đề tài này, tôi đã xác định được công việc trước tiên cần phải làm đó là tìm hiểu về đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ 4-5 tuổi để từ đó có được cơ sở cho việc đưa ra các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp

nhất.
Trẻ 4-5 tuổi ngày càng ý thức mình là một thành viên trong tập thể, trẻ rất dễ dàng sử dụng vốn từ vựng để khen,
chê hay “chỉnh” những đứa trẻ khác nhằm hướng sự chú ý của người khác vào chúng và thuyết phục các bạn cùng
chơi khác chấp nhận ý tưởng mà chúng đưa ra.
Trẻ rất thích chơi với trẻ khác, có thể dọa dẫm để dành lại một đứa bạn hoặc để được tham gia vào một nhóm bạn. Vậy
nên, đôi khi ta có thể nghe thấy chúng nói với nhau “mình là bạn nhé” hoặc “mình không chơi với bạn đâu”
Trẻ 4-5 tuổi cần nhiều không gian để chơi vì trò nào chúng cũng có thể chơi được, chúng có thể tranh dành đồ chơi thậm
chí còn đánh đấm nhau để dành được đồ chơi.
Trẻ thích được khám phá những điều mới lạ. Chúng tin vào những gì chúng nhìn thấy, nghe thấy và chạm vào. Ở tuổi
này trẻ cũng rất tò mò và hay đặt câu hỏi “Tại sao?”
Từ việc tìm hiểu và nắm được các đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ đã giúp tôi xây dựng nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ được dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn.
Mục đích của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được
những điều nên làm và không nên làm. Từ đây, chúng ta xác định được những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ 4-5 tuổi bao gồm:
- Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Học cách có được những mối liên
kết mật thiết với các bạn khác trong lớp, biết chia sẻ, chăm sóc, lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình
trong nhóm bạn.
- Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới.
- Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình truốc đám đông, biết mình đang học lớp nào? Cô nào?Thích cái gì? Địa
chỉ nhà mình ở đâu?
- Nhận biết được các ưu điểm cũng như khuyết điểm của bản thân mình
- Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. Học cách lắng nghe mọi người và đối đáp.
- Nhận biết được hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng.
2.3.2. Biện pháp 2: Xây dựng nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi:
* Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống hợp tác:
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công
việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các
bạn.
* Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống tự tin :

Một trong những kỹ năng quan trọng mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là
giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống
này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
* Giáo dục cho trẻ tính tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu:
Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử
dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán
trước được.


 
* Giáo dục cho trẻ kỹ năng giao tiếp:
Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận
được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ.
Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm
thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận
những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ các nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao
động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát,
chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung
quanh.
2.3.3. Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động cụ thể
hàng ngày
Từ việc tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, xác định và xây dựng nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi tiến
hành thực hiện đưa các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động cụ thể như sau :
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ đích
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua các hoạt động vui chơi
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc tạo tình huống cụ thể

- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi
a, Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ đích:
* Mục đích:
Trẻ ở lứa tuổi này, học mà chơi, chơi mà học. Trẻ dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh quên nên việc lồng nội dung giáo
dục kỹ năng sống vào hoạt động học chiếm nhiều ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn
hoá.
Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần
phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục
trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một
số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ.
Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào
việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
* Cách thực hiện:
Thông qua hoạt động học, trẻ có cơ hội chia sẻ với các bạn thông qua hoạt động nhóm. Mặt khác, trẻ cũng tự tin, mạnh
dạn khi thể hiện khả năng của mình cũng như giới thiệu về bản thân, gia đình mình ....trước cô giáo và các bạn trong lớp.
Ví dụ 1: Khi tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc thông qua trò chơi âm nhạc “Hát theo tranh” cô yêu cầu trẻ chơi theo 3 đội,
khi cô đưa ra bức tranh trẻ sẽ phải cùng nhau thảo luận để tìm ra bài hát phù hợp với nội dung trong bức tranh của cô và cả đội
sẽ cùng hát bài hát đó. Như vậy, ta thấy trẻ đã biết cách hoạt động theo nhóm, có tinh thần hợp tác với nhau và cùng nhau tìm
ra đáp án về bài hát, cùng nhau hát lại bài hát. Thông qua hoạt động này, ta thấy chỉ qua một trò chơi trong hoạt động giáo dục
âm nhạc nhưng trẻ vừa được hoạt động nhóm, vừa có được sự mạnh dạn tự tin biểu diễn hát cùng nhau.
Ví dụ 2: Hoạt động khám phá: Tôi là ai? ( chủ đề Bản thân)
Khi tổ chức tiết học này, tôi yêu cầu từng trẻ tự lên giới thiệu về tên, tuổi, giới tính, học lớp nào, trường nào, cô giáo
nào, sở thích của mình.Tôi nhận thấy, trẻ rất hào hứng lên giới thiệu. Những trẻ mạnh dạn đã nói được đầy đủ những
thông tin tôi đưa ra. Nhưng đáng mừng hơn là có những trẻ rất nhút nhát, thiếu tự tin nhưng cũng vẫn có thể đứng
dậy và giới thiệu được 1 vài thông tin của mình. Điều đó chứng tỏ rằng, nếu như chúng ta không gọi đến những trẻ nhút nhát
thì có lẽ những trẻ đó sẽ chẳng bao giờ dám làm một việc gì trước đám đông cả, và sẽ chẳng bao giờ trẻ tự tin lên được.


Hình ảnh: Trẻ tự giới thiệu về bản thân


 
Ví dụ 3: Hoạt động khám phá: Gia đình của bé.
Trước khi thực hiện tiết học này, tôi đã nhờ phụ huynh ủng hộ những bức ảnh chụp cả gia đình mình. Khi vào tiết học, tôi
cho cả lớp xem tất cả những bức ảnh đó -> trẻ rất hào hứng, phấn khởi khi những bức ảnh của nhà mình được cô giáo
đưa ra trưng bày.Sau đó tôi cho trẻ kể về gia đình minh bằng những bức hình đó.Tôi nhận thấy những trẻ lên kể rất vui vẻ,
rất tự hào khi kể cho cô giáo và các bạn nghe về những thành viên trong gia đình mình, và kỷ niệm gắn với bức ảnh đó.
b, Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua các hoạt động vui chơi
* Mục đích: Đối với trẻ mầm non, hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường. Thông
qua giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong
cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat động vui chơi.
Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan
sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ đã có. Thông qua hoạt động vui chơi trẻ được trải nghiệm
nhiều vai chơi khác nhau trong cuộc sống từ đó biết cách ứng xử với mọi người xung quanh.
* Cách thực hiện:
Qua các góc chơi như: góc chơi xây dựng, góc phân vai, góc chơi vận động, góc nghệ thuật ….Cô giáo luôn là người
bạn chơi cùng trẻ để hướng dẫn trẻ giao lưu với nhau trong từng góc, từng nhóm. Cô giáo gợi ý, hướng dẫn trẻ cách
chơi, cách xưng hô khi chơi. Cô chơi với trẻ như người bạn thật sự của trẻ để cho trẻ học cách ứng xử với nhau khi
chơi, biết đối đáp với nhau trong quá trình chơi.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai với trò chơi nấu ăn- gia đình:
Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn
gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn,
không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu … tất cả những yếu tố
trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Trong hoạt động vui chơi không thể thiếu được các trò chơi dân gian, trò chơi dân gian thường được lồng ghép
trong quá trình hoạt động của trẻ.
Trẻ được tiếp cận và trực tiếp tham gia chơi các trò chơi dân gian sẽ giúp cho trẻ sớm hình thành các thói quen hoạt
động có hệ thống, tính tập thể giúp trẻ tự tin, linh hoạt hơn trong mọi hoạt động cũng như sự phát triển sau này của
trẻ. Thông qua trò chơi dân gian, trẻ sẽ phát triển được các giác quan, phát triển trí nhớ, phát triển tư duy, trí tưởng
tượng, ngôn ngữ.

Trò chơi trí tuệ còn được gọi là trò chơi học tập, nhằm thúc đẩy hoạt động trí tuệ, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh thông
qua các thao tác trí óc kết hợp với hành động chơi như: Ô ăn quan, Cờ vua, Cờ tướng....


Trò chơi vui - khỏe - khéo léo là những trò chơi dân gian tổng hợp vì mỗi trò chơi kết hợp nhiều kỹ năng vận động
thể lực. Mục đích của các trò chơi loại này nhằm phát huy tính tích cực chủ động của trẻ, giúp trẻ mở rộng các mối
quan hệ như : Hái quả - chui vào hang bắt chuột đồng hoặc chuột túi nhảy qua rãnh nước - tới đích lấy cờ. Tất cả
các trò chơi là phương tiện giáo dục thể lực một cách tích cực và thoải mái, giúp trẻ hoàn thiện sức khỏe, hoàn
thiện các vận động như chạy, nhảy, đứng lên, ngồi xuống, hình thành và phát triển các tố chất của thể lực (nhanh
nhẹn, khéo léo) và những phẩm chất nhân cách như tính kỉ luật, tính tập thể; như trò chơi: Kéo co, rồng rắn lên
mây…

 
Hình ảnh: Trẻ tham gia chơi trò chơi kéo co

 
 
* Hiệu quả:
Qua hoạt động vui chơi trẻ mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp, trong ứng xử đối với mọi người xung
quanh. Từ đây trẻ cũng biết nói và trả lời đầy đủ câu từ, biết xưng hô chuẩn mực.
Trò chơi dân gian mang tính tập thể cao. Vì vậy, giáo viên cần chú ý giáo dục và rèn luyện cho trẻ biết phối hợp nhịp
nhàng, ăn ý với nhau khi tham gia chơi thì mới đạt được kết quả mong đợi.
c, Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc tạo tình huống cụ thể:
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an toàn và cách phòng tránh thì giáo viên
thường giáo dục trẻ với những lời dặn dò nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có
nội dung giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài thơ, câu chuyện có nội dung đó.
Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn những tình huống bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình
huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết .
Ví dụ: với chủ điểm “Bản thân”. Trước đây, thông qua câu chuyện “Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt
con” chúng tôi chỉ dùng lời giáo dục trẻ: “Khi đi công viên hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không

được chạy lung tung để khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may xảy ra sẽ phải xử lý như thế nào.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả. Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng
quên. Và điều cốt yếu trẻ không hiểu cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì phải làm thế nào.
Do đó bây giờ ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều, tôi đã đưa ra tình huống “Khi bé bị lạc mẹ trong siêu
thị - bé sẽ làm gì ?”


Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng mình. Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ
và trả lời theo ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm như vậy có được không? Tại sao?
Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất :
Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại
chỗ đó để tìm bé. Hoặc bé có thể đến chỗ chú bảo vệ, cô bán hàng trong siêu thị ở gần chỗ đó để nhờ gọi điện
thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố
mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm
hại. Tôi đã đưa ra những tình huống để dạy trẻ như : “ Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm
như thế nào?
Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được cho quà và sẽ không biết tại sao không
được nhận.
Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Tôi
phân tích , giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ
xấu.
Khi gặp trường hợp này bé nên nói:“Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ ạ”.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ
còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi
đã đưa tình huống :“ Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?”
Qua tình huống này tôi dạy trẻ :
Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy, Hãy hét to để báo với người nhà và những
người xung quang có thể nghe thấy. Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm.

Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng
vốn hiểu biết của mình đã có để tìm cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất,
đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ . Thông qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy logic, biết cách
diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
d, Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
Giờ đón trẻ hoặc trả trẻ: tôi rất ân cần và chuẩn mực trong xưng hô với bố mẹ trẻ. Tôi tập cho trẻ khi đến lớp chào cô
như thế nào, sau đó chào bố mẹ và người thân để vào lớp học.
Giờ hoạt động ngoài trời: Cô luôn nhắc nhở trẻ khi ra sân trường chơi phải đi theo hàng, bạn nọ nối duôi theo bạn
kia, không đẩy bạn để bạn ngã…..Nếu trẻ làm gì sai với bạn, với cô thì phải biết xin lỗi cô, xin lỗi bạn. Khi đi chơi gặp
các bác, các cô làm việc trong trường phải biết chào hỏi lễ phép. Ai cho gì phải biết nhận bằng hai tay và nói cảm ơn.
Ví dụ: Khi quan sát cây nhãn, cô hỏi trẻ:
+ Muốn cây cho nhiều quả nhãn thì chúng ta phải làm gì?
+ Khi ăn quả nhãn, chúng mình phải nhớ ơn ai?
-> Giáo dục trẻ kính trọng, yêu quý người lao động. Đồng thời giáo dục trẻ thói quen vệ sinh trong ăn uống như : ăn từ
tốn, không vứt vỏ, bỏ hạt bừa bãi….
Giờ ăn cơm: Ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao
động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát,
thìa … hoặc biết giúp cô giáo dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Giờ hoạt động chiều: Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ
hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ qua các
truyện bằng tranh, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.


Ví dụ: Khi kể chuyện “ Tích Chu” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi bà bị ốm, con sẽ làm gì? Và
khi bà hóa thành chim thì con sẽ làm như thế nào để giúp bà? gợi mở tính tò mò thay đổi tình huống của truyện, đặt
tên khác cho câu chuyện v,v….
Hoạt động khác: tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày hội lễ như Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, Lễ noel, quốc
Tế Phụ nữ 8/3, sinh nhật bé…

2.3.4.Biện pháp 4: Tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
- Xây dựng cảnh quan sư phạm trong lớp học:
Cùng với toàn ngành thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, việc tạo cảnh quan sư phạm
trong lớp học cũng là một tiêu chí trong phong trào này. Tôi luôn chú ý tạo cảnh quan sư phạm trong lớp học, đồ dùng đồ chơi
được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp, từng góc riêng biệt. Mỗi góc tôi đều làm mới để hấp dẫn trẻ, tạo cảm giác thích thú, luôn
mong muốn được sắp xếp ngăn nắp. Đặc biệt là góc thiên nhiên được trang trí và trồng nhiều cây cảnh để tạo cho trẻ một
không gian xanh, để mỗi ngày trẻ có thể tự mình chăm sóc cây xanh, giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp. Qua hoạt động này kích
thích trẻ yêu lao động, hình thành thói quen lao động ở trẻ và tạo tình cảm của trẻ với thế giới thiên nhiên, gần gũi với
thiên nhiên, cây cối xung quanh mình.
- Để tạo cảnh quan sân trường, tôi thường tổ chức hoạt động lao động, chăm sóc vườn cây ở góc thiên nhiên,
vườn rau sạch của bé: cho trẻ nhặt lá cây, nhổ cỏ, tưới nước…..để tạo môi trường xanh - sạch - đẹp

 
Hình ảnh: Bé chăm sóc vườn rau sạch

 
- Xây dựng góc dân gian trong lớp để hàng ngày trẻ được tiếp cận với các trò chơi dân gian


 
Hình ảnh: Góc chơi dân gian dành cho trẻ
- Đối với giá góc đồ chơi, cuối tuần tôi thường tổ chức cho trẻ thi đua lau dọn, sắp xếp đồ chơi gọn gàng. Nhờ vậy,
qua mỗi lần tổ chức hoạt động vui chơi, trẻ chơi xong biết thu dọn đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp.

Hình ảnh: Trẻ lau dọn đồ dùng đồ chơi


 
- Trang trí các mảng tường có nội dung Giáo dục kỹ năng sống như:
+ Treo hình ảnh các bước rửa tay đúng cách ngay ở dưới vòi nước rửa tay của trẻ.


Hình ảnh: Mảng tường giáo dục rửa tay đúng cách

+ Trong phòng vệ sinh, trang trí các hình ảnh minh họa hành động giáo dục trẻ như: xếp hàng để rửa tay, để rác đúng
nơi quy định.….

Hình ảnh: minh họa hành động giáo dục
- Góc tuyên truyền ở lớp: Tôi sưu tầm các bài tuyên truyền giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trên mạng hay trên báo để
dán ở góc tuyên truyền dành cho cha mẹ trẻ để Phụ huynh khi đưa đón trẻ đến lớp có thể đọc.
2.3.5. Biện pháp 5: Phối hợp phụ huynh giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
* Mục đích:


- Để phụ huynh tham gia tốt hơn vào các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả.
- Trẻ được rèn luyện ở trường và ở nhà.
* Cách thực hiện:
- Trong buổi họp đầu năm, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống đối
với trẻ. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập, nước ta tiếp nhận nhiều nền văn hóa và trò chơi giải trí đã ảnh hưởng một
phần không nhỏ về hành vi văn minh của trẻ. Trẻ có thể đối xử thô bạo với bạn sau một đoạn phim hành động, hay trẻ
có những lời nói không nên đối với bố mẹ khi bố mẹ không đồng ý cho trẻ làm một việc gì đó theo ý trẻ.
Thông qua buổi họp phụ huynh, tôi phổ biến và tuyên truyền cách nuôi dạy con như thế nào cho khoa học
và cách giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ lúc ở nhà.
- Phụ huynh phải là tấm gương sáng cho con về giáo dục kỹ năng sống. Ở nhà, bố mẹ phải mẫu mực trong giao tiếp,
ứng xử, xưng hô để con học noi theo. Đồng thời, phụ huynh phải chú ý sửa sai cho trẻ kịp thời khi thấy trẻ ứng xử
chưa đúng với bạn hay với người lớn.
- Sưu tầm một số bài thơ, câu chuyện, bài tuyên truyền trên báo mạng dán ở góc tuyên truyền của lớp để phụ huynh
có thể đọc, tham khảo, sau đó về nhà giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
* Hiệu quả:
- Trẻ rất hứng thú nghe và nhớ được những tấm gương tốt, những bài học về kỹ năng sống của mỗi câu chuyện. Từ
đó, trẻ học theo. Qua những câu chuyện đó, kích thích trẻ cố gắng hơn, nỗ lực hơn như ý muốn. Thêm vào đó, được

cô động viên khen ngợi, trẻ sẽ thêm tự tin và hào hứng thực hiện tốt các yêu cầu của cô.
- Phụ huynh có được 1 số tài liệu tham khảo về cách dạy trẻ kỹ năng sống để kết hợp với cô giáo về nhà giáo dục
trẻ thêm.
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một năm nghiên cứu và áp dụng đề tài “Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi” tại lớp 4 tuổi
B trường Mầm non Song Khê cho thấy chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lớp tôi tăng lên rõ rệt. Điều đó làm
tôi càng thêm yêu nghề, yêu trẻ hơn.
* Với trẻ: trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, mạnh dạn, tự tin hơn,có những thói quen hành vi văn minh, phù hợp với lứa
tuổi như: biết chào hỏi khi có khách đến lớp, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè,
cô giáo, bước đầu trẻ nhận thức được việc làm nào nên, hay không nên, không nói tục, không đánh bạn, không tranh
giành đồ chơi với bạn, biết kính trọng cô giáo và người lớn….
* Với phụ huynh học sinh: Các bậc phụ huynh có chuyển biến rõ rệt về lời ăn tiếng nói, về phong cách và quan tâm
ngày càng nhiều đến con em mình.Đặc biệt, phụ huynh đã bước đầu để con tự làm những việc vừa sức như: tự đi
vào lớp, tự cất dép, cất ba lô vào ngăn tủ của mình…..
* Với giáo viên: Bản thân tôi được trau dồi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các môn học, các hoạt động, được
phụ huynh và các đồng nghiệp tin tưởng, quý mến.
* Kết quả khảo sát học sinh cuối năm:
Nội dung giáo dục lễ giáo

Kết quả

Trẻ mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin thể hiện mình

24/28 = 85,7%

Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép

25/28 = 89%

Trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh trong ăn uống


24/28 = 85,7%

Trẻ biết nhường nhịn,chia sẻ, hợp tác giúp đỡ bạn

26/28 = 92,8%

Trẻ biết cất dọn, sắp xếp đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định

24/28 = 85,7%


Trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường

26/28 = 92,8%

 
3. KẾT LUẬN
* Giá trị của sáng kiến kinh nghiệm:
Học tập không bao giờ là muộn, tuy nhiên việc cho trẻ học Kỹ năng sống thì không nên chờ hay trì hoãn. Cần khẳng định
việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kỹ năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức
độ đúng đắn trong việc chuẩn của người lớn đối với trẻ.
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó khẳng định được giá trị và ý nghĩa
thiết thực của đề tài .

 
* Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
- Ý nghĩa: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin,
chủ động xử lý linh hoạt các tình huống trong cuộc sống, trẻ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp,

thích nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo niềm vui, tự bảo mình, kỹ
năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự quyết một số tình huống phù hợp với lứa tuổi. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ trong trường mầm non có một ý nghĩa rất lớn trong sự hình thành con người của trẻ sau này.
- Phạm vi ứng dụng và triển vọng của đề tài: Với kết quả đạt được của lớp 4 – 5 tuổi B trường mầm non Song Khê
đã cho thấy tính khả thi của đề tài, tính hiệu quả của các giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ với bậc học mầm
non, đáp ứng được xu hướng đổi mới trong giáo dục mầm non, vì vậy tôi thấy những giải pháp nêu trên có thể phổ
biến tới toàn bộ lớp học trong trường mầm non Song Khê, trong thành phố, trong tỉnh nhằm thực hiện tốt việc giáo
dục toàn diện cho trẻ.
- Bài học kinh nghiệm: Qua việc nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi cũng tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm
sau:
Thứ nhất, để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi cần phải xác định được mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc hình thành các kỹ năng sống cho trẻ.
Thứ hai, giáo viên cần phải là người có kỹ năng sống tốt và luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
Thứ ba, người giáo viên phải có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, tích cực trau dồi, học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức
để nâng cao trình độ chuyên môn, làm phong phú vốn sống và vốn hiểu biết của mình về nhiều lĩnh vực và biết mềm dẻo vận
dụng vào thực tế, phải yêu nghề, mến trẻ, có sự quan tâm đến từng cá nhân trẻ.
Thứ tư, cần có mối liên hệ mật thiết giữa gia đình – nhà trường – xã hội cùng chung tay giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
* Ý kiến đề xuất:
Bộ giáo dục xuất bản các tư liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, bổ sung các tài liệu giáo trình giảng dạy
về kỹ năng sống cho trẻ mầm non đến giáo viên.
Phòng giáo dục đào tạo Thành phố cần tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn
nghiệp vụ đặc biệt là việc rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non
Ủy ban nhân dân tham mưu với các cấp lãnh đạo tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để giáo viên
có điều kiện tốt hơn giáo dục trẻ
Nhà trường thường xuyên tổ chức cho giáo viên tham dự các lớp bồi dưỡng về rèn kỹ năng sống cho trẻ do ngành
tổ chức
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ đã giúp tôi đạt được kết quả cao trong việc Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 45 tuổi. Tôi biết rằng những kinh nghiệm này của cá nhân tôi chưa phải hoàn thiện và khoa học nên tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của Ban Giám Hiệu nhà trường, Công đoàn, tổ chuyên môn và các bạn đồng nghiệp để giúp tôi giáo dục
trẻ được tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Giáo viên: Phùng Thị Thuần

 


Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh mầm non - Sáng kiến kinh nghiệm mẫu giáo.
Download.com.vn xin giới thiệu đến các bạn mẫu sáng kiến kinh
nghiệm: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mầm non được chúng
tôi sưu tầm và tổng hợp chính xác và mới nhất. Hy vọng đây là tài
liệu sẽ cung cấp thêm nhiều kiến thức về các biện pháp giáo dục và
nuôi dạy trẻ mầm non những kỹ năng sống cơ bản. Nếu không được
trang bị những kỹ năng sống cần thiết thì sau này các bé rất dễ bị lệch lạc về nhân
cách, lối sống cũng như bị lôi kéo vào nhiều hành vi sai trái, bạo lực, làm ảnh hưởng
đến chính các bé và xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và
chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình:
“Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ sau này.Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn
hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự
phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
Như chúng ta đã biết, đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường hội
nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Hiện nay, thế hệ trẻ thường
xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào
hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách
thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các

hành vi tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kĩ lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc
về nhân cách.
Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa của
dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần thiết nhất
trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay để
sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn.
Là một giáo viên mầm non, sau nhiều năm thực tế trãi nghiệm tôi quyết định trình bày
sáng kiến Kinh Nghiệm: “Một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non”
một vấn đề đang được quan tâm trong giáo dục Mầm non hiện nay.
* Vấn đề được nghiên cứu:
Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá
trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững,
có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình
trong cuộc sống.
Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát triến nhân
cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ nhận thức đúng và có hành vi
ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ.
* Thực trạng vấn đề:


Lâu nay, chúng ta thường quan niệm: Rèn dạy kỹ năng sống chủ yếu chỉ dành cho
người lớn. Nhưng đối với trẻ ở lứa tuổi tập nói, dạy lễ giáo đạo đức ban đầu cho các
cháu ở trường mầm non là rất quan trọng trong việc hình thành thói quen và nhân cách
của bé sau này.
Thực tế từ các trường cho thấy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thường được thực hiện
bằng cách cho trẻ xem tranh truyện, tổ chức hội thi: “Bé khỏe, bé ngoan” có giáo viên,
cha mẹ và trẻ cùng tham gia thi hoặc tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống để
khơi dậy lòng nhân ái trong trẻ, giúp trẻ có được những kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp
ứng xử. Tuy nhiên do tác động ngoại cảnh hay trẻ được nuông chiều và đáp ứng mọi
thứ theo yêu cầu nên có những biểu hiện không đúng trong lễ giáo với mọi người trong

gia đình và bạn bè, trẻ không có được kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng lãnh
đạo…
Theo nhận định của nhiều giáo viên, do lớp có số lượng trẻ quá đông, số giáo viên
trong một lớp cũng chưa đủ theo qui định nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ cho từng trẻ
cũng là vấn đề khó khăn. Điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo,
liên hệ thực tế cũng còn nhiều khuyết điểm nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp
kiến thức.
* Lí do chọn đề tài:
Câu nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do Giáo dục mà nên”.
Thật vậy: Nếu trẻ được sống trong một môi trường giáo dục tốt thì trẻ sẽ có những đức
tính tốt ngược lại trẻ sống trong một môi trường thiếu Giáo dục thì nhân cách của trẻ sẽ
phát triển không tốt.
Với những thực trạng mà tôi vừa nêu ở phần trên kết hợp với nhận định của bản thân
kỳ vọng của tôi trong năm học này là đẩy mạnh giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ mầm
non để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Giáo dục hiện nay.
* Giới hạn nghiên cứu:
Hành trình giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ “động tác” cung cấp kiến thức và hình
thành những cảm xúc, những hành vi lễ giáo của trẻ. Ví như với bản thân, trẻ biết tên
mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí
mến những người thân. Rồi biết thưa gửi, vâng dạ, không nói trống không, không nói
leo, biết xưng hô thân mật, biết đảm nhận trách nhiệm và biết lãnh đạo... Trẻ phải được
tiếp cận những kỹ năng cơ bản của lứa tuổi như kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng học
tập, kỹ năng tự phục vụ. Giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những
điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình
huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Câu thành ngữ :“Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã để lại đến
bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp văn hóa được đặt
lên hàng đầu khi đánh giá về một con người.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu

ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục
phải đào tạo ra những con người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận
hữu cơ của quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác
giáo dục trẻ.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:


Khi tìm hiểu thực trạng của trường, giáo viên và gia đình đã giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ, tôi nhận thấy yếu điểm xuất phát từ yếu tố kinh tế, xã hội, gia đình và nguyên nhân
chủ yếu là do các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong quản lí gia đình, ít gần gũi với
con cái hoặc nuông chiều trẻ quá mức gây tác động đến kỹ năng ứng xử của trẻ như:
Trẻ không biết chào hỏi khi khách đến nhà hoặc đi về nhà không thưa người lớn trong
gia đình…
Năm học này, tôi được phân công đứng lớp Lớn 2 Tam Hòa hầu hết các cháu là con
nông dân nên việc quan tâm đến con em còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó còn có các
cháu gia đình luôn nuông chiều thái quá. Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng
của giáo dục kỹ năng sống cho con em ở lứa tuổi Mẫu giáo, nên thường khoán trắng
cho giáo viên.
Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói leo, trả lời
không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...
Môi trường sống của trẻ ở gia đình và môi trường sống, học tập vui chơi của trẻ ở
trường là hai nơi mà trẻ luôn được tiếp cận.
Với tình hình như vậy, là Giáo viên Mầm non trăn trở với những thực trạng trên tôi
mạnh dạn đề xuất ra một số giải pháp thích hợp để từng trẻ lớp tôi có được những thói
quen và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhằm góp phần hình thành
nhân cách ban đầu cho trẻ, để trường học thực sự văn minh, thanh lịch.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học của ngành, tôi quyết tâm lấy mục tiêu giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ của năm

học này, để góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình hình thành nhân cách trẻ thơ
trong thời đại mới.
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ dạy đạo đức riêng, mà thông
qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để hướng trẻ tới
cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo.
1. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học:
Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những
thói quen, hành vi có văn hóa.
Ví dụ:
* Giờ học phát triển thể chất
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh,
trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau...
* Giờ học khám phá xã hội:
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi
- Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những việc
mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và chờ
đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
* Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi nhà của bé”
Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp
đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...
* Đối với giờ học làm quen văn học: Qua câu chuyện “Người bạn tốt”
Cô đàm thoại cùng trẻ:
Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?


Khi Linh gặp nạn thì Trang đã làm gì?
Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm ơn
chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.

* Đối với giờ học làm quen chữ cái: dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp
xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”
Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng
đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngôn từ có vần điệu,
những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu
trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát
huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin
trong cuộc sống.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết
hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ:

Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 3 đánh giá
1
2
3
4
5
Click để đánh giá bài viết

1.

Trang chủ
 

2.

 Tài nguyên

 

3.

 Tài nguyên

BÀI TIN LIÊN QUAN

Trò chơi âm nhạc
GIÁO ÁN LÀM QUEN CHỮ VIẾT


GIAO AN THỂ DỤC: CHUYỀN BẮT BÓNG QUA ĐẦU, QUA CHÂN
SKKN“ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt
động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”
GIÁO ÁN THỂ DỤC: BẬT CHỤM TÁCH CHÂN VÀO 5 Ô
Truyện:"Sự tích Hồ Gươm"



VĂN BẢN PHÒNG GD&ĐT
  Số  
: số 129­GDĐT



Tên: (CV số 129-GDĐT- V.v đánh giá, phân loại CB, GV, NV năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (29/03/2019)
  Số  
: CV 5942 BGDĐT­QLCL




Tên: (CV 5942 HD tư đánh gia và đánh gia ngoài trường Mầm Non)
Ngày ban hành: (10/03/2019)
  Số  
: Số 03/KH­GDĐT



Tên: (KH số 03.KH chỉ đạo và thực hiện công tác phổ biến, giáo dục PL và theo dõi thi
hành PL năm 2019 của ngành GD&ĐT TPBG)
Ngày ban hành: (13/02/2019)
  Số  
: Số 54/KH­GDDT



Tên: (CV Số 54-GDDT - Tổ chức các hoạt động hưởng ứng Chiến dịch giờ trái đất năm
2019)
Ngày ban hành: (12/02/2019)
  Số  
: số 539.GDDT



Tên: (CV số 539.GDDT- Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trước, trong và sau tết NĐ Kỷ hợi
năm 2019)
Ngày ban hành: (20/12/2018)
  Số  

: số 45.KH­GDDT



Tên: (KH số 45.KH-GDDT- KH XD môi trường GDAT, lành mạnh, thân thiện, phòng chống
bạo lực học đường trong nhà trường năm 2019)
Ngày ban hành: (20/12/2018)
  Số  
: số 537.GDDT



Tên: (CV số 537.GDDT-Tăng cường công tác đảm bảo và báo cáo KQXD trường họcan
toàn về ANTT)
Ngày ban hành: (19/12/2018)
  Số  
: 462/GDDT



Tên: (CV số 462.GDDT- Tổ chức KN 60 năm ngày QT Hiến chương các nhà giáo và 36
năm ngày Nhà giáo VN 20.11)
Ngày ban hành: (06/11/2018)
  Số  
: KH số 35.KH
Tên: (KH số 35.KH kiểm tra chuyên nghành giáo dục và hướng dẫn kiểm tra nội bộ
trường họcnăm học 2018-2019)





Ngày ban hành: (20/09/2018)
  Số  
: số 32.KH­GDDT



Tên: (KH số 32.KH-GDDT- KH chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khảo thí và kiểm định chất
lượng GD năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (18/09/2018)
  Số  
: số 30.KH­GDDT



Tên: (KH số 30.KH-GDDT- KH chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ GDMN năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (17/09/2018)
Tên: (KH số 12.KH-GDDT- KH tổ chức hội thi XD MT GD lấy trẻ làm trung tâm
trong các CSGD MN năm học 2017- 2018)
Ngày ban hành: (18/03/2018)
  Số  
: CV số ­559.GDDT



Tên: (CV số -559.GDDT-Chủ động phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: CV số 554.GDĐT­HD




Tên: (CV số 554.GDĐT-HD sơ kết học kỳ I năm học 2017-2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: số 129­GDĐT



Tên: (CV số 129-GDĐT- V.v đánh giá, phân loại CB, GV, NV năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (29/03/2019)
  Số  
: CV 5942 BGDĐT­QLCL



Tên: (CV 5942 HD tư đánh gia và đánh gia ngoài trường Mầm Non)
Ngày ban hành: (10/03/2019)
  Số  
: Số 03/KH­GDĐT



Tên: (KH số 03.KH chỉ đạo và thực hiện công tác phổ biến, giáo dục PL và theo dõi thi
hành PL năm 2019 của ngành GD&ĐT TPBG)
Ngày ban hành: (13/02/2019)
  Số  
: Số 54/KH­GDDT




Tên: (CV Số 54-GDDT - Tổ chức các hoạt động hưởng ứng Chiến dịch giờ trái đất năm
2019)
Ngày ban hành: (12/02/2019)
  Số  
: số 539.GDDT



Tên: (CV số 539.GDDT- Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trước, trong và sau tết NĐ Kỷ hợi
năm 2019)
Ngày ban hành: (20/12/2018)
  Số  
: số 45.KH­GDDT



Tên: (KH số 45.KH-GDDT- KH XD môi trường GDAT, lành mạnh, thân thiện, phòng chống
bạo lực học đường trong nhà trường năm 2019)
Ngày ban hành: (20/12/2018)
  Số  
: số 537.GDDT






Tên: (CV số 537.GDDT-Tăng cường công tác đảm bảo và báo cáo KQXD trường họcan
toàn về ANTT)

Ngày ban hành: (19/12/2018)
  Số  
: 462/GDDT



Tên: (CV số 462.GDDT- Tổ chức KN 60 năm ngày QT Hiến chương các nhà giáo và 36
năm ngày Nhà giáo VN 20.11)
Ngày ban hành: (06/11/2018)
  Số  
: KH số 35.KH



Tên: (KH số 35.KH kiểm tra chuyên nghành giáo dục và hướng dẫn kiểm tra nội bộ
trường họcnăm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (20/09/2018)
  Số  
: số 32.KH­GDDT



Tên: (KH số 32.KH-GDDT- KH chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khảo thí và kiểm định chất
lượng GD năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (18/09/2018)
  Số  
: số 30.KH­GDDT




Tên: (KH số 30.KH-GDDT- KH chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ GDMN năm học 2018-2019)
Ngày ban hành: (17/09/2018)
Tên: (KH số 12.KH-GDDT- KH tổ chức hội thi XD MT GD lấy trẻ làm trung tâm
trong các CSGD MN năm học 2017- 2018)
Ngày ban hành: (18/03/2018)
  Số  
: CV số ­559.GDDT



Tên: (CV số -559.GDDT-Chủ động phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: CV số 554.GDĐT­HD



Tên: (CV số 554.GDĐT-HD sơ kết học kỳ I năm học 2017-2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
TIN ĐỌC NHIỀU

Trẻ bị bỏng dạ (thủy đậu) : nguyên nhân và cách điều trị
GIAO AN THỂ DỤC: CHUYỀN BẮT BÓNG QUA ĐẦU, QUA CHÂN
SKKN“ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt
động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”
GIÁO ÁN THỂ DỤC: BẬT CHỤM TÁCH CHÂN VÀO 5 Ô
Trang trí lớp - tạo môi trường mở cho trẻ trải nghiệm khám phá
SKKN: “Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu
giáo 3-4 tuổi”



LIÊN KẾT WEBSITE
               

THỐNG KÊ TRUY CẬP
Hôm nay :539
Hôm qua :645
Tháng 01 :28.706
Năm 2020 :28.706



THÔNG BÁO, PHỔ BIẾN
  Số  
: Số 156­GDDT



Tên: (CV Số 156-GDDT- Hiện tượng Búp bê Kuman Thong)
Ngày ban hành: (16/04/2019)
  Số  
: CV số 554.GDĐT­HD



Tên: (CV số 554.GDĐT-HD sơ kết học kỳ I năm học 2017-2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: CV số ­559.GDDT




Tên: (CV số -559.GDDT-Chủ động phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: Số 156­GDDT



Tên: (CV Số 156-GDDT- Hiện tượng Búp bê Kuman Thong)
Ngày ban hành: (16/04/2019)
  Số  
: CV số 554.GDĐT­HD



Tên: (CV số 554.GDĐT-HD sơ kết học kỳ I năm học 2017-2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)
  Số  
: CV số ­559.GDDT
Tên: (CV số -559.GDDT-Chủ động phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2018)
Ngày ban hành: (29/12/2017) ­ Ngày hiệu lực: (29/12/2017)


Tài nguyên



×