Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.96 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ Ý NGHĨA TIÊN LƯỢNG CỦA TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO Ở TRẺ EM
Võ Thị Thanh Trúc*, Cai Thị Thu Ngân*, Nguyễn Thị Mỹ Hòa**, Huỳnh Nghĩa*, Nguyễn Phương Liên*,
Phù Chí Dũng*

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trong điều trị
bệnh bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) ở trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Từ tháng 1-2010 đến 3-2012, tại BV TMHH, 95 bệnh nhân (BN) mới được chẩn
đoán bạch cầu cấp và được điều trị bằng phác đồ FRALLE 2000. Đánh giá TLTBAT bằng kỹ thuật tế bào dòng
chảy ở các thời điểm: sau giai đoạn tấn công (ngày 35), sau giai đoạn tăng cường 2, khi kết thúc điều trị (cuối giai
đoạn duy trì).
Kết quả: Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình LAIPs lúc chẩn đoán (kết hợp từ 2 dấu ấn trở lên).
Sau giai đoạn tấn công, BN có MRD < 0,01% và MRD từ 0,01% đến 0,1% có tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau
5 năm (RFS-5 năm) lần lượt là 86,7% ± 7% và 79,7 ± 6%, BN có MRD > 0,1% thì RFE-5 năm là 37,3 ± 10%
(p=0,001). Sau giai đoạn tăng cường II, BN có MRD < 0,01% có RFS-5 năm (87,5± 9%) cao hơn nhóm BN có
MRD từ 0,01% đến 0,1% và BN có MRD > 0,1% (82,0 ± 6% và 73,5 ± 8%) (p<0,05). Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau 5 năm giữa 3 nhóm MRD sau giai đoạn duy trì. Như vậy,
MRD sau giai tấn công có ý nghĩa tiên lượng đến thời gian sống còn của bệnh. Phân tích đa biến cho thấy chỉ có
MRD sau giai đoạn tấn công có ý nghĩa tiên lượng độc lập.
Kết luận: TLTBAT sau giai đoạn tấn công là một yếu tố có giá trị tiên lượng mạnh nhất và độc lập trong
bệnh BCCDL trẻ em. Việc đánh giá TLTBAT là rất quan trọng trong việc lựa chọn phác đồ điều trị bệnh
BCCDL.
Từ khóa: bạch cầu cấp dòng lympho trẻ em, tồn lưu tế bào ác tính

ABSTRACT


PROGNOSTIC SIGNIFICANCE OF MINIMAL RESIDUAL DISEASE DETECTED
BY FLOW CYTOMETRY IN CHILDHOOD ACUTE LYMPHOBLASTIC LEUKEMIA
Vo Thi Thanh Truc, Cai Thi Thu Ngan,Nguyen Thi My Hoa, Huynh Nghia, Nguyen Phuong Lien,
Phu Chi Dung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 101 - 107
Objective: Our study aimed to determine the prognostic significance of minimal residual disease (MRD)
detected by flow cytometry in treatment of childhood acute lymphoblastic leukemia (ALL).
Methods: A total of 95 patients were newly diagnosed with ALL and treated with FRALLE-2000 protocol
from January 2010 to March 2012 at Blood transfusion and hematology hospital in Ho Chi Minh city (Viet
Nam). MRD was measured by flow cytometry at the end of induction (day 35), end of 2nd intensification and end
of maintenance period.
Results: The leukemia-associated immunophenotypes could be identified in 87.4% (with more than 2
markers combination). Patients with end-induction MRD <0.01% had a 5-year relapsed-free-survival (RFS) of
86.7 ± 7% vs 79.7 ± 6% for those with MRD from 0.01% to 0.1% and 37.3 ± 10% for those with MRD≥0.1%
*Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học
**Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BSCKI. Cai Thị Thu Ngân ĐT: 0978 492 299
Email:

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học

101


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019

(p=0.001). Patients with end-intensification MRD < 0.01% had higher 5-year RFS (85.7 ± 9%) than those with
MRD from 0.01% to 0.1% and MRD ≥ 0.1% (82 ± 6% and 73.5 ± 8%) (p<0.05). No significant difference in 5year RFS between 3 groups of end-maintenance MRD (<0.01%; 0.01% to 0.1%; ≥0.1%). Only the end-induction
MRD status had a significant influence to 5-year overall survival (OS). Multivariate analysis demonstrated that

only MRD at the end of induction was an independent prognostic factor.
Conclusion: MRD detection by flow cytometry method at the end of induction chemotherapy is a strong and
independent outcome indicator in childhood ALL. This can be used for MRD-based risk stratification in order to
design a suitable protocol for childhood ALL treatment.
Key words: minimal residual disease, childhood acute lymphoblastic leukemia
TP. Hồ Chí Minh (BVTMHH) áp dụng kỹ thuật
ĐẶT VẤN ĐỀ
tế bào dòng chảy để đánh giá TLTBAT trong quá
Bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) là bệnh
trình điều trị. Tuy nhiên rất ít bài báo về vai trò
lý ác tính thường gặp nhất ở trẻ em và gây tử
và giá trị tiên lượng của xét nghiệm đánh giá
vong cao. Bên cạnh đại đa số các trẻ em đạt lui
TLTBAT trong điều trị bệnh BCCDL ở trẻ em. Vì
bệnh có tỷ lệ sống còn lâu dài, thì vẫn còn nhiều
vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với
trẻ em bị tái phát bệnh và tử vong. Có khoảng
mục tiêu tổng quát sau: “Đánh giá ý nghĩa tiên
20% trẻ em bị tái phát và tỷ lệ chữa khỏi sau khi
lượng của TLTBAT trong điều trị bệnh bạch cầu
tái phát chỉ còn 25-40%(5). Tái phát được cho là
cấp dòng lympho ở trẻ em”.
hậu quả từ những tế bào ác tính còn tồn đọng lại
ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
sau khi đạt “lui bệnh hoàn toàn” nhưng lại dưới
ngưỡng phát hiện bằng đánh giá tế bào học dưới
Đối tượng nghiên cứu
kính hiển vi. Phương pháp đo lường tồn lưu tế
Có 95 bệnh nhân (BN) thỏa tiêu chuẩn chọn
bào ác tính tối thiểu giúp đánh giá số lượng tế

mẫu với độ tuổi từ 0-15 tuổi, được điều trị bằng
bào ác tính còn tồn tại dai dẳng và là phương
phác đồ FRALLE 2000 tại khoa Nhi – BVTMHH
pháp có độ tin cậy, độ nhạy cao gấp 100 lần xét
từ 01/01/2010 đến 31/03/2012.
nghiệm tủy đồ(6). Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính
Tiêu chuẩn chọn bệnh
(TLTBAT) vào cuối giai đoạn tấn công có giá trị
Các BN thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: Các trẻ
tiên đoán dự hậu cho bệnh nhân. Những bệnh
em từ 0 đến 15 tuổi, bệnh mới (de novo) được
nhân có kết quả TLTBAT từ 10-3 trở lên thì có
chẩn đoán xác định bệnh BCCDL theo tiêu
nguy cơ tái phát tăng hơn 10,5 lần khi so sánh
chuẩn WHO, bệnh chưa được điều trị gì trước
với nhóm có TLTBAT dưới 10-3 (sau khi đã điều
đó, được điều trị bằng phác đồ FRALLE-2000,
chỉnh theo phân nhóm nguy cơ và phân nhóm
đạt lui bệnh hoàn toàn sau giai đoạn tấn công
điều trị)(11). Ngoài các yếu tố nguy cơ đã biết như
(theo tiêu chuẩn WHO), được đánh giá TLTBAT
tuổi lúc chẩn đoán, giới tính, tình trạng bệnh (số
bằng kỹ thuật dòng chảy tế bào vào đủ 3 giai
lượng bạch cầu lúc chẩn đoán, kiểu hình miễn
đoạn: sau tấn công, sau tăng cường 2, sau kết
dịch, bất thường nhiễm sắc thể) và sự đáp ứng
thúc điều trị.
với hóa trị, thì TLTBAT đã được chứng minh là
Tiêu chuẩn loại trừ
yếu tố tiên lượng độc lập, có vai trò trong đánh

Không hội đủ các tiêu chuẩn chọn bệnh hoặc
giá hiệu quả điều trị và nguy cơ tái phát và định
có 1 trong các tiêu chuẩn sau: hồ sơ bệnh án
hướng điều trị cho các bệnh nhân(1,3,4,5). Ngày
không đầy đủ, rõ ràng, không điều trị đầy đủ
nay, phương pháp đánh giá TLTBAT đã và đang
các giai đoạn của phác đồ FRALLE-2000, bệnh
được sử dụng rộng rãi bằng nhiều kỹ thuật hiện
nhi được chẩn đoán bệnh BCCDL nhóm L3
đại với độ nhạy ngày càng cao và độ chuẩn hóa
(Burkitt) theo phân loại FAB, BCC biphenotype,
cao. Từ 2009, Bệnh viện Truyền máu Huyết học
trisomy 21, BCC thứ phát.

102

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Dựa vào hồ sơ bệnh án, chọn các bênh nhân
thỏa tiêu chí chọn mẫu.
Ghi nhận vào phiếu thu thập thông tin.
Các dữ liệu được nhập vào máy tính và phân
tích bằng chương trình Excel 2013 và SPSS 18.
Khi so sánh hai tỷ lệ dùng phép kiểm χ2.
Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.


KẾT QUẢ
Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình
LAIPs lúc chẩn đoán (kết hợp từ 2 dấu ấn trở
lên). 100% BN đạt CR sau giai đoạn tấn công. Tỷ
lệ tái phát sau đạt lui bệnh là 26,3%, trong đó:
Tỷ lệ BN tái phát rất sớm (tái phát trong
vòng 18 tháng sau khi chẩn đoán) chiếm đa số
(13,6%), kế đến là tái phát sớm (10,5%) và ít nhất
là tái phát muộn (2,2%).
Vị trí tái phát thường gặp nhất là tái phát
tủy đơn thuần (15,7%), kế đến là tái phát
TKTW đơn thuần (6,2%) và cuối cùng là tái
phát tinh hoàn và tái phát tủy phối hợp TKTW
(đều chiếm 2,2%).
Tỷ lệ tử vong trong suốt quá trình điều trị
là 16,8%.
Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính sau giai đoạn
tấn công, sau giai đoạn tăng cường II và sau duy
trì của nhóm nghiên cứu: Trong nghiên cứu
chúng tôi đã phân nhóm TLTBAT làm 3 nhóm:
nhóm TLTBAT thấp (TLTBAT <10-4), nhóm
TLTBAT trung bình (10-4≤ TLTBAT <10-3) và
nhóm TLTBAT cao (TLTBAT ≥10-3) (Bảng 1).
Bảng 1. Tồn lưu tế bào ác tính sau giai đoạn tấn
công, giai đoạn tăng cường II và duy trì
TLTBAT

Sau tấn
Sau tăng

Sau duy trì
công (n=95) cường II (n=85) (n=72)
n (%)
n (%)
n (%)
-4
TLTBAT <10
24(25,3)
14(16,5)
9(12,5)
-4
-3
10 ≤TLTBAT<10
47(49,4)
42(49,4)
42(58,3)
-3
TLTBAT ≥10
24(25,3)
29(34,1)
21(29,2)

Đa số các BN có TLTBAT dương (74,7%),
tuy nhiên chỉ có 25,3% BN có TLTBAT ở mức

Nghiên cứu Y học

cao (≥10-3).
Sau giai đoạn tăng cường 2 và giai đoạn duy
trì, tỷ lệ các BN có BAT âm tính (<10-4) thấp nhất

(16,5% và 12,5%) và giảm hơn rất nhiều so với
kết quả TLTBAT sau giai đoạn tấn công, tỷ lệ BN
có TLTBAT cao trên 10-3 lại tăng lên đáng kể
(34,1% và 29,2%).
Tồn lưu tế bào ác tính và tỷ lệ sống còn

Tỷ lệ sống sau 5 năm của nhóm nghiên cứu
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) và
tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm (DFS-5 năm)
cao (82,1 ± 4,0% và 71,2 ± 4,0%) (Hình 1).
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu
tế bào ác tính sau giai đoạn tấn công
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm ở các BN có
TLTBAT thấp thì cao hơn các BN có TLTBAT
trung bình và TLTBAT cao (p <0,05). TLTBAT
càng cao thì tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm càng
thấp. Tương tự BN có TLTBAT càng cao thì tỷ lệ
tái phát tích lũy sau 5 năm (CIR-5 năm) càng cao
(p=0,0001) (Hình 2).
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu
tế bào ác tính sau tăng cường II
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm ở các BN có
TLTBAT thấp cao hơn các BN có TLTBAT
trung bình và các BN TLTBAT cao (p> 0,05).
Tỷ lệ tái phát tích lũy sau 5 năm (CIR-5 năm)
của nhóm có TLTBAT ≥10-3 cao nhất trong 3
nhóm (p <0,05). Như vậy, TLTBAT sau giai
đoạn tăng cường II càng cao thì tỷ lệ tái phát
tích lũy càng cao (Hình 3).
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu

tế bào ác tính sau giai đoạn duy trì
Nhóm BN có TLTBAT trên 10-3 có tỷ lệ OS-5
năm thấp nhất và tỷ lệ CIR-5 năm cao nhất. Tuy
nhiên, các BN có TLTBAT từ 10-4 đến dưới 10-3 lại
có tỷ lệ OS-5 năm cao hơn các BN có TLTBAT
âm tính (<10-4). Sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p >0,05). Như vậy TLTBAT sau
giai đoạn duy trì không có mối liên quan có ý
nghĩa với tỷ lệ tái phát cũng như thời gian sống
còn của BN (Hình 4).

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học

103


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019

Nghiên cứu Y học

OS-5 naêm

DFS-5 naêm

100

100
82,1  4,0%

80


% soáng soùt

% soá ng soù t

80
60
40
20

71,2  4,0%

60
40
20

0

2

4

Naêm

6

0

2


4

6

Naêm

Hình 1. Kaplan- Meier. Thời gian sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) và thời gian sống không bệnh sau 5 năm
(DFS- 5 năm) của nhóm nghiên cứu

Hình 2. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và tỷ lệ tái phát tích lụy 5 năm (CIR-5 năm) theo phân nhóm
TLTBAT sau giai đoạn tấn công

Hình 3. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và CIR-5 năm theo phân nhóm TLTBAT sau giai đoạn tăng cường II

104

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019

Nghiên cứu Y học

Hình 4. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và CIR-5 năm theo phân nhóm TLTBAT sau giai đoạn duy trì

BÀN LUẬN

Tồn lưu tế bào ác tính

Kiểu hình miễn dịch (LAIPs)


TLTBAT sau giai đoạn tấn công
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ BN có TLTBAT âm
tính (< 10-4) sau giai đoạn tấn công còn thấp (chỉ
chiếm 25,3%), còn lại đa số BN có TLTBAT
dương (74,7%), tuy nhiên chỉ có 25,3% BN có
TLTBAT ở mức cao (≥10-3). Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi có khác biệt so với kết quả của các
nghiên cứu khác. Trong nghiên cứu của
Delbuono E(8) và Fronkova E, đa số BN có
TLTBAT âm tính sau giai đoạn tấn công và thấp
nhất là tỷ lệ BN có TLTBAT ở mức cao. Sự khác
biệt này có thể do kỹ thuật DCTB, do thiếu các
kháng thể mới và ổn định cho việc theo dõi
TLTBAT, cũng có thể do phác đồ điều trị khác
nhau. Tuy nhiên, xét về phương diện TLTBAT,
khoảng 2/3 số BN trong nhóm nghiên cứu của
chúng tôi có TLTBAT dưới 10-3, mà trong các
nghiên cứu hiện nay thì ngưỡng TLTBAT vượt
quá 10-3 mới cần thay đổi điều trị(4). Điều này
chứng tỏ phác đồ điều trị của chúng tôi vẫn có
hiệu quả lui bệnh về mặt TLTBAT tốt, tuy nhiên
vẫn chưa đạt được tối ưu (TLTBAT <10-4).
TLTBAT sau giai đoạn tấn công ảnh hưởng đến
sự sống còn, trong nghiên cứu chúng tôi tỷ lệ
sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) cao nhất ở
nhóm có TLTBAT <10-4 (91,7 ± 5%) và thấp nhất
ở nhóm có TLTBAT ≥ 10-3 (57,6 ± 10%) (p=0,002).
Tương tự, tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm


Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình
LAIPs lúc chẩn đoán. So sánh với các nghiên cứu
khác, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ BN có kiểu hình
LAIPs trong nghiên cứu của chúng tôi tôi thấp
hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của tác giả
Björklund E(2) và Fossat C(9) nhưng lại cao hơn
kết quả nghiên cứu của Counstan-Smith E(7). Kết
quả của chúng tôi tương đương với kết quả của
tác giả Delbuono E(8). Tỷ lệ BN không phát hiện
được LAIPs trong nghiên cứu của chúng tôi khá
cao (12,6%). Điều này có thể do nhiều yếu tố ảnh
hưởng như: thuốc, thay đổi kiểu hình miễn dịch,
xuất hiện kiểu hình mới, thiếu những dấu ấn
thích hợp có độ đặc hiệu, do kỹ thuật của phòng
xét nghiệm,…
Đáp ứng điều trị và tỷ lệ tái phát
100 % BN đạt lui bệnh sau giai đoạn tấn
công, có 25 26,3% tái phát sau khi đạt lui bệnh
hoàn toàn, tỷ lệ sống toàn bộ tích lũy sau 5 năm
(OS-5 năm) là 82,1 ± 4,0%, tỷ lệ sống không bệnh
tích lũy sau 5 năm (DFS-5 năm) là 71,2 ± 4,0%. Tỷ
lệ tái phát chung trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn kết quả nghiên cứu SJCRH của Pui CH
(11,7%) và nghiên cứu BFM-95 của Moricke A
(16,2%)(10,14). Sự khác biệt này có thể do khác biệt
về cỡ mẫu nghiên cứu, hoặc do phác đồ điều trị
có độ mạnh khác nhau.

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học


105


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019

(DFS-5 năm) cũng cao nhất ở nhóm có TLTBAT
<10-4 (86,7 ± 7%) và thấp nhất ở nhóm có
TLTBAT ≥10-3 (37,3 ± 10%) (p=0,0001). Kết quả
này cũng tương đồng với tác giả Bowman WP(6).
Có thể nói, TLTBAT sau giai đoạn tấn công là
yếu tố tiên lượng cho tỷ lệ sống sót cho các BN
BCCDL, TLTBAT càng cao thì tỷ lệ sống càng
thấp. Ngoài ra ngưỡng giá trị TLTBAT sau giai
đoạn tấn công có liên quan mật thiết đến tỷ lệ tái
phát tích lũy của các BN BCCDL, tỷ lệ này càng
tăng cao khi giá trị TLTBAT càng tăng dần.
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ CIR-5 năm thấp nhất ở
nhóm có TLTBAT <10-4 (13,3 ± 7%) và cao nhất ở
nhóm BN có TLTBAT ≥10-3 (62,7 ± 10%)
(p=0,0001). Kết quả này cũng tương tự với các
tác giả Counstan-Smith E, Paganin M, Stow
P(7,11,13). Như vậy, TLTBAT sau giai đoạn tấn công
là yếu tố tiên lượng mạnh nhất.
TLTBAT sau giai đoạn tăng cường II và sau khi
kết thúc điều trị
Ở cả hai giai đoạn, các BN có TLTBAT chủ
yếu thuộc nhóm từ 10-4 đến dưới 10-3, kế đến là
nhóm TLTBAT ≥10-3 và thấp nhất ở nhóm có

TLTBAT <10-4. Có thể nói tỷ lệ BN có TLTBAT
âm (<10-4) giảm dần ở các giai đoạn sau, chứng tỏ
một số BN có TLTBAT âm ở sau giai đoạn tấn
công nhưng chuyển thành dương tính ở những
giai đoạn sau. Phân tích tỷ lệ sống toàn bộ sau 5
năm (OS-5 năm), chúng tôi nhận thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm
TLTBAT ở cả hai giai đoạn điều trị.
Tuy nhiên, khi phân tích tỷ lệ sống không
bệnh sau 5 năm (DFS-5 năm) chúng tôi nhận
thấy: vào cuối giai đoạn tăng cường 2 (tuần 3637 kể từ lúc bắt đầu điều trị), tỷ lệ DFS-5 năm
của nhóm có TLTBAT <10-4 là cao nhất (85,7 ±
9%), kế đến là nhóm có TLTBAT từ 10-4 đến dưới
10-3 (82,0 ± 6%) và cuối cùng là nhóm có TLTBAT
≥10-3 (73,5 ± 8%) (p<0,05); vào cuối giai đoạn duy
trì, DFS-5 năm của cả 3 nhóm TLTBAT kể trên
lần lượt là 92,3 ± 4%, 87,5 ± 12% và 83,9 ± 8%
(p=0,58). Kết quả này cũng tương đồng với tác
giả Counstan-Smith E(7). Như vậy trong nghiên
cứu của chúng tôi TLTBAT sau giai đoạn tăng

106

cường 2 vẫn có ý nghĩa tiên lượng đối với tỷ lệ
DFS-5 năm, còn đối với TLTBAT sau giai đoạn
duy trì thì chúng tôi không tìm thấy ý nghĩa
thống kê nào.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy TLTBAT

sau giai đoạn tấn công là một yếu tố có giá trị
tiên lượng mạnh nhất và độc lập, không bị
tương tác bởi các yếu tố khác. Việc đánh giá
TLTBAT là rất quan trọng trong điều trị bệnh
BCCDL. TLTBAT giúp tiên lượng nguy cơ tái
phát và tỷ lệ sống còn cho các BN, giúp phân
nhóm nguy cơ để từ đó có thể điều chỉnh lại độ
nặng của phác đồ điều trị, nhằm nâng cao hiệu
quả, cải thiện dự hậu cho các BN nhưng cũng
làm giảm độc tính của hóa trị liệu, nâng cao chất
lượng sống cho các BN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.


Basso G, Veltroni M, Valsecchi MG, et al (2009). Risk of Relapse
of Childhood Acute Lymphoblastic Leukemia Is Predicted By
Flow Cytometric Measurement of Residual Disease on Day 15
Bone Marrow. Journal of Clinical Oncology, 27(31): 5168-5174.
Bjorklund E, Mazur J, Soderhll S, et al (2003). Flow cytometric
follow-up of minimal residual disease in bone marrow gives
prognostic information in children with acute lymphoblastic
leukemia. Leukemia, 17(1):138-148.
Borowitz MJ, Devidas M, Hunger SP, et al (2008). Clinical
significance of minimal residual disease in childhood acute
lymphoblastic leukemia and its relationship to other prognostic
factors: a Children's Oncology Group study. Blood, 111:54775485.
Bowman WP, Larsen EL, Devidas M, et al (2011). Augmented
Therapy Improves Outcome For Pediatric High Risk Acute
Lymphocytic Leukemia: Results Of Children’s Oncology Group
Trial P9906. Pediatric Blood and Cancer, 57(4):569-577.
Bùi Ngọc Lan (2007). Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng bệnh
lơxêmi cấp dòng lympho và điều trị thể nguy cơ không cao ở trẻ
em. Luận án Tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
Conter V, Bartram CR, Valsecchi MG, Schrauder A, PanzerGrümayer R, Möricke A, et al (2010). Molecular response to
treatment redefines all prognostic factors in children and
adolescents with B-cell precursor acute lymphoblastic leukemia:
results in 3184 patients of the AIEOP-BFM ALL 2000 study.
Blood, 115(16): 3206-3214.
Coustan-Smith E, Sancho J, Hancock ML, et al (2000). Clinical
importance of minimal residual disease in childhood acute
lymphoblastic leukemia. Blood, 96(8):2691-2696.
Delbuono E, Maekawa YH, Latorre MRDO, et al (2008).
Simplified flow cytometric assay to detect minimal residual

disease in childhood with acute lymphoblastic leukemia. Revista
Brasileira de Hematologia e Hemoterapia, 30:281-286.
Fossat C, Roussel M, Arnoux I, et al (2014). Methodological
aspects of minimal residual disease assessment by flow

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
cytometry in acute lymphoblastic leukemia: A french
multicenter study. Cytometry Part B: Clinical Cytometry, 88(1):2129.
10. Moricke A, Reiter A, Zimmermann M, et al (2008). Riskadjusted therapy of acute lymphoblastic leukemia can decrease
treatment burden and improve survival: treatment results of
2169 unselected pediatric and adolescent patients enrolled in the
trial ALL-BFM 95. Blood, 111:4477-4489.
11. Paganin M, Fabbri G, Conter V, et al (2014). Postinduction
Minimal Residual Disease Monitoring by Polymerase Chain
Reaction in Children with Acute Lymphoblastic Leukemia.
Journal of Clinical Oncology. 32(31):3553-3558.
12. Pui CH, Sandlund JT, Pei D, et al (2004). Improved Outcome for
Children with Acute Lymphoblastic Leukemia: Results of Total
Therapy Study XIIIB at St. Jude Children's Research Hospital.
Blood, 104:2690-2696.

Nghiên cứu Y học

13. Stow P, Key L, Chen X, et al (2010). Clinical significance of low
levels of minimal residual disease at the end of remission
induction therapy in childhood acute lymphoblastic leukemia.
Blood, 115:4657-4663.

14. Szczepanski T, Dawidowska M, Derwich K (2012). Monitoring
of minimal residual disease in acute lymphoblastic leukemia. In
Witt M., et al. (Eds.), Molecular aspects of hematologic
malignancies, Principles and practice. Verlag Berlin Heidelberg,
183-197.

Ngày nhận bài báo:

27/08/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

27/08/2019

Ngày bài báo được đăng:

15/10/2019

Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học

107



×